Xem mẫu
- TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 2 (27) - Thaùng 3/2015
MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HỌC PHÍ
CỦA CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
NGUYỄN VIỆT HÀ (*)
TÓM TẮT
Chính sách học phí có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo
dục, tăng tự chủ cho cơ sở giáo dục đại học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực. Trong bài viết này, chúng tôi bàn về các yếu tố tác động đến học phí của cơ sở
giáo dục đại học.
Từ khóa: chủ trương xã hội hóa giáo dục, học phí của cơ sở giáo dục đại học
ABSTRACT
The tuition policy has a great significance to the implementation of the educational
socialization, the increase of the autonomous and self responsibility of the higher
education establishments, contributing to enhancement of human resource training. With
the paper, we would like to discuss the elements affecting the intuition policy of higher
education establishment.
Keywords: tuition policy, autonomous and self responsibility, higher education
establishments
*
Chính sách học phí có ý nghĩa lớn thu “tượng trưng” đối với các cơ sở giáo
trong việc thực hiện chủ trương xã hội hoá dục đại học. Do mức học phí thấp, không ít
giáo dục, tăng tự chủ cho cơ sở giáo dục cơ sở giáo dục đã đặt ra những khoản thu
đại học, đồng thời thể hiện sự chia sẻ trách ngoài qui định (thu tiền nước uống, tiền
nhiệm của người dân với Nhà nước trong học thêm, tiền vệ sinh và bảo vệ trường,
bối cảnh nguồn ngân sách nhà nước còn tiền giữ xe đạp, xe máy, tiền điện, giấy thi,
hạn hẹp. Nguồn thu từ học phí đã hỗ trợ thi lại v.v...). Nhiều trường cao đẳng, đại
tích cực cho chi thường xuyên cho các cơ học công lập cũng tự qui định thêm các
sở giáo dục đại học. khoản thu khác ngoài học phí để bù đắp chi
Tuy nhiên, do mức học phí thấp nên phí đào tạo, hiện tượng lạm thu đã gây nên
nguồn thu học phí vẫn chưa bảo đảm được bức xúc trong dư luận.
yêu cầu mở rộng quy mô và nâng cao chất Khung học phí hiện hành chưa thể hiện
lượng giáo dục đại học, cụ thể: tính chất vùng cho các cơ sở giáo dục đại
- Học phí hiện hành chưa đảm bảo chi học ở các địa bàn kinh tế-xã hội khác nhau.
phí đào tạo mà cơ sở giáo dục đại học bỏ ra Khung học phí quy định chưa phù hợp
trong quá trình đào tạo ở tất cả các hệ và với mức giá bình quân và thu nhập bình
hình thức đào tạo. Học phí trở thành khoản quân của người dân tăng hàng năm. Mức
học phí thấp, so với các lần điều chỉnh
(*) lương tối thiểu hàng năm, nên tỷ trọng chi
ThS, Vụ Kế hoạch Tài chính Bộ Giáo dục và Đào tạo
46
- tiền lương giảng viên và cán bộ quản lý học để cung cấp cho các cơ sở giáo dục đại
trong chi phí thường xuyên chưa tăng lên học xác định mức học phí cụ thể và thông
tương ứng, các cơ sở giáo dục đại học thiếu tin đến người học để chọn lựa cơ sở đào tạo.
kinh phí chi cho các hoạt động giảng dạy, 2. TƯƠNG QUAN CUNG CẦU VỀ
nghiên cứu và quản lý nhà trường. DỊCH VỤ GIÁO DỤC ĐẠI H C
Học phí trở thành rào cản lớn đối với Khung học phí cần phản ánh tương
quá trình xây dựng và phát triển của trường quan cung cầu về dịch vụ giáo dục ở những
đại học, cao đẳng. Nếu một trường đại học ngành đào tạo, khu vực và các thời kỳ khác
muốn tăng chất lượng đào tạo thì cần phải nhau nhằm điều tiết cung cầu ở một mức
giảm quy mô nhưng điều này làm giảm độ nhất định đồng thời sử dụng học phí để
nguồn thu của trường. Thực tế cho thấy các phát đi những tín hiệu thích hợp để cả
cơ sở giáo dục đại học đã kích thích tăng người học và cơ sở đào tạo cân nhắc khi
quy mô bất chấp các điều kiện đảm bảo đưa ra các quyết định liên quan đến việc
chất lượng. học và đào tạo.
