Xem mẫu

  1. NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KINH TẾ TRI THỨC VÀ ĐẶC TRƯNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Nguyễn Thị Thu Trang* ABSTRACT The emergence of knowledge economy has opened a new economic era - the age of knowledge economy, under the impact of the stormy advances of science and technology, but notably information technology, the environment of economic and social, constituting an age of wealth creation completely different from the previous economic eras. It requires that each country, the nation that wants to survive must actively and take the initiativeto integrateinto the global economy, otherwise it will be marginalized in the general development process. Implying thatin inevitable development withthe volatile and complex of environment, require each person to change themselves to have a new vision, new thinking and intelligence to adapt to the demands of the new era. Keywords: Characteristic, economic, knowledge, today. Ngày nhận bài: 2/04/2021; Ngày phản biện: 15/05/2021; Ngày duyệt đăng: 25/05/2021. 1. Đặt vấn đề thuật. Khoảng 2000 năm tr.CN, người Babylon đã Bước vào thế kỷ XXI, dưới tác động bởi sự phát minh ra kỹ thuật luyện thép và ngành chế tạo phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ công cụ nông nghiệp phục vụ cho ngành trồng trọt mà nổi bật là công nghệ thông tin, môi trường kinh và chăn nuôi. Trước đó, khoảng 3100 năm tr.CN tế và xã hội đã có những biến đổi căn bản, đưa người Ai Cập đã biết sáng chế ra hệ thống tưới nhân loại từ thời đại kinh tế tài nguyên sang thời tiêu nước phục vụ cho trồng trọt cây lương thực đại kinh tế tri thức (KTTT). KTTT xuất hiện với và cây công nghiệp; từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI tính cách một thời đại kinh tế mới, với một nguyên tr.CN, hầu hết các quốc gia cổ đại đã biết chế tạo lý sáng tạo của cải hoàn toàn khác với các thời đại các công cụ lao động bằng kim loại để mở rộng kinh tế nông nghiệp hoặc công nghiệp trước đó. sản xuất. Tuy vậy, suốt nhiều nghìn năm của nền Trong nền KTTT, tri thức trở thành yếu tố năng kinh tế nông nghiệp, khoa học - kỹ thuật của loài động nhất, “hạt nhân” quan trọng nhất trong các người chỉ ở dạng sơ khai, khá lạc hậu; vốn tri thức yếu tố sản xuất, tạo mối liên kết, tổ chức và thúc của con người rất ít; giáo dục chủ yếu hướng đến đẩy các yếu tố khác của quá trình sản xuất. Do việc thiết lập uy quyền, kỷ cương, trật tự xã hội và đó, ai nắm được tri thức, sẽ chi phối nền kinh tế - chỉ được giới hạn trong số ít người có địa vị. Chỉ xã hội; quốc gia nào làm chủ tri thức sẽ trở thành từ thế kỷ XVII, bắt đầu của thời kỳ các cuộc cách quốc gia thống trị kinh tế - chính trị toàn cầu. mạng trong lĩnh vực tư liệu sản xuất, tri thức mới 2. Nội dung nghiên cứu được phổ biến và được vật hóa vào công cụ sản 2.1. Một số vấn đề chung về KTTT xuất, vào phương pháp sản xuất và sản phẩm, giáo Trong lịch sử sản xuất xã hội, kinh tế không dục được phổ cập rộng rãi hơn trong dân chúng. bao giờ tách khỏi tri thức, sự phát triển kinh tế Bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần luôn gắn bó mật thiết với tri thức khoa học và kỹ thứ ba  (từ 1969), con người phát minh ra bóng bán dẫn, điện tử, kết nối thế giới, liên lạc được với nhau, báo hiệu một thời đại kinh tế mới - thời * ThS Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP. Hồ Chí Minh đại KTTT. Hiện tại, loài người đang ở giai đoạn TẠP CHÍ QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ - Số 17 Quý 2/2021 43
