Xem mẫu

  1. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG NGHIÊN CỨU CA TRÙ HIỆN NAY TRẦN ĐỨC TÙNG Tóm tắt Ca trù là một loại hình nghệ thuật độc đáo của người Việt, có lịch sử hình thành từ rất sớm, gắn với lễ hội, phong tục và văn học Việt Nam. Trải qua những thăng trầm, ca trù đã có sự biến đổi về không gian biểu diễn, thể cách/làn điệu, lề lối sinh hoạt… Năm 2009, ca trù được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Từ đó đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, sưu tầm nhằm mục đích bảo tồn và phát huy ca trù ở từng địa phương. Tuy nhiên, việc bảo tồn này đang gặp khó khăn do nhận thức về ca trù chưa thực sự đầy đủ, những phương án bảo tồn ca trù thường bị đánh đồng với các loại hình di sản khác và chưa mang lại hiệu quả. Chúng tôi cho rằng, đã đến lúc cần phải đặt đúng vị trí và làm sáng tỏ một số vấn đề về ca trù mà đông đảo nhà quản lý, nhà nghiên cứu, sinh viên đang quan tâm. Từ khóa: Ca trù, nghi lễ, di sản văn hóa phi vật thể, bảo tồn Abstract Ca tru is a unique art form of Vietnamese people which has a very early history, associated with festivals, customs and literature of Vietnam. Through the history, Ca Tru has had changes in the space of performance, style / tune, the way of performance... In 2009, Ca Tru is recognized as intangible cultural heritage that needs urgent protection by UNESCO. Since then, there have been many researches and collections for the purpose of conserving and promoting Ca Tru in each locality. However, the conservation of Ca Tru is facing many difficulties because the awareness of Ca Tru is not enough. Moreover, Ca Tru conservation plans are often equated with other ordinary heritages and have not been effective in reality. In our opinion, it is time to put Ca Tru in the right position and clarify some issues on Ca tru that many managers, researchers and students are interested in. Keywords: Ca tru, ritual, intangible cultural heritage, conservation 1. Về ý nghĩa tên gọi khác nhau của thuật dân ca quan họ Hà Bắc được thành lập đã có ngữ ca trù nhiều công trình lý giải về ý nghĩa tên gọi quan C ho đến nay, vẫn chưa ai có thể xác họ như câu chuyện về một vị quan cưỡi ngựa định một cách chính xác nghĩa gốc dừng lại; mối giao hảo giữa hai ông quan ở hai của thuật ngữ ca trù, cho dù đôi làng kết nghĩa… Kiểu lý giải ấy cũng được sử người đã đưa ra ý tưởng riêng về thuật ngữ đó dụng cho thuật ngữ ca trù, tuy nhiên những như một biểu hiện của hình thức hát thẻ1. Tuy câu chuyện kể về ca trù lại mang nhiều yếu tố nhiên, hình thức hát thẻ không chỉ thấy riêng huyền sử và gắn với các nhân vật có gốc gác trong ca trù mà nó còn xuất hiện ở hát tuồng, Trung Hoa. hát chèo ở nhiều địa phương trên cả nước. Với tư cách là một vấn đề của lịch sử, những Thực tế thì tên gọi của các loại hình diễn xướng tên gọi khác nhau của ca trù cũng được nhiều thường có nhiều câu chuyện truyền thuyết lý học giả quan tâm và coi đó là phương án cứu giải khác nhau, điều này đúng với loại hình cánh cho những lý giải của mình về nguồn gốc, quan họ ở xứ Kinh Bắc xưa. Vào thời gian Đoàn tính chất đặc trưng. Bản thân các tên gọi khác 80 Số 25 - Tháng 9 - 2018
