Xem mẫu

  1. MỘT VÀI Ý KIẾN ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG HỆ THỐNG THƯ VIỆN SỐ THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI Phạm Quang Quyền1* Tóm tắt: Thông tin khoa học xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần vào giáo dục con người trong mọi thời đại, đồng thời là một trong những kênh để quảng bá về văn hóa, con người Việt Nam. Nguồn tin khoa học xã hội có những tư liệu đóng vai trò di sản văn hóa, có những tư liệu quý hiếm, độc bản cần được số hóa nhằm bảo tồn và tăng khả năng phục vụ nghiên cứu. Tổ chức tốt hệ thống nguồn tư liệu số khoa học xã hội sẽ góp phần thực hiện các mục tiêu này. Vì vậy, tác giả bài viết với mục đích tham góp thêm một số ý kiến trong việc triển khai hệ thống thư viện số nguồn tài nguyên thông tin khoa học xã hội thông qua việc tổng hợp và phân tích một số tư liệu, phỏng vấn các chuyên gia trong lĩnh vực thông tin thư viện để làm cơ sở đưa ra ý kiến đề xuất. Từ khóa: Thư viện số khoa học xã hội; Hệ thống thư viện số; Mô hình hệ thống thư viện số. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Thời gian qua, ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào trong hoạt động thông tin - thư viện đã và đang phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu. Với sự phát triển của mạng kết nối ngày càng “thông minh” trong bối cảnh thế giới đang bước sang nền công nghiệp lần thứ 4, các thư viện hiện đại trong đó thư viện số là một trong những hạt nhân quan trọng đã và đang phát triển theo xu hướng kết nối, chia sẻ. Hệ quả của việc phát triển đó là hình thành các “trung tâm” thông * Thạc sĩ, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
  2. MỘT VÀI Ý KIẾN ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG HỆ THỐNG THƯ VIỆN SỐ THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI 753 tin, dữ liệu, tri thức. Trong đó, khái niệm “trung tâm” đã có sự chuyển dịch từ nghĩa gốc là sự tập trung ở một vị trí, một không gian địa lý có tính chất vật lý đã mở rộng theo nội hàm rộng hơn, đó là sự tiếp cận tập trung về phương diện xử lý, phương diện kết nối theo thời gian thực để thực hiện có hiệu quả về những tác vụ cụ thể mà không còn ảnh hưởng bởi không gian, thời gian. Kết quả của quá trình xây dựng và phát triển thư viện số đã đem lại được những lợi ích rất rõ rệt, thể hiện qua thực tiễn hoạt động cũng như được đúc kết trở thành một điều riêng - Điều 31 của Luật Thư viện [1]. Từ việc ứng dụng trong quản trị các bộ sưu tập số về các tài liệu trong hoạt động của các thư viện truyền thống trước đây, xuất hiện các thư viện về sách số, báo, tạp chí số, các sản phẩm thông tin - thư viện khác sang dạng số như bài trích, dữ liệu, số liệu,... thì việc ứng dụng thư viện số đã sang hướng quản trị các nguồn tin số phong phú, đa dạng hơn như: Trong lĩnh vực văn hóa, lịch sử đã xuất hiện trong việc quản trị các nguồn dữ liệu di sản văn hóa số, hiện vật bảo tàng số; trong lĩnh vực lưu trữ quản lý các bộ sưu tập số về tư liệu lưu trữ; trong lĩnh vực nhân lực xuất hiện các thư viện số về lý lịch cán bộ, lý lịch khoa học,... 