- Trang Chủ
- Kỹ năng đọc tiếng Anh
- Một số yếu tố cần xem xét khi tiến hành đánh giá kĩ năng nói tiếng Anh trong các học phần tiếng Anh cơ bản cho sinh viên trường Đại học Giao thông Vận tải
Xem mẫu
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 36-41
MỘT SỐ YẾU TỐ CẦN XEM XÉT KHI TIẾN HÀNH ĐÁNH GIÁ
KĨ NĂNG NÓI TIẾNG ANH TRONG CÁC HỌC PHẦN TIẾNG ANH CƠ BẢN
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI
Bạch Thị Thanh - Trường Đại học Giao thông Vận tải
Ngày nhận bài: 29/12/2018; ngày sửa chữa: 10/01/2019; ngày duyệt đăng: 25/01/2019.
Abstract: In foreign language learning, speaking is always considered the focal point to assess the
ability to use a language and proficiency in this skill requires a lot of effort and time. To help
learners to achieve the goal, assessing is always a useful tool. However, assessing speaking reliably
is often considered very difficult because it is quite subjective. So, what should be done to do it
well? This article will mention some considerations when assessing English speaking skill in basic
English modules for students of University of Transport and Communications.
Keywords: Assessing, speaking skill, English, basic English module, student.
1. Mở đầu 2.1.1. Viết một bản mô tả chi tiết đặc điểm và liệt kê các
Theo Đề án ngoại ngữ 2020, các trường phổ thông yêu cầu cần đáp ứng cho một kì thi nói cụ thể (Test
và đại học nói chung, trong đó có Trường Đại học Giao specifications)
thông Vận tải nói riêng phải đào tạo ngoại ngữ có chuẩn Bước này bao gồm thông tin về mục đích kiểm tra
đầu ra theo khung năng lực với các bài thi có cả 4 kĩ năng nói (thi cuối kì, thi tuyển vào trường hay ĐG năng lực...),
(KN): nghe, nói, đọc và viết. Tuy nhiên, đánh giá (ĐG) đối tượng thí sinh, giám khảo, người sử dụng kết quả và
KN nói vẫn luôn được cho là khó khăn nhất đúng như sử dụng để làm gì, kì thi sẽ được thực hiện như thế nào
Sari Luoma (2009) đã nhận định: “ĐG KN nói đạt độ tin (phỏng vấn từng thí sinh, theo cặp hay theo nhóm,...), tiêu
cậy là khó nhất” [1]. Khó khăn này cũng được nêu trong chí ĐG như thế nào.
cuốn A practical guide to Assessing English Language 2.1.2. Soạn đề thi (Developing speaking tasks)
Learners: “Nói là một KN rất khó ĐG vì nó quá phức Sau khi đã biết rõ các yêu cầu cụ thể, việc lựa chọn
tạp để có được các phân tích đảm bảo tính khách quan và viết đề thi bắt đầu. Có khá nhiều dạng bài đã và đang
và độ tin cậy” [2; tr 112]. Vậy, làm thế nào để ĐG KN được sử dụng trong ĐG KN nói tiếng Anh. Sari Luoma
nói thực sự hiệu quả, phản ánh đúng trình độ của người (2009) đã liệt kê một số dạng bài thi nói gồm mô tả
học góp phần thực hiện chuẩn đầu ra được chính xác? Để (description tasks), kể chuyện (narrative tasks), so sánh
trả lời câu hỏi này, bài viết đề cập quy trình và các bước đối chiếu (comparing and contrasting tasks), thảo luận và
cần tuân thủ trong quá trình ĐG KN nói tiếng Anh, từ đó đưa ra quyết định (decision), đóng vai (role-plays and
đưa ra nhận xét và đề xuất một số thay đổi đối với việc simulations),... [1]. Theo Coombe Christine và cộng sự
ĐG KN nói trong các học phần tiếng Anh cơ bản cho (2007), nên chọn dạng bài thi nói có tác động tích cực đối
sinh viên (SV) Trường Đại học Giao thông Vận tải. với quá trình dạy và học đồng thời sát với tình huống thực
2. Nội dung nghiên cứu của người học. Sau khi đã quyết định được dạng bài, các
2.1. Quy trình thiết kế và thực hiện việc kiểm tra, đánh yêu cầu cụ thể cần được đưa ra cho dạng bài đó (Task
giá kĩ năng nói specifications) [2].