  2. VĂN HÓA NGHỆ THUẬT nhau về ca trù đã cho thấy đây là một thể loại độ sử liệu thực ra chỉ được các tác giả thực âm nhạc rất đặc biệt. Trong nền âm nhạc cổ hiện một cách gián tiếp. Cho đến nay không truyền Việt Nam, không có một loại hình nào thấy một cuốn sách sử nào cho biết chính lại mang nhiều tên gọi như vậy. Mỗi tên gọi xác nguồn gốc của hát ca trù (6, tr.35-37). khác nhau này lại hàm ý sâu xa những không Trong cuốn sách Việt Nam ca trù biên khảo, gian văn hóa, chức năng xã hội và những hình Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề cho rằng ca vũ thức biểu hiện khác nhau của ca trù, và chỉ mới của nước ta một phần chịu ảnh hưởng của thông qua những tên gọi đó, chúng ta đã có ca vũ Trung Hoa và múa hát Chiêm Thành do thể tìm thấy biết bao hình ảnh chân thực và những cuộc chinh phục đời Lý, đời Trần du sống động của lịch sử (4, tr.24-28). Trải qua quá nhập vào (2, tr.23). trình nghiên cứu, các tác giả đã thống kê và lý Để củng cố cho quan điểm cho rằng ca giải được ý nghĩa của những tên gọi khác nhau trù là lối hát trong cung đình thời Lý, Nguyễn trong ca trù gồm: hát nhà tơ, hát nhà trò, hát Kỳ Hưng (2015) đã tìm dẫn chứng từ các sách ả đào, hát cô đầu, hát nhà ty, hát thẻ và còn Khâm Định Việt Sử (quyển 2, tr.32), Đại Việt sử có tên gọi khác là “hát gõ”. Có thể thấy, các tên ký toàn thư (quyển 3, tr.27) về những sự kiện gọi này được hình thành dựa trên 4 nguyên tắc có liên quan đến ca trù. Theo ông, nhân dịp như sau: (1) Danh từ chỉ người thực hành như sinh nhật vua Lý Thái Tông năm 1123, các quan hát ả đào, hát cô đầu, hát ca công; (2) Không đã cho dựng một vũ đình, có ca nương đứng gian sinh hoạt như hát cửa quyền, hát cửa trên xe múa và dâng rượu, và cho rằng ca trù đình, hát nhà ty, hát nhà tơ; (3) Hoạt động diễn hay hát cô đầu là một loại hát tuồng được du xướng như hát nhà trò; (4) Phương thức trả thù nhập từ Trung Hoa. Những giả thuyết về ca lao nghệ thuật như hát ca trù. trù và mối quan hệ với hát tuồng của Nguyễn Thực tế thì không ai có thể khẳng định một Kỳ Hưng cũng chỉ là những phỏng đoán bước cách chắc chắn tên gọi nào xuất hiện trước. Có đầu mà chưa hề được tác giả chứng minh một lẽ, sự ra đời của các thuật ngữ này gắn với từng cách thỏa đáng. thời kỳ, bối cảnh lịch sử và không gian khác Bên cạnh quan điểm cho rằng ca trù bắt nhau. Ví dụ như trường hợp nghiên cứu ca trù nguồn từ cung cấm thời Lý thì một số tác giả ở Thanh Hóa, Mai Thu Trang (2004) nhận thấy lại cho rằng nó ra đời vào thời Lê khi âm nhạc người dân lại gọi là hát ca công vì họ cho rằng đang thịnh hành. Nguyễn Văn Duyệt tin rằng nó có nguồn gốc từ thời Hán Vũ Đế. Theo ý kiến vào thời Hồng Đức (1470) nhà nước đã có của chúng tôi, những tên gọi khác nhau của những chấn chỉnh các âm nhạc, mà đào nương ca trù tại mỗi địa phương, mỗi bài báo trong mới có, giáo phường cũng có từ đấy. Để củng quá khứ nên được tôn trọng. Tuy nhiên, để có cố thêm cho lập luận này, Nguyễn Thụy Loan tính thống nhất trong các văn bản nhà nước đã dựa vào sự ra đời của các nhạc cụ trong ca thì chúng ta cũng nên chấp nhận tên gọi phổ trù và không gian diễn xướng chính của nó là biến ca trù hiện nay. Người Bắc Ninh hiện nay ở cửa đình để thấy rằng ca trù không thể tồn đều thấy hài lòng với tên gọi quan họ, người tại trước thời Lê khi mà đàn đáy, phách và giáo Phú Thọ cũng không có gì băn khoăn với tên phường lúc này mới xuất hiện (8, tr.62). gọi hát xoan… thế thì tên gọi ca trù tại sao lại Đứng giữa hai quan điểm chủ đạo về không thể như vậy? nguồn gốc của ca trù thì Trần Văn Khê (1962) 2. Về nguồn gốc lịch sử/địa lý của ca trù đưa ra giả thuyết về sự xuất hiện từ thế kỷ XIV Một điều dễ nhận thấy là ở Việt Nam rất ở làng Đại Xá, huyện Tiên Lữ (tỉnh Hưng Yên hiếm những sách về lịch sử và gần như không ngày nay) dựa trên một đoạn trích trong sách có tài liệu gốc trước thời Gia Long, vậy nên Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề. Theo ông những tiếp cận về nguồn gốc ca trù dưới góc thì múa hát phải có truyền thống từ trước đó Số 25 - Tháng 9 - 2018 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 81