2. NỘI DUNG 2.1. Một số đặc điểm của nguồn thông tin khoa học xã hội Nguồn thông tin khoa học xã hội là một bộ phận cấu thành của hệ sinh thái thông tin của mỗi quốc gia, dân tộc, là biểu trưng xuyên suốt cho bề dày lịch sử phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Ý thức về vai trò của vấn đề này, Đảng và Nhà nước đã cụ thể hóa bằng nhiều văn bản chỉ đạo khác nhau, nhất là trong giai đoạn khoảng 20 năm trở lại đây khi tốc độ phát triển rất nhanh của Internet tại Việt Nam. Gần nhất, trong mục b, mục c khoản 1, Điều 5, Chương 1 của Luật Thư viện về: Chính sách của Nhà nước về phát triển sự nghiệp thư viện, nêu rõ: “b) Hiện đại hóa thư viện; xây dựng thư viện số, tài nguyên thông tin dùng chung, tài nguyên thông tin mở; liên thông thư viện trong nước và nước ngoài; c) Sưu tầm, bảo quản và phát huy giá trị tài liệu cổ, quý hiếm, các bộ sưu tập tài liệu có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học” [1]. Trên thực tế, khoảng thời
  3. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 754 gian về lịch sử xuất hiện và phát triển của các quốc gia cơ bản tương tự nhau. Tuy nhiên, kho tàng thông tin, dữ liệu về những minh chứng lịch sử qua các thời kỳ lại khác nhau. Trong đó, hầu hết tất cả các dân tộc đều không thể lưu trữ được toàn bộ các tư liệu giá trị lịch sử của dân tộc mình do nhiều nguyên nhân khác nhau: chiến tranh, thiên tai,... và tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lưu trữ và bảo quản. Kỹ thuật truyền tin của con người trong xã hội hiện đại đã đạt được những thành tựu lớn và có thể khái quát lịch sử phát triển gồm 4 giai đoạn theo trình tự thời gian từ: tiếng nói; chữ viết (trong đó có hệ tượng hình và sau đó là chữ cái); nghề in cho đến ngày nay là công nghệ thông tin hiện đại. Việc phân nhóm thông tin khoa học xã hội và nhân văn với nhóm thông tin khoa học tự nhiên và kỹ thuật nhằm mục đích để quản lý hiệu quả hơn các quá trình thông tin này. Nguồn thông tin khoa học xã hội có tính chất đặc thù so với các nguồn thông tin khác, cụ thể, theo cách phân chia các nguồn thông tin khoa học xã hội và nhân văn với nguồn thông tin khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Thông tin khoa học xã hội có thể nhận thấy rõ rệt có thể phân chia thành hai bộ phận. Thứ nhất: đó là các nguồn tư liệu, thông tin có ý nghĩa lịch sử phát triển của quốc gia, dân tộc qua các thời kỳ, có những bộ phận tư liệu có tính chất quý hiếm, thậm chí độc bản, ví như các tư liệu về bản đồ cổ, các bản hương ước chép tay,...; Thứ hai: đó là các nguồn tin hiện hành nghiên cứu về khoa học xã hội của các nhà khoa học xã hội, hình thành một bộ phận tư liệu xám. Nguồn tư liệu này mang tính chất đặc thù, theo PGS.TS. Mai Hà cho biết: có những thông tin mang tính chỉ đạo điều hành các nhiệm vụ chính trị, vì vậy phải đảm bảo được truyền tải đến đúng, đủ đối tượng tiếp nhận thông tin. Xét cho cùng, đó là các dạng thông tin khác nhau, trong các lĩnh vực của đời sống xã hội đều thuộc thông tin xã hội. Để làm rõ hơn điều đó, trong bài viết của tác giả Vũ Văn Nhật đưa ra khái niệm về thông tin xã hội như sau: “Thông tin xã hội là tri thức được diễn đạt dưới hình thức các ký hiệu mà các thành viên xã hội có thể hiểu được và có khả năng làm biến đổi trình độ hiểu biết của họ về thế giới khách quan và cũng có thể làm thay đổi tình trạng hệ kiến thức của họ (Thesaurus của họ)” [2]. Để có căn cứ cho đề xuất về mô hình hệ thống thư viện số thông tin khoa học xã hội, tác giả bài viết xin đưa ra 3 luận điểm như sau:
  4. MỘT VÀI Ý KIẾN ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG HỆ THỐNG THƯ VIỆN SỐ THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI 755 Thứ nhất: Về khối lượng, hình thức lưu trữ và các thông tin mới về khoa học xã hội: Tác giả xem xét trên ví dụ điển hình là hệ thống thư viện của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam với vai trò là “Thư viện quốc gia về khoa học xã hội”1 - nơi lưu trữ khối lượng lớn, giá trị đặc biệt về các nguồn tin khoa học xã hội của quốc gia, đa dạng các hình thức thông tin như: hương ước, hiện vật, các bản chép tay, tranh ảnh, bản đồ, microfilm,... và nội dung thông tin được trình bày bởi nhiều ngôn ngữ thuộc các hệ khác nhau: Theo số liệu khảo sát của một đơn vị tư vấn độc lập dưới sự giám sát của Viện Thông tin khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam cho một số kết quả như sau: Tổng số đầu tài liệu truyền thống của 33 thư viện thành viên là: 1.333.757 tên tài liệu với nhiều ngôn ngữ và tổng số bản là: 2.268.113. Ngoài ra, còn có rất nhiều các dạng tư liệu chứa đựng thông tin khoa học xã hội đặc thù, có giá trị lịch sử và văn hóa của dân tộc như: Thư viện Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành có 10.000 bản vẽ, 200.000 ảnh khổ lớn, Thư viện Viện Khảo cổ học có 907 ảnh, 702 bộ hồ sơ khảo cổ học, 2.300 bản đồ khổ lớn; Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm sở hữu 60.000 thác bản văn bia, 46.000 cuốn sách Hán Nôm,... [7]. Ngoài ra, các nguồn thông tin khoa học xã hội còn thường xuyên, liên tục được tạo ra và bổ sung vào trong kho tàng thông tin khoa học xã hội. Ngay tại các thư viện thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, trong bài nghiên cứu của mình tác giả Nguyễn Thị Minh Trung cũng đưa ra các nguồn do các thư viện trong hệ thống tiến hành bổ sung theo định kỳ hàng năm, hoặc cũng nằm trong cơ cấu tổ chức của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam còn có một đội ngũ gồm hơn 2.000 nhà khoa học đầu ngành về khoa học xã hội của Việt Nam - nguồn lực tạo ra một lượng thông tin khoa học xã hội có giá trị và đồ sộ của nước nhà. Trong đó, với số các đơn vị chuyên trách là 34 tạp chí do Viện Hàn lâm chủ quản chưa kể đến các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ và cấp quốc gia. Thứ hai: Yêu cầu về việc xử lý nguồn tin khoa học xã hội. Với đặc thù của các dạng thông tin khoa học xã hội, đặc thù về quá trình thông 1 https://vass.gov.vn/noidung/gioithieu/cocautochuc/Pages/thong-tin-don- vi.aspx?ItemID=171&PostID=74 (truy cập 23h45 ngày 26-8-2020)
  5. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 756 tin khoa học xã hội từ đầu vào của nguồn thông tin và đội ngũ những người tham gia trong quá trình tạo ra các nguồn thông tin khoa học xã hội, đòi hỏi quá trình xử lý nghiệp vụ thông tin phải đặt ra những yêu cầu để đáp ứng. Từ những khâu đầu tiên trong quá trình xử lý về hình thức, nội dung (xử lý kỹ thuật nghiệp vụ) các nguồn thông tin xã hội cho đến những vấn đề kỹ thuật như đánh chỉ mục (index) các dạng ngôn ngữ khác nhau và đánh chỉ mục cho những dạng