Để đảm bảo được các yếu tố chung của quá trình 2.1.3. Thiết kế thang điểm (Developing scales)
kiểm tra, ĐG là tính hữu dụng - thỏa mãn được đúng mục Đây là khâu rất quan trọng, cần phải được đưa ra càng
đích sử dụng (usefulness), ĐG đúng những gì đang cần chi tiết càng tốt để việc ĐG được công bằng và có độ tin
được ĐG (validity), phản ánh đúng trình độ của người cậy cao, đúng như quan điểm của Arthur Hughes: “Việc
học (reliability), dễ sử dụng trong thực tiễn (practicality), chấm điểm chỉ đạt được độ tin cậy và tính giá trị khi cách
có khả năng tác động đến quá trình dạy và học ĐG và thang điểm cụ thể cho từng trình độ và từng tiêu
(washback), bám sát với tình huống thực của người học chí được đưa ra rõ ràng và phù hợp, đồng thời người
(authenticity), tính minh bạch về dạng bài, thang điểm chấm phải được tập huấn sử dụng chúng” [3; tr 110].
(transparency) và tính bảo mật (security), việc thiết kế và Thông thường, có hai loại thang điểm được sử dụng:
thực hiện quy trình kiểm tra, ĐG KN nói cho SV cần - Thang điểm ĐG dựa trên cảm nhận tổng thể bài nói rồi
được thực hiện theo các bước sau: đưa ra một điểm kết luận duy nhất với thang điểm chẵn
36
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 36-41
hoặc kết luận về bậc năng lực ngôn ngữ (holistic tình huống phức tạp, phát âm không chuẩn dẫn
scoring). Một ví dụ điển hình của loại này là thang điểm đến người nghe phải nỗ lực mới hiểu được
chấm bài thi nói The Finish National Certificate scale
Có thể hỏi đáp các câu đơn giản, khả năng giao
với thang điểm chẵn từ 1 đến 6 (xem bảng 1); - ĐG theo
1 tiếp chậm, để người nghe hiểu được người nói
nhiều khía cạnh nhỏ của bài nói như ngữ pháp
phải sử dụng thêm ngôn ngữ cơ thể
(grammar), từ vựng (vocabulary), độ trôi chảy (fluency)
và phát âm (pronunciation) (xem bảng 2). Mỗi cách ĐG Bảng 2. Thang điểm chấm theo từng khía cạnh nhỏ
đều có ưu và nhược điểm riêng như Coombe Christine (Analytic scales) [4]
và cộng sự đã phân tích: “Loại ĐG tổng thể sẽ tiết kiệm
Phiếu ĐG KN nói
thời gian hơn và thí sinh sẽ không bị mất điểm vì những
lỗi nhỏ nhưng lại có nhược điểm là sẽ không đáng tin cậy Ngày:............
khi bài thi được chấm bởi những giám khảo ít kinh Tên thí sinh:......................