  3. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU lâu đời hơn và thời gian này ở Việt Nam đã hóa từ rất sớm trong lịch sử âm nhạc Việt Nam có ca trù. Tuy nhiên, việc viện dẫn của tác giả (6, tr.45). Theo lập luận của Trần Văn Khê thì sân cũng chỉ dừng lại ở những sử liệu tản mạn và khấu đã có một thời kỳ thịnh hành vào năm chưa có hệ thống. Canh Tuất (1790), nhưng đến cuối thời Lê thì ca Trong khi những lý giải về nguồn gốc ca trù trù không còn theo truyền thống nữa, các đào dưới góc độ lịch sử đang xảy ra những tranh nương hoặc nữ nhạc công đồng thời cũng là luận, thiếu thốn sử liệu thì nhiều nhà nghiên vũ nữ, âm nhạc ca trù có quan hệ với âm nhạc cứu lại đi tìm câu trả lời thông qua những thính phòng và âm nhạc múa (6, tr.81-82). truyền thuyết dân gian ở từng địa phương Trải qua những thăng trầm của lịch sử, đến khác nhau. Không giống như những hình đầu thế kỷ XX, ca trù đã dần biến đổi so với thức dân ca khác ở Việt Nam, ca trù có một địa truyền thống của nó. Điều này được Đỗ Bằng bàn phân bố rất đặc biệt, trải dài ở nhiều địa Đoàn - Đỗ Trọng Huề (1962) nhận định như phương thuộc nhiều vùng miền trên cả nước. một cuộc thay đổi từ nhạc, thơ đến sắc. Quả Theo những thống kê trong Hồ sơ Di sản Phi thực vào thế kỷ này, ca trù đã có một “cuộc vật thể thì cả nước có 16 tỉnh/thành phố có lặn lội từ làng quê ra đô thị” với không gian ca trù, rải rác ở các vùng từ miền Bắc trở vào ca quán được tập trung ở các đô thị lớn như tới Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và Sài Gòn. Hiện Trong nhiều khảo cứu, Hoàng Yến (1919), nay, ca trù đang hồi sinh ở một số địa phương Phạm Quỳnh (1923), Nguyễn Đôn Phục (1923) và đối diện với xu thế sân khấu hóa. Vấn đề ở đã tạm cho ca trù xuất phát tại vùng Thanh - đây là không gian diễn xướng trên sân khấu Nghệ - Tĩnh muộn nhất là vào đầu thế kỷ XV. của ca trù có phải mới hình thành, hay nó đã Đồng tình với quan điểm này, Trần Thị An có một lịch sử lâu dài như nhận định của Trần (1999) nhấn mạnh đến cái nôi ca trù Cổ Đạm Văn Khê. Theo ý kiến riêng của chúng tôi, ca trù và qua truyền thuyết về cây đàn đáy (chỉ có ở là một sinh hoạt nghệ thuật đã được sân khấu Cổ Đạm) để giải quyết vấn đề. Tác giả cũng lưu hóa từ rất sớm. Điều này được thể hiện qua ý về mối liên quan giữa ca trù và cái nôi dân những đặc trưng về tính chuyên nghiệp trong ca Nghệ Tĩnh: Đó là việc dùng “hơi trong” của biểu diễn, tầng lớp khán giả là tinh hoa làng ca trù với âm “ư” làm nền và tiếng đưa hơi “ư, xã, mô hình tổ chức chặt chẽ… Vậy nên, trải hư, ni, nị” tạo giọng trầm trong hát giặm Nghệ qua những thăng trầm của lịch sử thì không Tĩnh. Có thể nói, việc gợi ý về mối liên hệ giữa gian nào của ca trù là quan trọng nhất? Ngày ca trù và hát giặm có chung một quê mẹ văn nay, không gian hát thờ, hát thi còn ý nghĩa hóa là một vấn đề đáng suy nghĩ. tôn giáo như trong quá khứ? 3. Không gian diễn xướng của ca trù 4. Mô hình tổ chức của ca trù truyền thống Nhiều nhà nghiên cứu đã chia ca trù làm Với tư cách làm một loại hình âm nhạc có ba lối hát chính: hát chơi, hát cửa đình, hát thi. quy