tư liệu đặc biệt (bản đồ, hương ước, sách chép tay, cổ vật, hiện vật,...) và quản lý hồ sơ khoa học, cho đến quản lý mối quan hệ về vai trò của các nhà khoa học trong hệ thống với các sản phẩm của (tác giả, người cộng tác, biên tập,...) và quản lý đánh giá về hiệu quả đối với các sản phẩm khoa học của họ - trắc lượng các công trình khoa học thông qua việc trích dẫn và sử dụng của cộng đồng người dùng tin. Đồng thời, thông tin khoa học xã hội còn gắn kết chặt chẽ với ngôn ngữ tự nhiên, đặc điểm văn hóa các dân tộc, vùng miền,... vì vậy các công cụ xử lý từ vựng hỗ trợ trong quá trình xây dựng, tổ chức nguồn thông tin (biên mục và xử lý) cũng như quá trình sử dụng của người dùng tin đòi hỏi những công cụ hỗ trợ xử lý. Thứ ba: Yêu cầu về các tiện ích tích hợp đối với người dùng tin trong quá trình sử dụng sản phẩm và dịch vụ thông tin khoa học xã hội. Ở góc độ người dùng tin khoa học xã hội sẽ có cộng đồng mở rộng và nhiều trình độ cảm thụ khác nhau, phục vụ nhiều mục đích khác nhau trong việc sử dụng thông tin khoa học xã hội, từ giải trí cho đến tìm hiểu và sâu sắc hơn là nghiên cứu chuyên sâu ở những cấp độ khác nhau dành cho các nhà khoa học, các chuyên gia trong từng lĩnh vực cụ thể. Vì vậy, hệ thống thông tin thư viện số khoa học xã hội cũng cần có những công cụ, tiện ích tích hợp cho người dùng để họ thuận tiện trong quá trình sử dụng các dịch vụ thông tin, đồng thời họ cũng có thể tạo ra những sản phẩm thông tin phái sinh trong quá trình sử dụng (như các công cụ hỗ trợ dịch tư liệu đa ngôn ngữ). Việc kết xuất các sản phẩm đầu ra theo những mục tiêu từng nhiệm vụ cụ thể của người dùng tin và phù hợp với xu hướng, thói quen của người dùng sẽ là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả, hiệu quả sử dụng thông tin.
  6. MỘT VÀI Ý KIẾN ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG HỆ THỐNG THƯ VIỆN SỐ THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI 757 Thiết lập việc kết nối hệ thống thư viện số đặt ra yêu cầu tất yếu là mô hình trung tâm - thành viên và khái niệm trung tâm được hiểu theo nghĩa rộng: không chỉ với ý nghĩa là tập trung tại một vị trí địa lý thuần túy, hoặc theo nghĩa một bộ phận, một đơn vị theo tổ chức hành chính mà đó còn là sự thể hiện đồng bộ hóa toàn bộ các thành tố cấu thành hệ thống theo thời gian thực. Các thành viên trong hệ thống thư viện số đều có khả năng làm việc và sử dụng “ngang hàng” nhưng có mức độ khác nhau trên hệ thống theo thời gian thực (phân quyền - phân cấp). Trước khi trình bày nội dung đề xuất, tác giả xin trích dẫn một số khái niệm liên quan: - Mô hình: là một sự trình bày có tính quy giản về một (số) khía cạnh nào đó của thế giới vật chất (vật thể, tình huống, quy trình,…)1 - Hệ thống thông tin: Hệ thống thông tin là hệ thống sử dụng nguồn lực con người và công nghệ thông tin để tiếp nhận các nguồn dữ liệu như yếu tố đầu vào và xử lý chúng thành các sản phẩm thông tin là yếu tố đầu ra [4]. Ngoài ra, khái niệm hệ thống thông tin được tác giả Vladimir Zwass đưa ra với việc phân tích từ khái niệm cho đến việc ứng dụng trong các lĩnh vực khác nhau của hoạt động thông tin dựa trên hệ thống thông tin, trong đó tác giả có trình bày về ứng dụng trong lĩnh vực học tập, nghiên