Mức học phí được quy định đồng loạt 3. CHI PHÍ PHÁT SINH TRONG
giữa các cơ sở giáo dục đại học, các trường ở QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO.
phân tầng chất lượng cao không được thu học Mức học phí giáo dục đại học phải căn
phí cao, điều này chưa khuyến khích việc đầu cứ trên chi phí phát sinh trong quá trình
tư xây dựng cơ sở vật chất, nâng cao chất l- đào tạo. Học phí phải bù đắp được các chi
ượng đạo tạo, tạo ra sự bất bình đẳng giữa các phi về khấu hao tài sản cố định dùng trong
cơ sở giáo dục đại học trong nước. đào tạo và chi phí thường xuyên được tính
Khung học phí hiện tại chưa phù hợp theo năm lịch
và hội nhập với giáo dục đại học quốc tế. 4. TỶ LỆ HOÀN VỐN
Để xây dựng mức học phí phù hợp cần Mức Học phí cho giáo dục đại học phải
căn cứ trên cơ sở hệ thống định mức kinh tính tới tỷ lệ hoàn vốn đối với cả Nhà nước
tế - kỹ thuật và đơn giá của các yếu tố liên và người học
quan đến chi phí đào tạo. Tuy nhiên hiện 5. MỨC TÍCH LŨY CỦA CƠ SỞ
nay, nhà nước chưa ban hành định mức GIÁO DỤC ĐẠI H C
kinh tế – kỹ thuật và đơn giá của các yếu tố Mức Học phí phải đảm bảo mức tích lũy
chi phí đào tạo nên việc ban hành mức học cần thiết nhằm đáp ứng các yêu cầu tự chủ tài
phí cần cân nhắc các yếu tố sau: chính cho các cơ sở giáo dục đại học.
1.XÂY DỰNG MỨC H C PHÍ THEO 6. MỨC THU NHẬP CỦA NHÂN DÂN
HƯỚNG TIẾP CẬN VỚI CÁC NGUYÊN Học phí phải được xác định phù hợp
TẮC CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG với thu nhập của người dân nói chung, khả
GIÁO DỤC ĐẠI H C. năng chi trả của người học. Chi tiêu cho
Mức học phí cần được áp dụng một giáo dục là một phần quan trọng trong tổng
cách linh hoạt phù hợp với tình hình cung chi tiêu của người dân. Mức chi tiêu này
cầu trên thị trường dịch vụ giáo dục. Nhà phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó thu
nước với tư cách là người quy định khung nhập là một trong những yếu tố quyết định
học phí giáo dục đại học cần có những khả năng chi trả của người học.
thông tin tin cậy và cập nhật về tình hình 7. KHẢ NĂNG NGÂN SÁCH CỦA
cung cầu trên thị trường dịch vụ đào tạo đại NHÀ NƯỚC
47
- Học phí được xác định phù hợp với Học phí nên phân biệt theo nhóm
khả năng của ngân sách nhà nước. Hiện ngành nghề, hệ, chương trình đào tạo và
nay theo định hướng chung, ngân sách nhà đối tượng người học. Sự phân biệt giá dịch
nước chỉ chi trả cho giáo dục phổ thông và vụ giáo dục theo ngành nghề và chương
giáo dục phổ cập còn đối với giáo dục nghề trình đào tạo nhằm phản ánh sự khác biệt
nghiệp và giáo dục đại học công lập mức về chi phí đào tạo giữa các nhóm ngành,
thu học phí thực hiện theo nguyên tắc chia nghề đào tạo.