nghiệm và việc trừ 1 điểm chẵn sẽ làm giảm tính chính
xác của kết quả, ngoài ra cách chấm như vậy sẽ khó cung Tiêu
Điểm Hướng dẫn chi tiết
cấp được sự phản hồi cho quá trình dạy và học, không chí
cung cấp được tiến trình về khả năng nói của người học. 24-25: Xuất sắc. Hầu như không
Cách chấm theo các tiêu chí nhỏ có nhiều ưu điểm nổi mắc lỗi, các ý được truyền đạt rõ
trội là giúp giảng viên (GV) biết được điểm mạnh, điểm ràng
yếu của SV, dễ chấm đối với những giám khảo ít kinh
nghiệm, việc huấn luyện giám khảo sẽ dễ thực hiện hơn 22-23: Rất tốt. Chỉ mắc một hoặc hai
lỗi, hầu hết các ý được truyền đạt rõ
do thang điểm rất rõ ràng và chi tiết, nhưng cách chấm
ràng
này lại rất mất thời gian do phải chấm nhiều chi tiết nhỏ”
[2; tr 81-83]. 20-21: Tốt. Có mắc một số lỗi ngữ
Việc lựa chọn cách chấm nào phải tùy thuộc vào điều Ngữ pháp nhưng hầu hết các ý chính được
kiện cụ thể về thời gian, số lượng giám khảo, mục đích pháp truyền đạt rõ ràng
của kì thi... Sau đây là ví dụ về hai loại thang điểm: (25 18-19: Trung bình. Mắc các lỗi ngữ
Bảng 1. Thang chấm điểm xét trên tổng thể bài nói điểm) pháp có thể ảnh hưởng đến nghĩa của
(Holistic scoring) [1] câu
Nói trôi chảy, thậm chí có khả năng diễn đạt các 12-17: Kém. Ngôn ngữ sử dụng hầu
ý tinh tế với độ chính xác cao, biết sử dụng các như mắc lỗi và người nghe có thể
6 cách diễn đạt mang tính thành ngữ, có khả năng phát hiện dễ dàng, nghĩa của câu
nói về một chủ đề phức tạp, biết phát triển ý, biết không rõ hoặc không truyền tải được
trình bày và kết thúc một vấn đề nào đó
0-11: Không đạt. Mắc quá nhiều lỗi,
Nói trôi chảy và hiếm khi bị bí từ, bài nói tự nhiên, không truyền tải được thông tin
có sử dụng các từ kết nối, có khả năng trình bày
5 một vấn đề phức tạp một cách rõ ràng và chi tiết, 20: Xuất sắc. Có khả năng lựa chọn
biết sử dụng các cách diễn đạt mang tính thành và sử dụng từ hoặc cụm từ chuẩn và
ngữ đa dạng
Xử lí khá tốt các tình huống, biết trình bày và giải 18-19: Rất tốt. Có khả năng lựa chọn
4 thích ý kiến, biết trò chuyện, mô tả quang cảnh, và sử dụng từ hoặc cụm từ đúng và
Từ khá đa dạng
âm thanh và trải nghiệm
vựng
Xử lí được các tình huống lời nói quen thuộc, tốc (20 16-17: Tốt. Hầu hết các từ sử dụng
độ nói có thể hơi chậm nhưng không bị dừng. Mặc điểm) được lựa chọn phù hợp, nghĩa diễn
3 dù cách diễn đạt bị ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ và đạt rõ ràng
phát âm không chuẩn nhưng người nghe vẫn có 14-15: Trung bình. Mắc một số lỗi
thể hiểu người nói đang nói gì dễ nhận thấy, đôi khi ảnh hưởng đến
Có thể trao đổi những thông tin đơn giản, khả nghĩa. Chỉ sử dụng được những từ
2 đơn giản trong giao tiếp
năng ngôn ngữ hạn chế nên khó diễn đạt được các
37
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 36-41
12-13: Kém. Mắc nhiều lỗi từ vựng chính thức bởi các tổ chức có uy tín nhưng phải phù hợp
và người nghe có thể phát hiện dễ với mục đích sử dụng cụ thể của mình. Bên cạnh đó, chúng
dàng, nghĩa của câu không rõ hoặc ta cũng có thể thay đổi một chút nếu cần để áp dụng tốt
không truyền tải được hơn cho việc ĐG trong một kì thi nào đó [1; tr 82].
2.1.4. Chuẩn bị cơ sở vật chất và nhân lực
0-11: Không đạt. Mắc quá nhiều lỗi,
không truyền tải được thông tin Cách tổ chức thi có thể ảnh hưởng tới tâm lí của thí
sinh; vì vậy, để đảm bảo công bằng, công việc này phải
29-30: Xuất sắc. Không hề bị ngắc được chuẩn bị kĩ lưỡng trước buổi thi, tất cả thí sinh,
ngứ giám khảo và những người có trách nhiệm khác đều phải
được biết trước những gì và khi nào họ phải làm. Mọi thứ
27-28: Rất tốt. Có ngắc ngứ một chút
nhưng tiếp tục nói được ngay phục vụ kì thi phải được sẵn sàng bao gồm phòng thi,
phòng chờ, phòng máy (nếu có dạng thi nói kết hợp với
24-26: Tốt. Thỉnh thoảng có ngắc nghe), máy ghi âm, nhân lực hỗ trợ như kĩ thuật viên,
ngứ nhưng sau đó đã linh hoạt tìm giám sát, trợ lí,...