cứu khoa học - với ý nghĩa hệ thống thông tin khoa học: Hệ thống thông tin là hệ thống tích hợp các bộ phận cấu thành thực hiện việc thu thập, lưu trữ, xử lý dữ liệu và cung cấp thông tin, tri thức và các sản phẩm thông tin dạng số khác được ứng dụng trong các lĩnh vực khác nhau như thương mại, thị trường, kinh doanh điện tử,... người dùng tin cá nhân hóa sử dụng ứng dụng của hệ thống thông tin trên môi trường mạng toàn cầu internet để thực hiện phần lớn các hoạt động sống của họ: học tập, nghiên cứu, dịch vụ ngân hàng và giải trí,...[8, tr.1] - Thư viện hiện đại: thư viện hiện đại là một thư viện gắn liền với công nghệ thông tin. Thư viện hiện đại là nơi có thể đáp ứng nhu cầu 1 http://www.fetp.edu.vn/cache/MPP8-522-L05V-Su%20dung%20mo%20 hinh%20trong%20phan%20tich%20chinh%20sach--Vu%20Thanh%20Tu%20 Anh-2016-07-19-13544313.pdf (truy cập 15h16, ngày 12-10-2019)
  7. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 758 thông tin của người dùng một cách dễ dàng và nhanh chóng. Thư viện hiện đại không hoạt động đơn độc mà có sự liên kết để hình thành một mạng lưới, hệ thống. Hệ thống này có thể gồm các thư viện cùng ngành, cùng chức năng, hay cùng một khu vực địa lý [5]. 2.2. Đề xuất giải pháp kết nối hệ thống thư viện số khoa học xã hội Tại Việt Nam, từ những năm 2000 đến nay, các thư viện đã xây dựng được nền tảng hạ tầng về ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, ngày càng đạt các cấp độ ứng dụng sâu hơn, đến nay đã tạo được nền tảng để phát triển sang “cấp độ” kết nối để hình thành hệ thống thư viện số. Trong lĩnh vực khoa học xã hội, hệ thống thư viện của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam là hệ thống lớn nhất cả nước về tài nguyên thông tin khoa học xã hội và nhân văn đã có những định hướng chỉ đạo cho mục tiêu phát triển, điều đó thể hiện trong lời phát biểu ngày 23/7/2003 của Viện trưởng Viện Thông tin Khoa học Xã hội (nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam): “Hệ thống thông tin cần được hiện đại hóa ngang tầm khu vực”1 và xuyên suốt qua các thế hệ lãnh đạo cho đến nay đã đạt được những thành tựu nhất định. Việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo ra các dịch vụ mới trong hoạt động thông tin - thư viện, trong đó có các dịch vụ thư viện số mang lại; trong đó, xu hướng kết nối các thư viện số dùng chung nhằm tăng cường sự phối hợp cung cấp các dịch vụ tiện ích cho người dùng tin, tính tương tác giữa các bên trong hoạt động thông tin – thư viện đa chiều, đa thời gian,… tương tác 24/7 hoặc tương tác theo thời gian thực (chat) hoặc không theo thời gian thực (diễn đàn),… Để kết nối và chia sẻ hiệu quả từ các bên (người quản trị hệ thống, nhóm tác nghiệp trong thư viện số, người dùng tin), hệ thống thư viện số phải đảm bảo các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế về chuyên ngành. Trong đó, quan trọng nhất là hệ thống cần cung cấp các công cụ tiện ích, tạo thuận lợi tối đa đối với người dùng tin và đội ngũ tác nghiệp trong toàn hệ thống, cung cấp các “không gian” tương tác trong toàn hệ thống nhằm tăng cường việc 1 Vương Toàn (2016), Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong đổi mới hoạt động thư viện, NXB Thông tin và Truyền thông, tr.119.