sẻ chi phí đào tạo giữa Nhà nước và người Xây dựng mức học phí phù hợp là động
học. Nhà nước sẽ giảm dần các khoản cấp lực để nâng cao chất lượng giáo dục đại
phát trực tiếp cho các cơ sở giáo dục đại học, tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các
học. Thay vào đó, Nhà nước áp dụng cơ cơ sơ giáo dục đại học và đảm bảo quyền
chế đặt hàng đối với các cơ sở đào tạo về lợi của người học. Tuy nhiên đi kèm với
số lượng người được đào tạo ở những việc xây dựng mức học phí phù hợp, các cơ
ngành nghề đặc thù nhất định. sở giáo dục đại học cần sử dụng hiệu quả
8. YẾU TỐ NGÀNH NGHỀ VÀ nguồn thu học phí và các nguồn thu hợp
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO pháp khác để đầu tư phát triển nhà trường./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiên Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
2. Đỗ Minh Cương, Nguyễn Thị Doan (2001), Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại
học Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Viện khoa học giáo dục (1996), Những nhân tố mới về giáo dục trong công cuộc đổi
mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
*
Ngày nhận bài: 07/1/2015 Biên tập xong: 01/3/2015 Duyệt đăng: 20/3/2015
48
- TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 2 (27) - Thaùng 3/2015
TRƯƠNG VĨNH KÝ VỚI VIỆC TRUYỀN BÁ CHỮ QUỐC NGỮ
VÀ PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC PHÁP – VIỆT
TRẦN THỊ ÁNH (*)
TÓM TẮT
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, cùng với quá trình xâm lược và bình định của thực dân
Pháp, văn minh phương Tây cũng được du nhập vào Việt Nam. Trước làn sóng văn minh
mới, tư tưởng của trí thức Việt Nam có sự phân hóa: một bộ phận cương quyết cự tuyệt và
chống đối; một bộ phận hồ hởi đón nhận và tích cực hợp tác với ngoại bang; một bộ phận
khác chủ trương tiếp nhận văn minh phương Tây với ý nguyện canh tân đất nước, thúc đẩy
dân tộc mau chóng tiến bộ. Trương Vĩnh Ký là trường hợp tiêu biểu cho bộ phận này.
Trương Vĩnh Ký hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau: văn hóa, báo chí, ngôn
ngữ, triết học, giáo dục, ngoại giao,… Trong khuôn khổ của bài viết, tác giả tập trung đề
cập hoạt động và đóng góp của Trương Vĩnh Ký trên hai lĩnh vực có mối liên hệ mật thiết
với nhau: tuyên truyền, phát triển chữ Quốc ngữ và truyền bá nền giáo dục Pháp - Việt
nhằm mục đích khai thông dân trí, nâng cao dân đức.
Từ khóa: Trương Vĩnh Ký, trí thức, văn minh phương Tây, chữ Quốc ngữ, giáo dục
Pháp – Việt.
ABSTRACT
During the second half of the nineteenth century, with the invasion and pacification of
French colonialism, Western civilization was also introduced into Vietnam. Facing the
new wave of civilization, there were differences in ways of ideas among Vietnamese
intellectuals: some totally denied and opposed strongly; the others cheerfully welcomed
and actively cooperated with foreign forces; and the rest were willing to receive the
estern civilization with intentions of national reforms, promote peoples’ spirits to gain
progress rapidly. Truong Vinh Ky is a typical example of this group.
Truong Vinh Ky worked on many different areas: culture, media, language,
philosophy, education and diplomacy, etc. In the framework of the article, the author has
concentrated on activities and contribution of Truong Vinh Ky on two closely- related
areas: the propagation and development of the national language education and
dissemination of France – Vietnam education, which aim to improve people’s knowledge
and morals .
Keywords: Truong Vinh Ky, intellectuals, Western civilization, national language
script, French - Vietnamese education.
(*)
ThS, Trường Đại học Sài Gòn
49
- 1. TRƯƠNG VĨNH KÝ TIẾP THU NỀN chưa từng có bao giờ” [8; tr 3].