  2. NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. APEC, định nghĩa KTTT “Là nền kinh tế trong đó Cuộc cách mạng 4.0 bắt đầu vào thời điểm chuyển việc tạo ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động giao sang thế kỷ XXI, máy tính và mạng internet lực chủ yếu của sự tăng trưởng, của quá trình tạo ra kết nối vạn vật tạo ra một cuộc cách mạng trong của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế” việc lưu giữ, trao đổi, chuyển giao, chia sẻ, tiếp [2]. Học giả Trung Quốc Ngô Quý Tùng thì khẳng cận thông  tin  và nguồn tri thức không giới hạn. định: “KTTT là nền kinh tế mà trong đó nhân tố Công nghệ gen cho phép con người can thiệp trực quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối trí tiếp vào các quá trình di truyền sinh học, tạo ra lực và việc sáng tạo, phân phối, sử dụng tri thức một nguyên lý khác để tổ chức các hoạt động trồng trong các ngành sản xuất có hàm lượng khoa học trọt, chăn nuôi, phòng chữa bệnh... Công nghệ kỹ thuật cao” [3, tr. 34]. Tuy chưa chính thức đưa nano làm cho việc chế tạo các sản phẩm vật chất ra định nghĩa nhưng mới đây, trong Văn kiện Đại đa dạng, đỡ tốn kém, sử dụng ít tài nguyên, thân hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh đến thiện với môi trường, đồng thời có nhiều tính năng xu hướng của nền kinh tế tương lai, đó là: kinh tế ưu việt hơn hẳn so với các sản phẩm sản xuất ra mà sự phát triển của nó dựa chủ yếu vào tri thức, theo lối thông thường. Công nghệ AI cho phép ghi trên nền tảng tri thức; tri thức chiếm tỉ trọng lớn nhớ và học hỏi không giới hạn, trong khi khả năng trong giá trị sản phẩm xã hội [4, tr.153],… này ở con người càng già, càng yếu đi; khả năng Sức mạnh của nền KTTT dựa vào ba loại hình làm việc 24 giờ một ngày, đem lại hiệu quả kinh công nghệ mang ý nghĩa trụ cột, điển hình:- Công tế và năng suất lao động cực lớn trong khi chi phí nghệ sinh học, bao gồm cả công nghệ gen: Bằng lại rất thấp… công nghệ sinh học, con người có thể cải tạo được  Vào năm 1996, Tổ chức Hợp tác và Phát triển những yếu tố cơ bản của thế giới hữu cơ nhằm tạo kinh tế OECD đã công bố báo cáo về một nền kinh ra những giống cây trồng và vất nuôi đem lại năng tế lấy tri thức làm cơ sở, làm nổi bật lên xu thế suất và chất lượng cao; - Công nghệ nano: Dựa phát triển mới của nền kinh tế. Kể từ đây, thuật trên những thành quả của việc sắp sếp lại cấu trúc ngữ: “kinh tế tri thức” đã nhanh chóng lan rộng nguyên tử, thông qua đó con người có thể tác động khắp thế giới. Vào những năm đầu của thế kỷ XXI, cả vào bản chất của thế giới vô cơ: - Công nghệ tin nhiều quốc gia đã đưa ra chiến lược xây dựng và học, thông tin (ICT) với các siêu máy tính: Công phát triển đất nước theo tiêu thức của nền KTTT, nghệ tin học chính là công nghệ trí tuệ điển hình. điều này chứng tỏ KTTT là xu thế phát triển tất Con người nhờ vào đó tổ chức quản lý, điều hành yếu của thời đại, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu và thực hiện các quy trình sản xuất hết sức tinh hóa hiện nay. vi, phức tạp mà con người không thể nào thực Ngày nay, khái niệm “KTTT” hay “nền KTTT” hiện nổi, thậm chí không nghĩ tới quá khứ tồn tại được đề cập đến khá nhiều dưới những cách diễn của mình. Cũng nhờ có công nghệ tin học mà con đạt khác nhau. Trong tác phẩm “Làn sóng thứ ba”, người có thể làm phong phú lên gấp nhiều lần các viết vào đầu năm 1980, Alvin Toffler, nhà Tương mối quan hệ trong đời sống xã hội, giữa con người lai học Hoa Kỳ, gọi đó là kinh tế hậu công nghiệp. với con người. Năm 1982, nhà kinh tế học J.Naisbitt, đưa ra khái Như vậy, KTTT thể hiện ở trình độ cao của nền niệm “kinh tế thông tin”. Cũng vào những năm kinh tế thế giới. Đó là một giai đoạn mà tri thức, này, các nhà kinh tế Anh đã gọi là nền “kinh tế thông tin trở thành yếu tố quyết định nhất đối với kỹ thuật cao”. Thuật ngữ “KTTT” xuất hiện muộn sự phát triển của sản xuất; khoa học và công nghệ hơn, vào những năm đầu của thế kỷ XXI. Theo Tổ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và đóng vai chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, OECD, KTTT trò quyết định hàng đầu. Đây là thời kỳ mà tri thức “Là nền kinh tế dựa trực tiếp vào việc tạo ra, phân và khả năng sáng tạo của con người trở thành yếu phối và sử dụng tri thức và thông tin” [1]. Còn Tổ tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất chức Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, cũng như của xã hội loài người nói chung. 44 TẠP CHÍ QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ - Số 17 Quý 2/2021