định chặt chẽ, giáo phường của ca trù đã Trong đó hát chơi được tổ chức tại nhà quan được nhiều học giả đi sâu tìm hiểu. Trần Văn viên hay nhà đào nương để cho quan viên Khê cho rằng giáo phường là một tổ chức thưởng thức; Hát cửa đình là lối hát thờ thần chuyên hòa nhạc cho dân chúng và cùng với được tổ chức ở không gian đình; Hát thi được sự suy đồi của nhã nhạc, âm nhạc dân gian tổ chức ở những không gian công cộng hoặc trở nên rất thịnh hành, người ta dùng giáo nơi thờ tự của giáo phường. Nhìn chung, phần phường không những trong các đám lễ thần lớn các nhà nghiên cứu ủng hộ quan điểm về của dân gian mà ngay cả trong lễ giáo và lễ “ba không gian của hát ca trù”, tuy rằng vẫn triều hạ (6, tr.34). Nguyễn Nghĩa Nguyên thì có những ý kiến khác biệt. Một trong những ý thấy các phường hội ca trù được xây dựng trên kiến đó cho rằng ca trù là một dạng sân khấu cơ sở: cùng phụng sự một tổ nghề, có quy ước, 82 Số 25 - Tháng 9 - 2018
  4. VĂN HÓA NGHỆ THUẬT khoán ước để ràng buộc mọi thành viên trong truyền thống của gia đình, dòng họ đã được phường, có quỹ chung bằng tiền hoặc bằng thay thế bằng sự quản lý của chính quyền địa trồng lúa hay ruộng đất. Trong khi đó, Nguyễn phương. Chính yếu tố này đã làm mất đi tính Xuân Diện lại chỉ ra các giáo phường được tổ tự quản của những người thực hành ca trù chức thành các ty, ty giáo phường chia việc giữ và biến nghệ thuật này thành một sản phẩm cửa đình trong huyện cho các giáo phường, mang tính quần chúng. việc giữ này mang tính truyền đời. Cũng trong 5. Ca trù từ góc nhìn báo chí đầu thế kỷ XX nguồn cảm hứng ấy, Nguyễn Xuân Diện cũng Ca trù trong xã hội truyền thống được định chỉ ra rằng việc mua bán cửa đình trong các hình với các thiết chế làng xã, nơi nó được coi giáo phường xảy ra phổ biến nhất vào thế kỷ là yếu tố quan trọng trong nghi lễ thờ thần tại XVIII (1, tr.84). đình làng, đền, miếu. Những người thực hành Theo Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề (1962) ca trù tuy không được coi trọng trong xã hội trong lịch sinh hoạt thường niên, bao giờ các phong kiến, nhưng phần nào đó họ vẫn có một trùm phường cũng phải hội họp một lần để vị trí nhất định ở làng xã. Với tinh thần của học làm lễ tế tổ nghề. Sau ngày tế tổ, nếu có những thuyết Nho giáo, nhiều triều đại phong kiến sự vụ phải giải quyết, hội đồng các ông trùm sẽ đã không cho người trong giáo phường đi thi, cùng họp bàn, phân xử mọi việc trong nội bộ nghiêm cấm quan lại kết hôn với đào nương. mỗi giáo phường. Trong cuốn sách Việt Nam Thế nhưng, mối giao tình giữa quan viên và ca trù biên khảo hai tác giả đã thống kê được đào nương vẫn được nảy nở, dù chỉ là trong trí những luật lệ liên quan đến giáo phường: Luật tưởng. Về với hiện thực đời sống, người thực cấm quan lại lấy phụ nữ làm nghề xướng ca; hành ca trù thường phải cố kết lại với nhau Luật cấm con nhà xướng ca không được đi thi trong tổ chức giáo phường, hoặc chọn những và việc bãi bỏ luật lệ này trong các sách sử thời vùng đất khu biệt để sinh sống với mảnh trước. ruộng và nghệ thuật ca hát của mình. Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng mối quan hệ gia đình, dòng họ được coi Nếu trước đó, ca trù chủ yếu được gắn bó là sợi dây liên kết của tổ chức ca trù. Mai Thu với cửa đình, đền, thì đến thời Pháp thuộc, Trang khi nghiên cứu về ca trù Thanh Hóa đã sinh hoạt văn hóa này đã được ca ngợi, đề cao. nhận thấy nó bắt nguồn từ họ Nguyễn (Bái Cùng với lối sống và nghệ thuật thưởng thức Thượng, Định Liên), họ Lê, họ Đinh, họ Đào của người Pháp, ca trù đã vận động để mang (12, tr.67)… Đối với giáo phường Cổ Đạm (Hà tính trình diễn trong những sân khấu tại ca Tĩnh), Nguyễn Nghĩa Nguyên (2014) thấy rằng quán. Thời kỳ này, những ca quán ca trù được đó là sự kết giao của hai dòng họ Nguyễn và mọc lên khắp các đô thị trên cả nước và gắn Phan trong một làng. Ở làng Đông Môn (Hải với đó là thú ăn chơi, hưởng thụ như một thể Phòng), Trần Đức Tùng (2017) cũng chỉ ra rằng loại âm nhạc thính phòng. Thời kỳ ca trù gắn giáo phường ca trù dựa trên nền tảng của hai với ca quán đã phát triển cực thịnh và cũng là dòng họ Tiên công là họ Tô, họ Phạm. lúc nó bị cả xã hội lên án, bị coi là ví dụ của sự Có thế nói, đối với ca trù truyền thống thì suy đồi đạo đức người Việt. yếu tố gia đình, dòng họ được đặt lên hàng Vào giai đoạn đầu thế kỷ XX, hiện tượng cô đầu và đây được coi là hai nền tảng tạo nên đầu và nhà hát thực sự dành được sự quan tâm những luật tục, quy ước được lưu truyền trong của giới nhà văn như Nguyễn Mạnh Bổng, Lý nội bộ giáo phường. Tuy nhiên, hiện nay các Ngọc Hưng… Cô đầu đã trở thành một “tệ nạn giáo phường ca trù đã được thay thế bởi các xã hội”, là nguyên nhân dẫn tới bệnh hoa liễu, câu lạc bộ với quy mô và hoạt động dựa trên là mối hiểm họa cho thế hệ trẻ An Nam thời đó. tư tưởng và quan điểm của nhà nước về việc Cô đầu đã đi vào văn chương, báo chí với hình bảo tồn và giữ gìn di sản văn hóa. Ở đó, vai trò tượng của kẻ lừa lọc, bịp bợm, cờ bạc. Số 25 - Tháng 9 - 2018 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 83
  5. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU Dưới góc độ báo chí, hiện tượng cô đầu hát của mình. Đây là một thái độ rất nho nhã, cũng được một số tờ báo đi sâu khai thác và thể hiện sự thanh lịch, lễ phép của đào, kép coi đó như một chủ đề thời thượng, ăn khách. với khán giả. Vị trí ngồi của quan viên trong Vào năm 1942, tờ báo Trung Bắc chủ nhật đã các canh hát này cũng thấy sự phân biệt giữa dành ra hai số liên tiếp về chủ đề cô đầu và người hát và người nghe. Thông thường, đào nhà hát ca trù. Bên cạnh đó, những tờ báo khác nương sẽ ngồi ở chiếu, quay mặt ra cửa chính, như Phụ nữ tân văn (1933), Tiểu thuyết thứ bảy... còn quan viên sẽ ngồi ở trên phản, phía sau cũng dành nhiều trang viết cho thân phận ban nhạc này. người đào nương với lòng thương cảm. Ngày nay, sự thay đổi trong mối tương tác Tóm lại, báo chí Việt Nam trước năm 1945 giữa người nghe và người hát cũng được thể đã có những phản ánh rất đa dạng về sinh hoạt hiện ở việc tán thưởng và vị trí chỗ ngồi. Sau ca trù, tuy rằng đó phần lớn là những định kiến mỗi bài hát mà đào nương thể hiện, những và dán nhãn cho người đào nương. Điều này khán giả tán thưởng, cổ vũ bằng những tràng đã có những tác động nhất định đến sinh hoạt vỗ tay của mình. Trong trí nhớ của nhiều nghệ ca trù ở một số làng mà ca trù vẫn giữ được nhân, việc tán thưởng bằng hình thức vỗ tay nét truyền thống. Ở một số địa phương như ở được phổ biến từ thời kỳ ca quán và là hệ quả Hải Phòng, ca trù cũng bị nhìn nhận như một của sự giao thoa văn hóa Pháp. Điều này được thú vui của những người giàu có, ăn chơi và thể hiện rõ trong bộ phim “Mê thảo - Thời vang gắn liền với lối sống kiểu Pháp. Nghe ca trù và bóng”, sau khi đào nương hát xong bài thì các hút thuốc phiện đã trở thành một tệ nạn và bị quan viên vỗ tay tán thưởng với một thái độ xã hội lên án. Những dư âm của một