GIÁO DỤC TÂY H C Năm 1858, Trương Vĩnh Ký tốt nghiệp
Trương Vĩnh Ký (1837-1898) tên thật nhưng không ra làm linh mục vì phải về
là Trương Chánh Ký (còn gọi là Pétrus nước chịu tang mẹ. Sau đó, ông dạy học ở
Ký), sinh tại thôn Vĩnh Thành, tổng Minh trường dòng Cái Nhum. Dạy học chưa
Lý, huyện Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long (nay được bao lâu thì Pháp đánh thành Gia
là xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Định. Lúc này, ở Cái Mơn đang xảy ra
Bến Tre), trong một gia đình theo đạo nhiều cuộc vây ráp các phần tử Công giáo
Công giáo, là con thứ ba của Lãnh binh bị tình nghi. Vì thế, Trương Vĩnh Ký phải
Trương Chánh Thi và bà Nguyễn Thị chạy lên Sài Gòn. Thời điểm này, Pháp
Châu. đang cần người dịch các văn kiện từ tiếng
Năm 1942, Trương Vĩnh Ký theo học Pháp ra tiếng Việt và ngược lại. Với suy
chữ Hán với một thầy đồ trong làng. Ông nghĩ: “phải làm việc để giúp đỡ đồng bào,
học giỏi, đọc viết thông thạo, hiểu rõ nghĩa nhất là lúc Pháp và Nam triều chưa hiểu
lí những sách mình đã học. nhau, chưa thành thật với nhau” [6; tr 244],
Năm 1946, cha đột ngột qua đời, năm 1860 ông nhận lời làm thông ngôn cho
Trương Vĩnh Ký được mẹ gửi gắm cho Cố chỉ huy trưởng quân đội Pháp
Tám - một thầy tu Công giáo người Việt. Jauréguiberry. Sự kiện này đánh dấu buổi
Từ đây, Trương Vĩnh Ký bắt đầu tiếp xúc đầu hợp tác giữa Trương Vĩnh Ký với
và gắn bó với nền giáo dục Tây học, được chính quyền thực dân.
học chữ Quốc ngữ và sau đó được vào học Tuy hợp tác với người Pháp nhưng
ở Chủng viện Cái Nhum dưới quyền cai Trương Vĩnh Ký chưa bao giờ tham gia
quản của thừa sai người Pháp Borelle. vào ngạch quan lại hành chính do Pháp bổ
Năm 1848, linh mục người Pháp nhiệm, không nhập quốc tịch Pháp, không
Charles Esmile Bouillveaux (còn gọi là Cố mặc Âu phục như những thầy thông, thầy
Long) đưa Trương Vĩnh Ký sang học ký thời bấy giờ [5; tr 43].
trường Pinhalu (Campuchia). Năm 1851, Thời gian làm thông ngôn của Trương
ông được cấp học bổng sang học ở Đại Vĩnh Ký không dài, mặc dù người Pháp hết
chủng viện Dulaima nằm trên đảo Pénang lời ca ngợi ông là thông ngôn rất xuất sắc.
(Malaixia), là trường chuyên đào tạo tu sĩ Ông chuyển sang viết giáo trình về ngôn
cho vùng Viễn Đông. Tại đây, Trương ngữ, lịch sử, địa lí vừa để giảng dạy cho
Vĩnh Ký được học chữ La-tinh và thần học, một số người Pháp, vừa tham gia giảng dạy
được tiếp xúc với văn minh phương Tây và ở các trường Thông ngôn, Sư phạm thuộc
quan hệ mật thiết với nhiều bạn học châu địa, Tham biện hậu bổ. Trương Vĩnh Ký
Á. Chính trong những năm tháng học tại còn đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng
trường này, Trương Vĩnh Ký đã có được như Quản nhiệm tờ Gia Định báo (từ
nền tảng kiến thức xuất sắc về văn hóa và 1869), Giám đốc trường Sư phạm thuộc địa
ngôn ngữ để trở thành nhà bác ngữ học sau (1871), điều hành trường Tham biện Hậu
này. Khi đề tựa cho tác phẩm Trương Vĩnh bổ (1873), Ủy viên Hội đồng Thường trực
Ký - Biên khảo của Lê Thanh, Ứng Hòe Học chính cao cấp (1874),… Năm 1886,
Nguyễn Văn Tố đã nhận xét: Trương Vĩnh Tổng Công sứ Bắc Kỳ và Trung Kỳ Paul
Ký “là một nhà bác ngữ uẩn súc, nước ta Bert mời ông ra Huế giúp việc. Trương
50
- Vĩnh Ký được vua Đồng Khánh phong ít ỏi trí thức hội tụ đủ các yếu tố này – đã
chức Cơ mật Viện tham tá và sung Hàn được người Pháp mời hợp tác. Ông được
lâm viện Thị giảng học sĩ. Nhưng chỉ được bổ nhiệm công việc ở Soái phủ Nam Kỳ,
sáu tháng, ông về lại Sài Gòn tiếp tục dạy vừa dạy học ở trường Thông ngôn, vừa bắt
học và viết sách. đầu sự nghiệp biên khảo, dịch thuật.