được cách khắc phục 2.2. Các yếu tố cần lưu ý để đảm bảo độ tin cậy và tính
Độ
21-23: Trung bình. Có những đoạn giá trị của quá trình đánh giá kĩ năng nói
trôi
chảy bị ngừng nghỉ mà người nghe có thể Theo Arthur Hughes (1997), việc ĐG chính xác khả
(30 thấy rõ ràng nhưng sau đó lại tiếp tục năng nói không hề dễ dàng, việc này đòi hỏi rất nhiều
điểm) nói được công sức và thời gian. Tuy nhiên, nếu chúng ta cần một
kết quả công bằng để đưa ra một quyết định quan trọng
12-20: Kém. Có một số khoảng im
thì việc đầu tư thời gian và công sức vẫn là việc phải làm
lặng, có một số đoạn ngắt nghỉ ảnh
[3; tr 114]. Sau đây là một số điều cần lưu ý để có được
hưởng đến luồng thông tin và ảnh
một kết quả ĐG tốt:
hưởng đến độ tập trung của người nghe
2.2.1. Một số đặc điểm khác biệt giữa ngôn ngữ nói và
0-11: Không đạt. Có nhiều khoảng ngôn ngữ viết
im lặng, nhiều đoạn ngắt nghỉ không
Theo tổng kết của một số nhà ngôn ngữ như Sari
tiếp tục được
Luoma (2009) hay Coombe Christine (2007), ngôn ngữ
24-25: Xuất sắc. Hầu như không nói có các đặc điểm khác biệt chính cần phải lưu ý khi
mắc lỗi, phát âm giống người bản ĐG so với KN viết như sau:
ngữ - KN nói có liên quan đến sự đa dạng về phát âm
22-23: Rất tốt. Chỉ mắc một hoặc hai (pronunciation). Phát âm thường được xem là một trong
lỗi, hầu hết thông tin được truyền tải các tiêu chí ĐG KN nói, tuy nhiên rất khó đưa ra khái
rõ ràng niệm chuẩn trong phát âm vì tiếng Anh cũng như các
Phát ngôn ngữ khác đều có sự đa dạng về vùng miền. Hơn
20-21: Tốt. Mắc một số lỗi phát âm nữa, thực tế cho thấy, hầu hết học viên có được dạy về
âm
nhưng hầu hết các ý chính được phát âm nhưng rất ít người có thể nói chuẩn như người
(25
truyền đạt không hề gây khó khăn bản ngữ. Bên cạnh phát âm, việc sử dụng đa dạng về âm
điểm)
cho người nghe lượng, ngữ điệu, tốc độ nói, ngắt nghỉ... cũng giúp người
18-19: Trung bình. Có thể thấy rõ lỗi nói diễn đạt tốt hơn những gì muốn nói. Vì vậy, theo các
phát âm, gây ảnh hưởng đến nghĩa nhà ngôn ngữ khi đưa ra tiêu chí ĐG có thể kết hợp linh
hoạt giữa khả năng phát âm và hiệu quả giao tiếp chứ
12-17: Kém. Mắc nhiều lỗi phát âm không nên chú trọng quá vào một khía cạnh. Còn nếu
gây sự chú ý cho người nghe, ảnh phát âm là một tiêu chí ĐG quan trọng thì GV phải được
hưởng đến nghĩa diễn đạt biết để có các ĐG cụ thể hơn về khía cạnh này.
Tổng điểm:.......... - Ngữ pháp trong văn nói (spoken grammar) nên
Nhận xét:............. được ĐG khác với ngữ pháp trong văn viết. Các câu
trong văn viết thường là câu phức có kết cấu chặt chẽ và
Theo Sari Luoma (2009), trong một kì thi nói, chúng sử dụng từ nối liên kết văn bản vì bài viết sẽ được đọc
ta có thể sử dụng một thang điểm có sẵn đã được sử dụng sau đó mà không có mặt người viết để có thể giải thích
38
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 36-41
hay giảng giải thêm, còn trong văn nói người nói chủ yếu nhiều GV chấm thì độ tin cậy của kết quả càng cao.