thời suy trân trọng. Bên cạnh những thay đổi về cách thoái đã dẫn đến việc nhiều đào nương, kép tán thưởng người biểu diễn thì vị trí chỗ ngồi đàn phải giấu đi thân phận của mình, mặc bỏ của quan viên và đào, kép cũng có sự cách tân tiếng đàn, tiếng phách. để phù hợp với thời cuộc và không gian biểu diễn hiện đại. Ngày nay, quan viên chính là 6. Tính tương tác giữa nghệ sĩ biểu diễn và một thành viên của ban nhạc, vì vậy họ thường khán giả được ngồi cạnh đào nương, cùng trên một Tính tương tác giữa người nghệ sĩ và khán chiếc phản, chiếc chiếu. Còn với những khán giả trong sinh hoạt ca trù hiện nay đang có sự giả khác, họ sẽ cố gắng tìm được vị trí tốt nhất thay đổi. Tính tương tác thể hiện mối quan hệ để quan sát ban nhạc thể hiện. giữa người hát và người nghe trong các ứng Trong ban nhạc ca trù truyền thống, từ lâu xử, tán thưởng… Trong sinh hoạt ca trù truyền đã được mặc định nam đánh đàn đáy, nữ hát thống, đào nương luôn thể hiện sự ngưỡng và gõ phách. Đây là mối quan hệ xuyên suốt vọng, lễ phép với quan viên làng xã. Mỗi lần trong sinh hoạt ca trù và hiếm khi thay đổi. đến hát ở đình làng, tư gia, họ đều phải tiếp Thế nhưng, trong một bài viết của mình, Đặng đón quan viên rất cẩn thận, đầy đủ. Trước khi Hoành Loan cho rằng hiện tượng nữ tham gia bắt đầu cuộc hát, những đào nương, kép đàn và chơi đàn đáy là sự chắp lại những đứt gãy đều phải kính cẩn cúi chào khán giả. Để đáp của lịch sử, trả lại cho phái nữ sự bình quyền lại tấm chân tình này, các quan viên thường vốn có trong nghệ thuật giáo phường. Trong thưởng cho đào, kép những tấm thẻ, rồi quy các sinh hoạt ca trù hiện nay, việc nữ giới cầm đổi ra tiền. chầu đã phổ biến và được nhiều người chấp Trong sinh hoạt ca trù trong tư gia, ca quán nhận. Hiện tượng này là sự sáng tạo truyền thời kỳ về sau, mối tương tác giữa đào nương, thống hay là sự trở về của truyền thống? Từ kép đàn với quan viên vẫn được thể hiện trọn trong lịch sử, chỉ ghi nhận việc nam giới cầm vẹn thông qua việc tiếp đón, thưởng tiền. trống chầu ở sinh hoạt hát thơ hay bàn luận Bên cạnh đó, mỗi khi quan viên đánh trống thơ văn. Đó là tiền đề hình thành nên mối tình thưởng, người kép đàn phải cúi đầu để cảm văn nghệ giữa đào nương và quan viên. Hiện ơn quan viên đã khen thưởng tiếng đàn, tiếng nay, do sự nhìn nhận người cầm chầu cũng 84 Số 25 - Tháng 9 - 2018
  6. VĂN HÓA NGHỆ THUẬT thuộc ban nhạc nên việc nữ giới tham gia vị trí phường? Nguyễn Đức Thắng nhận thấy với mô này là một yếu tố mới. Nó thể hiện chức năng hình câu lạc bộ thì đó là sự biến đổi lớn nhất của người quan viên là từ thưởng thức thơ so với các giáo phường xưa vì quan điểm đặt nhạc sang biểu diễn âm nhạc. hoạt động biểu diễn, giới thiệu lên hàng đầu, 7. Vấn đề bảo tồn và phát huy ca trù hiện nay trong khi giáo phường lại đặt hoạt động bảo tồn, giữ gìn, phục dựng, truyền nghề lên hàng Vấn đề bảo tồn ca trù với những cách tiếp đầu. Cuối cùng, tác giả đã đưa ra bốn yếu tố cận khác nhau trong thời gian gần đây mới được quan tâm xem xét. Nhìn chung, trọng cơ bản để các mô hình có thể phát huy hiệu tâm của tranh luận về bảo tồn ca trù cũng như quả: (1) Các hoạt động phải có hồn cốt của giáo nhiều di sản văn hóa khác, đều xoay quanh phường xưa, nêu cao nề nếp, kỷ luật, lễ nghi; (2) phương pháp bảo tồn từ trên xuống (theo Có được không gian biểu diễn và không gian quan điểm áp đặt của nhà nước) hay của chính giáo phường; (3) Có khả năng phát huy, quảng chủ thể văn hóa (từ dưới