Từ năm 1887 cho đến khi tạ thế Trương Vĩnh Ký đã phiên âm và cho
(01/9/1898), Trương Vĩnh Ký đã dành toàn xuất bản hàng loạt các tác phẩm văn học
bộ thời gian để biên soạn sách, trong đó, Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ (sử dụng
nhiều công trình có thể sử dụng làm sách mẫu tự La-tinh). Cuốn sách Quốc ngữ đầu
giáo khoa hoặc sách đọc thêm phục vụ cho tiên được xuất bản vào năm 1866 là một
việc học tập. sưu tập những truyện dân gian mà ông gọi
2. NHỮNG HOẠT ĐỘNG TRUYỀN BÁ là Chuyện đời xưa. Trong lời tựa Ý sách
CHỮ QUỐC NGỮ VÀ PHÁT TRIỂN cho Chuyện đời xưa, ông viết: “Góp nhóp
NỀN GIÁO DỤC PHÁP – VIỆT CỦA trộn trạo chuyện kia chuyện nọ, in ra để
TRƯƠNG VĨNH KÝ cho con nít tập đọc chữ Quốc ngữ…” [7; tr
2.1. Viết sách, dịch thuật và dạy học 315].
Ngay khi tiếng súng xâm lược của Chữ Quốc ngữ dù ra đời từ trước, vốn
quân viễn chinh Pháp đang nổ ở ba tỉnh chưa được phổ biến rộng rãi đến đây bắt
miền Đông Nam Kỳ, người Pháp đã bắt đầu thâm nhập và được truyền bá mạnh mẽ
đầu thiết lập nền móng cho chế độ cai trị vào đời sống xã hội. Với mong muốn chữ
thực dân trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục. Quốc ngữ trở thành chữ viết riêng của dân
Bằng việc loại bỏ dần giáo dục Nho học, tộc, Trương Vĩnh Ký đã dày công biên
đồng thời cho thành lập các trường trung soạn sách giáo khoa phục vụ cho việc dạy
học (để dạy tiếng bản xứ cho sĩ quan Pháp) chữ Quốc ngữ. Tiêu biểu là các tài liệu
và mở trường thông ngôn ở Sài Gòn (nhằm được ông viết vào năm 1875 như: Bài học
đào tạo viên chức người bản xứ cho bộ thực hành tiếng An Nam, Sơ học vấn tân,
máy cai trị thuộc địa), nền giáo dục Pháp – Bài giảng về địa dư Nam Kỳ, Bài giảng về
Việt ở vùng đất Nam Kỳ nói riêng và Việt lịch sử An Nam,... Ở phần mở đầu của cuốn
Nam nói chung từng bước hình thành.31 sách Vần Quốc ngữ (Syllabaire) trong bộ
Việc biên soạn sách giáo khoa và tài Sơ học quy chánh (Manuel des escoles
liệu nhập môn phục vụ cho mục đích đào primaires), xuất bản năm 1876, Trương
tạo nói trên đòi hỏi phải có người thông Vĩnh Ký khẳng định: “Chữ quốc ngữ, phải
thạo cả chữ Hán, chữ Pháp và chữ Quốc trở thành chữ viết của đất nước. Phải như
ngữ; mặt khác phải am hiểu văn hóa bản thế, vì lợi ích và sự tiến hóa. Vậy người ta
xứ, văn hóa phương Tây và có khả năng sư nên tìm cách phổ biến thứ chữ này bằng
phạm tốt. Trương Vĩnh Ký – một trong số mọi phương tiện” [2; tr 41]. Sự kì vọng và
ước đoán này của Trương Vĩnh Ký đã
3
Cũng cần nói thêm rằng, trong số các trí thức được đào được các sĩ phu cấp tiến và một số trí thức
tạo từ hệ thống các trường học trên, có người trở thành tân học thực hiện để canh tân đất nước
tay sai, phục vụ cho chính quyền thực dân, nhưng cũng có
không ít trí thức có tinh thần yêu nước, đứng về phía nhân trong các phong trào Đông Du, Duy Tân và
dân chống thực dân xâm lược. Điều này trái với chủ ý của Đông Kinh Nghĩa thục đầu thế kỉ XX.