tập trung vào truyền tải các ý cần nói (idea units), các câu Thông thường, sẽ có hai GV ĐG và mỗi người có một vai
được sử dụng thường là câu đơn kèm các từ nối như và, trò khác nhau. Một người sẽ tương tác với SV dựa trên
hoặc, nhưng thậm chí chỉ là các cụm từ ngắn như cụm những câu hỏi, nội dung đã có sẵn để đảm bảo công bằng
danh từ, cụm động từ hay cụm giới từ và trong câu không cho các SV, còn người kia sẽ tập trung chấm dựa trên
hề có động từ nhưng cuộc trò chuyện vẫn thành công vì các tiêu chí ĐG và thang điểm đã có sẵn đồng thời ghi
đây là hình thức giao tiếp trực tiếp và người nói có thể sử chép những điều cần lưu ý để nếu cần có thể phản hồi lại
dụng thêm ngữ điệu, thái độ, nét mặt,... để hỗ trợ giao cho SV rút kinh nghiệm. Sau khi thí sinh đã rời khỏi
tiếp. Với đặc điểm như vậy nên khía cạnh ngữ pháp trong phòng hai GV sẽ thảo luận để có kết luận điểm cuối
kiểm tra, ĐG KN nói cũng nên có đặc thù riêng. cùng” [2; tr 116].
- Từ vựng trong văn nói (spoken words). Khi viết, - Việc ĐG phải tập trung vào khả năng ngôn ngữ chứ
người viết thường có thời gian để trau chuốt, lựa chọn từ không nên bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố khác như hình
vựng độc đáo, còn khi nói để làm được việc đó người nói thức, trang phục,... của thí sinh.
thường phải chèn các từ hoặc cụm từ để lấp chỗ trống - Thời gian tiến hành kiểm tra cần đủ dài để có thể
(fillers), các từ chỉ sự lưỡng lự (hesitation markers), hô đánh giá chính xác trình độ SV (theo Arthur Hughes
ngữ hoặc nhắc lại,... để có thời gian nghĩ về những gì sắp (1997) nên tối thiểu là 15 phút, còn lí tưởng là 30 phút.
nói tiếp, ví dụ: That’s a good question (thật là một câu Tuy nhiên, nếu là kiểm tra với mục đích xếp lớp thì chỉ
hỏi thú vị), let me see (để tôi xem nào), you see (như bạn cần 5-10 phút là đủ).
biết đấy), well, oh, yes,... Khả năng sử dụng thành thạo
những từ này sẽ góp phần tạo được độ trôi chảy của bài - Việc phỏng vấn cần được tiến hành trong phòng yên
nói. Một điều cần lưu ý nữa là nhiều thang điểm nói đưa tĩnh có độ cách âm tốt, đặc biệt là khi cần ghi âm lại phần
nói của SV.
ra tiêu chí về cách sử dụng từ độc đáo (less common
words). Tuy nhiên, trong văn nói thông thường thì các từ - GV cần tạo cho SV tinh thần thoải mái khi bước vào
thông dụng đơn giản cũng không kém phần thú vị, miễn phần thi, họ có thể mở đầu bằng những câu hỏi đời
là chúng được sử dụng tự nhiên và đúng ngữ cảnh. Vì thường như thời tiết, sức khỏe, sở thích... GV không nên
vậy, việc sử dụng thành công những từ này cũng phải để SV nhìn thấy việc đánh giá của mình trong quá trình
được ĐG xứng đáng. SV thực hiện phần thi vì nó sẽ làm phân tán sự tập trung
của SV.
Việc biết được những khác biệt giữa KN viết và nói
sẽ giúp việc ĐG được linh hoạt và công bằng hơn. - GV có thể khéo léo dừng phần thi của SV trước thời
gian quy định nếu thấy SV quá kém vì việc hỏi thêm
2.2.2. Tập huấn đội ngũ giảng viên chấm thi
cũng không đem lại kết quả gì. Mặt khác, đối với những
Theo các chuyên gia, bước quan trọng nhất trong quy SV cần thêm thông tin để đánh giá chính xác trình độ của
trình kiểm tra, ĐG là tập huấn đội ngũ GV chấm thi. Các họ thì GV có thể hỏi nhiều hơn.