  8. MỘT VÀI Ý KIẾN ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG HỆ THỐNG THƯ VIỆN SỐ THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI 759 giao lưu chia sẻ kinh nghiệm trong tổ chức hoạt động thông tin - thư viện, chia sẻ những kinh nghiệm mới, chia sẻ kết quả hoạt động nhằm tối ưu hóa công việc. Đối với nhiệm vụ tác nghiệp hệ thống thư viện số cần cung cấp các công cụ để tối ưu hóa việc thu thập và chia sẻ thông tin - chia sẻ kết quả xử lý thông tin (xử lý 1 lần, 1 vị trí không thực hiện công việc trùng lặp giữa các đơn vị với nhau và sử dụng nhiều lần, nhiều kết quả đầu ra theo yêu cầu cụ thể). Tự động hóa quá trình thu thập thông tin và “thông minh” hóa quá trình quản trị như phát hiện trùng bản: giả sử các đơn vị trong hệ thống cùng cập nhật dữ liệu trùng nhau, hệ thống sẽ đưa ra cảnh báo trùng; hệ thống có khả năng hỗ trợ việc biên mục trên các tiêu chuẩn khác nhau, có khả năng chuyển đổi giữa các tiêu chuẩn khác nhau để đảm bảo cho người thực hiện xây dựng nguồn dữ liệu thư viện số có thể dễ dàng thực hiện công việc biên mục dữ liệu và tổ chức dữ liệu trên hệ thống. Quá trình phát triển thư viện số thời gian qua đã hình thành các “kho dữ liệu số - repository” là hạt nhân hình thành các trung tâm dữ liệu số và mức độ cao là các Trung tâm Tri thức số (Digital Knowledge Hub). Những kho dữ liệu này ngày càng tăng nhanh về số lượng cũng như khối lượng thông tin trong các kho dữ liệu đó. Vì vậy, xuất hiện các phương tiện và công cụ giúp người dùng tin tiếp cận dễ dàng, nhanh chóng với những kho dữ liệu này (các công cụ tìm kiếm: Google, yahoo, bamboo,…). Các công cụ đó thực hiện theo vai trò cổng giao diện tìm kiếm tập trung có nhiệm vụ thu thập các nguồn dữ liệu phân tán từ các tổ chức, cá nhân ở khắp nơi trên thế giới thông qua mạng Internet. Tuy nhiên, cũng chính vì lý do đó, nên các công cụ này vẫn còn đang thiếu tiện ích để kiểm duyệt các nguồn thông tin thu thập được. Vì vậy, hệ thống các thư viện số khoa học xã hội sẽ đóng vai trò quan trọng trong môi trường Internet cung cấp những nguồn thông tin xác thực phục vụ trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, đồng thời là cổng thông tin giới thiệu cộng đồng quốc tế. Dựa trên đặc điểm nguồn thông tin khoa học xã hội và sự phân tích nêu trên, việc triển khai kết nối hệ thống thư viện số có thể thực hiện theo một trong hai mô hình sau:
  9. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 760 Mô hình 1: Xây dựng tập trung toàn bộ từ hạ tầng phần cứng, cài đặt phần mềm tại trung tâm sau đó thiết lập cơ chế, chính sách phát triển nguồn lực thông tin theo hướng phân quyền cho các đơn vị trực thuộc để thực hiện nhiệm vụ duy trì, phát triển nguồn lực thông tin thuộc nhánh của mình, từ đó đóng góp vào nguồn lực thông tin trong hệ thống. Ưu điểm: Áp dụng mô hình này, thì việc tổ chức dữ liệu sẽ tập trung, kiểm soát cao nhất trong một khu vực cụ thể. Tiết kiệm không gian, không bị phân tán về lưu trữ dữ liệu (host). Các thành viên trong hệ thống đều nắm bắt được nguồn lực chung để tránh xử lý trùng và thu thập thông tin trùng lặp. Hạn chế: Yêu cầu cao hơn về cơ sở hạ tầng thông tin và mạng, nhất là đối với hệ thống phần mềm trong chức năng quản trị và phân quyền cho nhóm các thành viên tác nghiệp. Phần mềm cần phải cung cấp công cụ tạo lập các chi nhánh (thành viên) độc lập tương đối nhưng có phương thức hoạt động như một chỉnh thể. Mô hình 2: Từng đơn vị trực thuộc tự triển khai hệ thống riêng và xây dựng các cơ sở dữ liệu riêng. Sau đó, bộ phận trung tâm triển khai tích hợp hệ thống (xây dựng cổng thông tin tìm kiếm tập trung) đến toàn bộ các thư viện số, các cơ sở dữ liệu của các đơn vị trực thuộc. Ưu điểm: Yêu cầu về hạ tầng thông tin được san sẻ trong hệ thống (mỗi bộ phận trang bị hạ tầng riêng). Việc triển khai độc lập nên không bị ảnh hưởng nếu gặp sự cố trong một hoặc một vài bộ phận trong hệ thống. Hạn chế: Khi kết nối hệ thống cần có cơ chế kiểm soát, các chức năng tác nghiệp và chức năng dành cho người dùng tin đòi hỏi thiết kế cơ chế “quét” toàn bộ các thành phần cấu thành để đảm bảo phạm vi và tính đồng bộ. Về phương diện kỹ thuật, việc lựa chọn giải pháp phần cứng, phần mềm theo mô hình nào sẽ tùy thuộc vào năng lực thực tiễn của đề án được triển khai. Tuy nhiên, cần chú trọng đặc biệt đến các tiêu chuẩn kỹ thuật, công nghệ, tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế về ngành và đặc biệt là khả năng tương thích với xu hướng phát triển, đảm bảo
  10. MỘT VÀI Ý KIẾN ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG HỆ THỐNG THƯ VIỆN SỐ THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI 761 tính kế thừa dữ liệu, di trú dữ liệu dọc - ngang trong các hệ thống khác nhau để đảm bảo khả năng phát triển và tương thích theo xu hướng phát triển của công nghệ. 3. KẾT LUẬN Xây dựng hệ thống thư viện số khoa học xã hội là một trong những nền tảng quan trọng trong quá trình xây dựng những Trung tâm Tri thức số quốc gia, góp phần hướng tới những hệ sinh thái thông tin thông minh quốc gia, hướng tới mục tiêu của nền công nghiệp 4.0 trong đó thông tin, tri thức là nền tảng. Thông tin khoa học xã hội luôn là một trong những niềm tự hào của lịch sử dân tộc, là điểm tiếp cận - là kênh thông tin quan trọng giới thiệu đến cộng đồng quốc tế về lịch sử tự hào dân tộc và những giá trị xã hội, giá trị nhân văn - đó cũng là đặc điểm khác biệt “vô hình” nhưng “trực quan” nhất đối với truyền thông tới quốc tế về bản sắc văn hóa, về lòng tự hào dân tộc, góp phần cùng với sự ổn định, phát triển xã hội, vào giáo dục con người các thời kỳ, các thế hệ để tiếp tục bảo tồn, phát huy những tinh hoa của truyền thống phù hợp với hiện tại và phát triển trong tương lai. Việc xây dựng hệ thống thư viện số khoa học xã hội cũng là một trong những trụ cột hướng tới một quốc gia số, thế giới số - mở rộng không gian sử dụng các dịch vụ tiện ích mà thư viện số và mạng lưới các hệ thống thư viện số mang lại, góp phần nâng cao trình độ dân trí, phục vụ đào tạo, tự đào tạo, bồi dưỡng học tập, học tập suốt đời. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật số: 46/2019/QH14 - Luật Thư viện (2019), Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2019. 2. Vũ Văn Nhật (2007), “Cấu trúc của thông tin xã hội”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23, tr.191-197 3. Phạm Quang Quyền (2019), Hệ thống thư viện số thông minh quốc gia – yếu tố quan trọng trong tối ưu hóa quản trị tri thức số. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Tối ưu hóa quản trị tri thức số: Chính phủ - Doanh nghiệp – Thư viện, Hà Nội: Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 645-655.
  11. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 762 4. Đoàn Phan Tân (2004), Các hệ thống thông tin quản lý, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. 5. Nguyễn Văn Thiên (2016), Quản lý thư viện hiện đại tại Việt Nam: Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội. 6. Vương Toàn (2016), Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong đổi mới hoạt động thư viện, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, tr. 106. 7. Nguyễn Thị Minh Trung (2016), “Một số vấn đề trong công tác quản lý và hoạt động của các thư viện thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội, Số 7.2016, tr.19. 8. Zwass, Vladimir (2017), Information system, Encyclopedia Britannica, Inc, p.1 (Bản điện tử: https://www.britannica.com/topic/information-system, truy cập 24h05 ngày 28-6-2020).
nguon tai.lieu . vn