lên), trong đó nhà bá giá trị di sản; (4) Có sự đầu tư quan tâm của nước đóng vai trò như thế nào? nhà nước, tổ chức, cá nhân (10, tr.61-65). Trước hết, có những quan điểm khác nhau Bên cạnh quan điểm bảo tồn nhìn từ góc về bảo tồn ca trù theo hình thức giữ nguyên nhìn câu lạc bộ ca trù thì những ý kiến bảo cái vốn có hay phát triển nâng cao vốn cổ. tồn từ người trong cuộc cũng đáng suy nghĩ. Nguyễn Đức Mậu cho rằng trong đời sống Trong nghiên cứu của mình, Lê Thị Bạch Vân tinh thần hiện đại, nhìn trên tổng thể, ca trù nêu lên yêu cầu của một đào nương phải trải dường như chỉ là đối tượng nghiên cứu hoặc qua nhiều tiêu chuẩn khắt khe như giọng hát, là đối tượng của những người thích bảo tồn năng khiếu âm nhạc, tri thức âm nhạc, văn thơ vốn cổ (9, tr.68). Qua đó, ông cũng phản bác và lòng đam mê nghệ thuật (14, tr.30-35). Lê việc viết lời mới cho ca trù, và cho rằng luận Thị Bạch Vân cũng kể tới một thực trạng đào điểm bình cũ rượu mới cho đến hôm nay là phi tạo ồ ạt, không hệ thống người chơi ca trù khoa học, phi nghệ thuật, phi logic, không thể hiện nay và thấy rằng phương pháp đào tạo và áp dụng được. Cùng đồng tình với quan điểm truyền bá này sẽ dẫn đến nguy cơ làm cho ca giữ nguyên những giá trị xưa cũ của ca trù, Bùi trù bị biến dạng, không có bài bản. Cuối cùng, Trọng Hiền nhận thấy luật tục giáo phường trong bài viết, tác giả cũng có đề xuất việc chính là một cơ sở để phát huy và bảo tồn ca thành lập một trung tâm ca trù để giữ gìn và trù. Ở đó người nghệ nhân truyền dạy được trả bảo tồn bộ môn nghệ thuật này. Ủng hộ quan lương để đảm bảo cho họ một mức sống trên điểm trên, Nguyễn Đình Lâm cũng nhận thấy ở trung bình, đó là cơ sở để họ giữ nghề và yêu nước ta đã và đang có những nhà hát cho nghệ nghề (4, tr.48-50). thuật cải lương, chèo, tuồng... thậm chí thành lập nhiều đoàn nghệ thuật cho nhiều nghệ Theo thống kê thì đến giữa năm 2005, cả thuật dân gian như quan họ, then, bài chòi… nước có 63 câu lạc bộ ca trù với 769 người trong khi đó, ca trù chỉ đang tồn tại dưới dạng thực hành (bao gồm 513 đào nương và 256 các câu lạc bộ. Là một loại hình nghệ thuật bác kép đàn và người đánh trống chầu) ở 14 tỉnh, học bản địa của dân tộc, mang chiều sâu nghệ thành phố, trong đó Hà Nội chiếm 1/3 tổng số thuật và chiều dài lịch sử hơn hẳn so với ba câu lạc bộ (3, tr.18-21). Có thể thấy, mô hình nghệ thuật kể trên, ca trù rất cần nhanh chóng câu lạc bộ đã trở thành một ý tưởng xuyên cho thành lập một nhà hát chuyên nghiệp tầm suốt trong cách bảo tồn di sản của nhà nước, cỡ quốc gia (7, tr.26). tuy nhiên, hoạt động của mô hình này thế nào và hiệu quả của nó ra sao thực sự là một vấn Kết luận đề cần sự lý giải. Trong một bài viết của mình, Bài viết này hy vọng sẽ giúp người đọc Nguyễn Đức Thắng trên cơ sở phân tích ba câu tìm được đôi chút kiến thức về ca trù. Những lạc bộ ca trù trong nội thành Hà Nội là: Thái Hà, thông tin nêu ở trên được dựa vào nguồn tư Thăng Long và Hà Nội đã đặt ra câu hỏi: giữ liệu chúng tôi có trong tay cũng như vài kiến nguyên mô hình câu lạc bộ hay mô hình giáo thức từ thực tế của mình. Chắc chắn, thông Số 25 - Tháng 9 - 2018 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 85