khóa huấn luyện này có thể diễn ra trong vài ngày. Cuối
- GV khi hỏi thi không nên nói hoặc giải thích quá
khóa, học viên phải được kiểm tra để đảm bảo rằng khả
nhiều vì việc này sẽ giảm bớt thời gian nói của SV.
năng chấm của họ đã đạt trình độ ngang với những giám
khảo có kinh nghiệm. Trong quá trình chấm, nếu giám - Nên sử dụng nhiều dạng bài và nhiều câu hỏi, chủ
khảo nào chưa vững sẽ phải được huấn luyện lại [1; tr đề đa dạng để tạo sự hứng thú cho thí sinh và có được kết
177-178]. Điều này cũng được Arthur Hughes (1997) quả ĐG chính xác hơn.
nhấn mạnh: “... tính hiệu quả của các tiêu chí và thang 2.2.4. Kết hợp việc đánh giá quá trình với đánh giá cuối kì
điểm chấm phụ thuộc vào việc tập huấn đội ngũ giám Theo Coombe Christine và cộng sự (2007), KN nói
khảo” [3; tr 113]. Sau khi đã được tập huấn, giám khảo của SV có thể được tiến hành theo hai cách: ĐG nói trên
phải tuân thủ đúng các bước, thời gian hỏi cho mỗi thí lớp (Classroom Speaking Assessment) và ĐG KN nói
sinh, bám sát các tiêu chí, thang điểm đã được đưa ra.
trong các kì thi chính thức (Formal Speaking
2.2.3. Tuân thủ đúng các quy định khi chấm Asessment). ĐG trên lớp có thể thực hiện thông qua một
- Một yếu tố then chốt để đảm bảo độ tin cậy của việc số dạng như trình bày (Oral Presentations) - đây là một
ĐG KN nói đó là một thí sinh phải được ĐG bởi ít nhất KN thường được sử dụng vì nó rất thiết thực với SV
hai giám khảo. Điều này đã được các tác giả Coombe trong môi trường học thuật, việc ĐG này không chỉ chú
Christine và cộng sự (2007) khẳng định: “Vì yếu tố chủ trọng vào độ chính xác và trôi chảy của ngôn ngữ mà còn
quan là vấn đề lớn trong ĐG KN nói nên một giải pháp bao gồm cả ngôn ngữ cơ thể, biểu hiện nét mặt, ánh mắt,
được đưa ra là nhiều GV cùng ĐG một thí sinh. Càng cử chỉ,... tranh luận về một chủ đề (Debate on a
39
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 36-41
Controversial Topic), đọc to (Reading Aloud), kể chuyện đề quen thuộc - Có quy
(Retelling Stories), nói về một chủ đề đã được chuẩn bị (5-8 câu trong định thời
trước (Verbal Essays), nói về một chủ đề chưa được 5-6 phút, 10 gian tổng
chuẩn bị trước (Extemporaneous Speaking). điểm) và thời
Trên đây là những điều cần phải lưu ý và tuân thủ khi - Phần 2: Thí gian cho
tiến hành ĐG KN nói tiếng Anh đã được các chuyên gia sinh hỏi đáp từng
nghiên cứu và đề xuất. dựa trên các phần.
gợi ý đã được - Không
2.3. Một số nhận xét và đề xuất đối với các phần thi nói
in sẵn trong có thang
thuộc các học phần tiếng Anh cơ bản của Bộ môn Anh
phiếu thi (3-4 điểm
văn Trường Đại học Giao thông Vận tải
phút, 10 điểm) chấm
Từ khi thực hiện Đề án ngoại ngữ 2020, tất cả các học cụ thể.