người Pháp khi đầu tư phát triển giáo dục ở vùng đất Nam
Kỳ cũng như trên cả nước ta sau này. Nguyễn Văn Trấn trong P.J.B. Trương
51
- Vĩnh Ký (1837-1898), đã đánh giá về cuốn dịch thuật, sưu tầm, nghiên cứu với trên
Vần Quốc ngữ: “Làm ra cuốn Vần Quốc một trăm đầu sách, Trương Vĩnh Ký đã có
ngữ, Trương Vĩnh Ký đã viết sách dạy học những đóng góp quan trọng trong việc phổ
trò, trực tiếp gây ảnh hưởng rất lớn đến biến và phát triển chữ Quốc ngữ, một hoạt
nhiều nhà giáo dục học, môn đệ của mình. động có ảnh hưởng quyết định đến tiến
Họ đã theo kiểu cách của Pestrus Ký mà ra trình phát triển văn hóa dân tộc mà thực
sức viết, viết để giáo dục thiếu nhi, nhi tiễn lịch sử đã cho thấy. Những công trình
đồng bằng lời nói có vần, câu ngắn, cho trẻ sáng tác, dịch thuật, biên khảo của ông vào
em dễ học, dễ hiểu, dễ nhớ” [10; tr 217]. thời điểm đó - như nhận định của nhà
Vốn là người thông thạo Nho học, sớm nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân trong Thế kỉ
tiếp thu văn minh phương Tây, biết nhiều XXI nhìn về Trương Vĩnh Ký - là “tiếng nổ
ngôn ngữ, Trương Vĩnh Ký còn dịch các lớn mở đầu cho học thuật Quốc ngữ không
sách chữ Hán như Đại học, Trung dung, ai thay thế ông được” [5; tr 30].
Tam tự kinh; phiên âm, phiên dịch ra chữ Trong chương trình giáo dục Pháp –
Quốc ngữ những tác phẩm Hán – Nôm nổi Việt ban hành vào năm 1874, chữ Hán và
tiếng như Kim Vân Kiều truyện (1875), Gia chữ Quốc ngữ chỉ được dạy ở cấp một. Với
huấn ca (1882), Thơ dạy làm dâu (1882), tư cách là thành viên của Hội đồng thành
Thơ mẹ dạy con (1882), Đại Nam quốc sử phố Sài Gòn, Trương Vĩnh Ký đã góp phần
diễn ca (1885), Lục súc tranh công (1887), đề xuất chính quyền thực dân thay đổi
Lục Vân Tiên (1889),… Có thể thấy, chương trình theo hướng tăng thời lượng
Trương Vĩnh Ký là người vừa nặng lòng và hàm lượng dạy chữ Quốc ngữ. Đến năm
với chữ Quốc ngữ, vừa nặng tình với quê 1879, khi ban hành chương trình giáo dục
hương đất nước và truyền thống tốt đẹp của mới, người Pháp đã tăng giờ học chữ Hán
dân tộc. và chữ Quốc ngữ lên ở cả ba cấp học.