  7. VĂN HÓANGHIÊN CỨU qua một bài viết, chúng tôi khó lòng cung cấp 2. Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề (1962), Việt hết những nét phong phú, đa dạng trong sinh Nam ca trù biên khảo, Nxb. Sài Gòn, Sài Gòn. hoạt nghệ thuật ca trù, vì đây là một vấn đề 3. Tuấn Giang (2009), Tổng luận về ca trù, Tạp phức tạp và phải dành nhiều thời gian, công chí Sân khấu, số 8, tr.18-21. sức hơn nữa. Tuy nhiên, ở đây vẫn có nhiều 4. Bùi Trọng Hiền (2006), Ca trù nhìn từ sử liệu, điểm cần phải trao đổi thêm. Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 8, tr.24-28,35. Ví dụ việc nghiên cứu về các nhân vật trong 5. Nguyễn Kỳ Hưng (2015), Âm nhạc cổ truyền ca trù cũng là một chủ đề đáng quan tâm của Việt Nam, http://hatvan.vn/forum/showthread. những nhà nghiên cứu đi trước. Thế nhưng, php?t=35735, truy cập ngày 15-7-2016. họ lại dành quá nhiều sự ưu ái cho nhân vật 6. Trần Văn Khê (1962), La musique đào nương, bởi đó là nhân vật đại diện cho Vietnamienne traditionnele (Âm nhạc Việt Nam cổ thân phận người phụ nữ thời phong kiến. Tuy truyền), Presses Univeritaires de France. nhiên, người đào nương từ văn thơ đến cuộc đời vẫn là một khoảng trống chưa thể khỏa 7. Nguyễn Đình Lâm (2009), Cần có một nhà lấp. Đặc biệt người đào nương trong thời kỳ hát Trung ương cho ca trù?, Tạp chí Sân khấu, số Pháp thuộc dường như đã bị lãng quên ít 11. nhiều. Tuy thời kỳ này là thời nở rộ của các tờ 8. Nguyễn Thụy Loan (2004), Nói thêm về thời báo, tiểu thuyết, truyện ngắn nhằm phê phán điểm ra đời ca trù, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số hoặc cảm thông cho nhân vật đào nương 4, tr.44-49. nhưng trong các nghiên cứu họ thực sự vẫn 9. Nguyễn Đức Mậu (2005), Ca trù - Những vấn “im hơi lặng tiếng”. Bên cạnh đó, những vấn đề đề đã và cần phải đặt ra, Tạp chí Nghiên cứu Văn như mối quan hệ đào nương với kép đàn, giữa học, số 5, tr.68-78. nghệ sĩ và văn nhân cũng chưa dành được sự 10. Nguyễn Đức Thắng (2015), Về hoạt động quan tâm đúng mực, nhất là mối quan hệ này của câu lạc bộ, giáo phường ca trù nội thành Hà đặt trong cuộc sống hiện nay. Nội, Tạp chí Văn hóa học, số 1, tr.61-65. Nói tóm lại, vẫn còn nhiều khía cạnh chưa 11. Giang Thu, Vũ Thiệu Loan (2002), Tìm hiểu thực sự chính xác về đời sống, thực hành cũng ca trù Hải Phòng, Nxb. Hải Phòng, Hải Phòng. như nghệ thuật trong ca trù. Hơn nữa, ngày nay lại có thêm nhiều thông tin về các giáo 12. Mai Thu Trang (2004), Ca trù xứ Thanh, Tạp phường, ca quán, đền ca công được khám chí Văn hóa nghệ thuật, số 10, tr.66-69. phá. Điều này càng khiến cho việc nghiên cứu 13. Trần Đức Tùng (2017), Từ cửa đình đến sâu ca trù trong tương lai cần phải xem xét và đặt khấu: Đào, kép, quan viên và giáo phường trong trong bối cảnh đương đại. đời sống làng ca trù Đông Môn (Thủy Nguyên, Hải T.Đ.H Phòng), Luận văn Thạc sĩ Nhân học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội. (ThS., Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam) 14. Lê Thị Bạch Vân (2006), Góp bàn về bảo Chú thích tồn và phát huy nghệ thuật ca trù, Tạp chí Văn hóa 1 Theo nhận định của một số nhà nghiên cứu nghệ thuật, số 4, tr.30-34. thì ở cửa đình ngày xưa có tục lệ hát thẻ. Thẻ gọi là Trù được làm từ một mảnh tre ghi chữ, đánh Ngày nhận bài: 26 - 8 - 2018 dấu để thưởng cho ả đào thay cho tiền mặt. Đến Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 9 - 2018 cuối buổi hát, ả đào đếm thẻ tre ra tiền thưởng và Ngày chấp nhận đăng: 25 - 9 - 2018 yêu cầu quan viên thị lễ thanh toán. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Xuân Diện (2007), Nguồn tư liệu Hán Nôm với việc nghiên cứu ca trù, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 86 Số 25 - Tháng 9 - 2018
nguon tai.lieu . vn