phần thi tiếng Anh tại Trường Đại học Giao thông Vận
tải đều có ĐG KN nói của SV. Sau đây là bảng thống kê Gồm 3 phần:
đề thi nói của các học phần tiếng Anh cơ bản được Bộ - Phần 1: Hỏi - Có câu
môn Anh văn biên soạn (phần nói của tiếng Anh chuyên đáp giữa GV hỏi gợi ý
ngành sẽ không được đề cập và bàn luận do chúng có đặc và SV về chủ cho phần
thù riêng). đề quen thuộc một
Bảng 3. Sơ lược các bài thi nói của các học phần ( 2-3 phút, 5 - Có quy
tiếng Anh cơ bản từ khi áp dụng chuẩn đầu ra đến nay điểm) định thời
- Phần 2: Thi gian tổng
Điểm B1,
Miêu tả tranh theo 25/100 và thời
Cách nói/ B1*
Cấp Số lượng và Hướng (3 phút, 10 cặp gian cho
thức tổng điểm) từng phần
độ dạng bài dẫn chấm
thi điểm
- Phần 3: Hai - Không
bài thi
SV thảo luận có thang
- Có câu về chủ đề liên điểm
hỏi gợi ý quan tới bức chấm
cho phần tranh (3 phút, cụ thể
một, có 10 điểm)
đưa ra
Gồm 2 phần: Từng Theo
một số B2,
- Phần 1: Hỏi thí Theo hướng
tiêu chí B2*, Dạng đề thi
đáp giữa GV chấm cho sinh thang dẫn chấm
Từng C1, IELTS
và SV về chủ vào IELTS của
thí phần mô C1*
đề quen thuộc thi IELTS
A1 sinh 20/100 tả tranh
(7 câu - 10 Dựa trên bảng thống kê trên và thực trạng việc ra
vào - Không
điểm) đề thi, coi thi, chấm thi các phần nói của SV tại Bộ môn
thi có thang
- Phần 2: điểm Anh văn, đồng thời so với các quy trình chuẩn cũng
Miêu tả tranh chấm như những lưu ý đề cập ở trên, chúng tôi xin đưa ra một
(10 điểm) cụ thể số nhận xét và đề xuất thay đổi cho việc ĐG KN nói
- Không như sau:
có quy 2.3.1. Về đề thi và hướng dẫn chấm
định thời
Đề thi nói của bộ môn có các dạng giống với đề thi
gian
nói được các chuyên gia đề cập đó là phỏng vấn, mô tả
Gồm 2 phần tranh, thảo luận và đặc biệt là các đề nói của học phần
- Có câu
theo đề KET: Thi A2, B1, B1*, B2, B2*, C1, C1* lấy dạng chuẩn của đề
hỏi gợi ý
A2 - Phần 1: Hỏi theo 25/100 thi quốc tế khung châu Âu và IELTS nên nhìn chung là
cho phần
đáp giữa GV cặp ổn. Vấn đề cần rút kinh nghiệm ở đây là phần hướng dẫn
một
và SV về chủ chấm. Đối với các bài thi dạng IELTS thì bộ môn có cung
40
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 36-41
cấp cho GV phần mô tả thang điểm theo thang điểm 9 3. Kết luận
của quốc tế, còn các học phần còn lại thì chưa có, vì vậy Kiểm tra, ĐG luôn là động lực để thúc đẩy quá trình
GV chấm sẽ chỉ chấm vo là chủ yếu và việc chênh điểm học ngoại ngữ trong đó có KN nói. ĐG chính xác KN
giữa các GV sẽ dễ xảy ra. Vì vậy, trong thời gian tới, khi này là một việc làm khó do bị tác động bởi yếu tố chủ
tiến hành rút kinh nghiệm, các nhóm sẽ rà soát lại và bổ quan. Hi vọng bài viết sẽ là một tài liệu tham khảo hữu
sung thêm thang điểm chi tiết. Nên sử dụng loại thang ích cho những ai quan tâm đến vấn đề ĐG KN nói tiếng
điểm chia nhỏ (Analytic scales) để dễ chấm và độ chính Anh, đồng thời những nhận xét, đề xuất của chúng tôi đề
xác cao hơn. Riêng đề nói A1 cần cho thêm quy định thời cập trong đây cũng sẽ được Bộ môn Anh văn quan tâm
gian thi của mỗi phần cũng như tổng thời gian thi của và có những thay đổi cho phù hợp hơn trong thời gian tới
mỗi lượt SV.