Trương Vĩnh Ký cũng là người đầu Trong bài viết “Chữ Quốc ngữ trên đất
tiên sưu tầm và phiên âm ra chữ Quốc ngữ Sài Gòn – Gia Định những thế kỉ XVII –
những sáng tác thơ văn yêu nước chống XVIII – XIX” (trích trong Địa chí văn hóa
Pháp như: Hịch Quản Định kêu gọi đánh thành phố Hồ Chí Minh), các tác giả Trần
Tây của Trương Định (1882), Văn tế nghĩa Văn Giàu, Thanh Lãng và Hoàng Xuân
sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu Việt cho rằng A. De Rhode không phải là
(1887), Bài hịch kêu gọi nhân dân Nam Kỳ ông tổ duy nhất của chữ Quốc ngữ. Nguyễn
chống Pháp của Nguyễn Tri Phương, bài Văn Trấn trong P.J.B. Trương Vĩnh Ký
thơ Ai khiến thằng Tây tới vậy cà? của Bùi (1837-1898) cũng đánh giá về công lao và
Hữu Nghĩa,… Đặc biệt, là người luôn có ý những đóng góp của Trương Vĩnh Ký trong
thức giữ gìn sự trong sáng và phong phú việc truyền bá chữ Quốc ngữ và nền học
của ngôn ngữ dân tộc, Trương Vĩnh Ký đã thuật phương Tây, nên đã viết:
chủ xướng cách viết chữ Quốc ngữ theo lời “Tôi xin xớt bớt công lớn của A. De
ăn tiếng nói thông thường, mà theo ông là Rhode đem chia cho Trương Vĩnh Ký.
“viết theo lối dùng tiếng nói Annam ròng”, Trương Vĩnh Ký đã giải phóng chữ
“có nhiều câu thường dùng lắm” và là “lối Quốc ngữ khỏi kiếp a hườn, rửa mặt mày
nói của người Việt bình dân có văn hóa”. cho nó, và đặt nó ngồi nhìn ngang chữ
Thông qua những trước tác, biên soạn, Pháp, khơi dậy một cuộc cách mạng về học
52
- vấn trong đồng bào, thế hệ đi sau” [10; tr Truyền bá chữ Quốc ngữ trong nhân dân,
216]. cổ động Tân học trong nước, khuyến khích
Cho dù ở cương vị nào, Trương Vĩnh nhân dân học chữ Quốc ngữ [6; tr 245].
Ký cũng giành tất cả thời gian vào việc Với những đóng góp lớn lao của
nghiên cứu, dịch thuật và viết sách, mạnh Trương Vĩnh Ký, Gia Định báo có vai trò
dạn và quyết tâm phổ biến chữ Quốc ngữ rất quan trọng trong công cuộc cổ động và
trong trường học, trong quảng đại quần phổ biến chữ Quốc ngữ đến đông đảo công
chúng, góp phần vào việc khai thông dân chúng, thể hiện tâm nguyện của ông trong
trí, nâng cao dân đức, đưa đất nước tiếp việc thực hiện mục tiêu khai thông dân trí,
cận trình độ văn minh, tiến bộ. nâng cao dân đức, cũng như tình cảm của
2.2. Xuất bản báo chí bằng chữ ông đối với nền văn hóa dân tộc. Nguyễn
Quốc ngữ Khánh Đàm trong Lịch trình tiến hóa sách
Năm 1865, Gia Định báo – tờ báo báo Quốc ngữ đã dành tặng cho Trương
Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam ra số đầu Vĩnh Ký và Gia Định báo lời nhận xét
tiên. Trương Vĩnh Ký tham gia viết bài cho trọng thị: “Gia Định báo là thủy tổ báo chí
tờ báo này. Trong thời gian từ 1865 – Quốc ngữ ở xứ ta” và “Trương Vĩnh Ký là
1869, Gia Định báo đơn thuần là một tờ ông tổ nghề báo quốc văn ở xứ ta” [1; tr
công báo, đăng tải các công văn, nghị định 30].
của nhà nước thực dân, các tin tức trong 3. MỘT VÀI NHẬN XÉT
nước và rao vặt. Là một trong số rất ít trí thức sớm tiếp
Theo Nghị định kí ngày 16/9/1869 của xúc với văn minh phương Tây, được đào
Thống đốc Nam Kỳ G. Ohier, Trương tạo và gắn bó với nền giáo dục Tây học,
Vĩnh Ký được giao làm Chánh Tổng tài trong bối cảnh biến động của đất nước,
(chủ bút) tờ báo này. Từ đây, ngoài những Trương Vĩnh Ký đã lựa chọn con đường
nội dung đã nêu trên, Gia Định báo còn tiếp nhận văn minh phương Tây, hoạt động
đăng các bài khảo cứu, nghị luận, sưu tầm, tích cực trên nhiều phương diện, đặc biệt
bình giảng tục ngữ, ca dao, thi ca xoay trên lĩnh vực văn hóa – giáo dục nhằm thực
quanh các chủ đề đạo đức, luân lí,… của hiện hoài bão thúc đẩy dân tộc mau chóng
những tác giả tên tuổi như Huỳnh Tịnh tiến bộ.
Của, Trương Minh Ký, hoặc những tri thức Chủ trương kết hợp hài hòa giữa khoa
khoa học của phương Tây. học kĩ thuật phương Tây và triết lí phương
Dưới quyền chủ bút của Trương Vĩnh Đông, Trương Vĩnh Ký đã có những đóng
Ký, “tờ báo tiếp tục ra hàng tuần. Nó chia góp đáng trân trọng nhằm trang bị cho
làm hai phần, phần công vụ nguyên văn đồng bào những tri thức đầu tiên về nền
bằng tiếng Pháp, ông Trương Vĩnh Ký dịch văn minh phương Tây, đồng thời bối đắp
ra chữ An Nam; phần tạp vụ gồm các bài và phát huy những giá trị tốt đẹp của văn
có ích cho sự học và vui thích với các bài hóa dân tộc.
sử học, luân lí, thời sự để có thể đọc trong Với sự nghiệp trước tác và những hoạt
các trường bản xứ và làm cho dân chúng động không mệt mỏi trong việc truyền bá
An Nam chú ý” [9; tr 31]. chữ Quốc ngữ, Trương Vĩnh Ký cùng
Khi điều hành tờ Gia Định báo, những trí thức đương thời như Trương
Trương Vĩnh Ký đã nêu ra ba mục đích: Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của,… có thể xem
53
- là những người tiên phong bắc chiếc cầu phương để góp phần mở mang dân trí, góp
giao lưu hai nền văn minh Việt – Pháp, chủ phần tạo dựng nền móng cho công cuộc
động tiếp thu tinh hoa văn hoá của đối duy tân đất nước diễn ra vào đầu thế kỉ XX.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Việt Chước (Hồng Hà) (1974), Lược sử báo chí Việt Nam, Nxb Nam Sơn,
Sài Gòn.
2. Bằng Giang (1994), Sương mù trên tác phẩm Trương Vĩnh Ký, Nxb Văn học.
3. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (Chủ biên, 1998), Địa chí văn hóa TP. Hồ Chí Minh,
tập 2, Nxb TP.HCM.
4. Trần Viết Nghĩa (2012), Trí thức Việt Nam đối diện với văn minh phương Tây thời
Pháp thuộc, Nxb Chính trị Quốc gia, HN.
5. Nhiều tác giả (2002), Thế kỉ XXI nhìn về Trương Vĩnh Ký, Nxb Trẻ - Tạp chí Xưa & Nay.
6. Nhiều tác giả (2007), Nam Bộ xưa & nay, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh - Tạp chí Xưa
& Nay.
7. Cao Tự Thanh (2009), Nho giáo ở Gia Định, Nxb Văn hóa Sài Gòn.
8. Lê Thanh (1943), Trương Vĩnh Ký, Nxb Tân Dân.
9. Bùi Đức Tịnh (1992), Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới
(1865-1932), Nxb TP.HCM.
10. Nguyễn Văn Trấn (1993), P. J. B. Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898), Ban KHXH
Thành uỷ TP.HCM.
*
Ngày nhận bài: 04/12/2014 Biên tập xong: 01/3/2015 Duyệt đăng: 20/3/2015
54
nguon tai.lieu . vn