để việc kiểm tra, ĐG môn Tiếng Anh nói chung và việc
2.3.2. Về cách tổ chức thi kiểm tra, ĐG KN nói tiếng Anh nói riêng trong các học
Phần thi nói được tiến hành ngay sau khi SV làm bài phần tiếng Anh cơ bản cho SV Trường Đại học Giao
viết sẽ giúp tiết kiệm được thời gian, tuy nhiên nếu số SV thông Vận tải đạt được hiệu quả như mong muốn.
của phòng thi đông thì nên hỗ trợ thêm GV hỏi thi để
đảm bảo tổng thời gian cho mỗi lượt thi vì như đã đề cập
Tài liệu tham khảo
ở trên thời gian cần có cho mỗi thí sinh hoặc một cặp thí
sinh ít nhất là 10-15 phút mới đảm bảo có được kết quả [1] Luoma Sari (2009). Assessing Speaking. Cambridge
ĐG chính xác. Một lưu ý nữa là khi các em đợi ở ngoài University Press.
phòng thi chờ đến lượt thường hay gây ồn ào, ảnh hưởng [2] Coombe Christine - Keith Folse - Nancy Hubley
đến độ tập trung của cả thí sinh và giám khảo trong phòng (2007). A practical guide to Assessing English
thi nên nếu có thể thì nên bố trí cho các em ngồi vào một Language Learners. The University of Michigan
phòng gần đó, không đứng ngoài hành lang. Trước khi Press.
hỏi thi, GV cần kiểm tra kĩ thẻ SV để hạn chế tình trạng [3] Hughes Arthur (1997). Testing for Language
thi hộ và yêu cầu SV kí vào bảng điểm. Việc này GV bộ Teachers. Cambridge University Press.
môn đã thực hiện khá tốt và đã nhiều lần phát hiện được
các trường hợp nhờ thi hộ. [4] Folse, K. S. (2006). The art of teaching speaking:
Research and pedagogy for ESL/EFL classroom.
2.3.3. Về quy trình chấm thi
University of Michigan Press.
So với các bước chuẩn khi tiến hành chấm thi đã nêu
[5] Bachman F. L. - Palmer S. (1996). Language
ở trên, Bộ môn Anh văn cũng cần rút kinh nghiệm ở một
Testing in Practice. Oxford University Press.
số khâu. Tập huấn GV là khâu tiên quyết để có được độ
tin cậy trong chấm thi, đặc biệt là đối với KN nói, một [6] Heaton, J. B. (1990). Writing English Language
KN bị ảnh hưởng chủ quan của người chấm rất lớn, Tests. Longman Handbooks for Language Teachers.
nhưng bộ môn Anh văn chưa làm được. Trong thời gian [7] Weir Cyril (1993). Understanding & Developing
tới, Bộ môn nên tổ chức các khóa học ngắn để hướng dẫn Language Tests. Prentice Hall International.
thêm về cách chấm nói và viết, đây là 2 KN rất dễ bị [8] Dương Thị Hoàng Oanh (2011). Kiểm tra, đánh giá
chấm chênh lệch điểm giữa hai giám khảo. Khâu tiếp kĩ năng nói tiếng Anh cấp đại học. NXB Đại học
theo là theo đúng quy định, thí sinh phải được ít nhất hai Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
giám khảo chấm và thống nhất đưa ra điểm cuối cùng,
nhưng do điều kiện SV đông nên Bộ môn thường chỉ [9] Lê Thị Minh Nguyệt (2017). Áp dụng đánh giá
phân công một giám khảo, vậy nên để hạn chế tối đa việc thay thế trong đánh giá kĩ năng nói tiếng Anh ở bậc
điểm chấm bị chênh thì các GV phải hội ý thống nhất đại học. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 7,
trước khi chấm. Một chú ý nữa là GV cần tuân thủ đủ các tr 234-237.
phần và lượng thời gian nói của SV như quy định, trong [10] Trương Trần Minh Nhật (2018). Thực trạng kĩ năng
thực tế vì lượng SV đông nên một số GV đã không làm nói tiếng Anh và đề xuất một số hoạt động tự rèn
được như vậy. Tiếp theo là việc ĐG KN nói của SV có luyện nói tiếng Anh ngoài lớp học cho sinh viên
thể được thực hiện kết hợp cả hai cách như đề cập ở trên chuyên ngành Kĩ thuật Trường Đại học Công
là ĐG quá trình trên lớp và ĐG trong bài thi cuối kì để nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Giáo dục,
kết quả ĐG được chính xác hơn. số 435, tr 54-59.
41
nguon tai.lieu . vn