  3. NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG 2.2. Đặc trưng cơ bản của KTTT nhảy vọt của khoa học và công nghệ đã làm bùng 2.2.1. Nền kinh tế mà sự phát triển chủ yếu dựa nổ thương mại quốc tế với những dòng vốn khổng vào tri thức, lấy tri thức làm cơ sở lồ. Đồng thời, những luồng thông tin cực kỳ phong Đây có thể được coi là đặc trưng tiêu biểu nhất, phú với giá khá rẻ từng giờ, từng phút đang xuyên khu biệt với các nền kinh tế khác. Nền KTTT, lấy thủng biên giới các quốc gia; mặt khác nữa là một tri thức, trí tuệ làm yếu tố then chốt cho mục tiêu thị trường cao cấp để mua bán chất xám mà hình phát triển. Trong nền KTTT, tri thức, trí tuệ con thức trực quan nhất là các hợp đồng chuyển giao người và kỹ năng lao động trở thành lợi thế phát công nghệ ngày càng nhộn nhịp tạo thuận lợi cho triển lớn nhất, quyết định nhất. Khoa học - công sự phát triển nhanh KTTT ở các nước, nhất là các nghệ được thừa nhận là lực lượng sản xuất trực quốc gia còn lạc hậu theo mô hình công nghiệp tiếp và quyết định tiến trình phát triển kinh tế. Việc dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và lao động tạo ra của cải và nâng cao năng lực cạnh tranh của giá rẻ, đồng thời cũng đặt nhiều thách thức, rủi ro. nền kinh tế chủ yếu dựa vào sử dụng tri thức mới, Sự chênh lệch giàu - nghèo hiện nay chủ yếu đến công nghệ mới. Hoạt động quan trọng nhất trong từ khoảng cách tri thức. Những quốc gia vốn đã nền KTTT là việc tiếp nhận, sáng tạo, quảng bá và giàu có lại càng thịnh vượng hơn trong cuộc cạnh sử dụng tri thức mới trong tất cả các ngành, lĩnh tranh này. Tất nhiên, các quốc gia đang trên đường vực kinh tế - xã hội. phát triển nếu biết cách khai thác những lợi thế do Quyền sở hữu đối với tri thức trở thành quan toàn cầu hóa, đặc biệt là toàn cầu hóa tri thức mang trọng nhất, hơn cả  vốn, tài nguyên, đất đai. Ai lại sẽ rút ngắn được khoảng cách tụt hậu, bứt phá chiếm hữu được nhiều tài sản trí tuệ hơn, người ấy để vươn lên. sẽ chiến thắng trong cuộc đua giành lợi thế, quốc 2.2.3. Công nghệ thông tin, truyền thông được gia nào sở hữu nguồn trí tuệ lớn, quốc gia đó nắm ứng dụng rộng rãi và đóng vai trò đặc biệt quan quyền chi phối nền kinh tế toàn cầu. Pháp luật về trọng sở hữu trí tuệ do đó, trở thành nội dung chủ yếu Trong KTTT, công nghệ thông tin được ứng trong quan hệ dân sự cũng như trong thương mại dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực, trở thành nhân toàn cầu. tố quan trọng, là cầu nối trao đổi giữa các thành 2.2.2. Kinh tế tri thức mang tính toàn cầu hóa phần của xã hội toàn cầu, của mọi vấn đề. Hầu Nền kinh tế mở, ở đó, tri thức và tài năng là hết các hoạt động kinh tế - xã hội đều dựa trên cơ những “hàng hóa” không thể giam hãm hay đóng sở của công nghệ thông tin và truyền thông thông kín mà có sự trao đổi, mua - bán; sự di chuyển chất qua mạng thông tin điện tử, đều được  tin  học xám và các công trình nghiên cứu quốc tế cũng hóa, hay số hóa. Công nghệ thông tin và truyền có tính chất xuyên biên giới thông qua sự hợp tác thông không chỉ là một lĩnh vực khoa học - công giữa các nhà nghiên cứu của nhiều quốc gia khác nghệ, một ngành kinh tế - kỹ thuật mà trở thành nhau. Khác với các thời đại kinh tế trước đó, nền phương tiện chủ yếu để nâng cao năng lực cạnh KTTT lấy vốn nhân lực của quốc gia là phần chủ tranh của doanh nghiệp, động lực quan trọng cho yếu nhất tạo nên sự phồn vinh của các quốc gia. sự phát triển của tất cả các ngành, lĩnh vực. Xã hội Con đường đi tới thành công cho quốc gia và cá thông tin là tiền đề cho nền KTTT. Thương mại nhân cuối cùng chính là sự đầu tư vào vốn nhân điện tử, chính phủ điện tử, làm việc từ xa, các văn lực. Do đó, nếu như giới hạn thương mại gây thiệt phòng ảo, tổ chức ảo, chữa bệnh trên mạng (chữa hại cho người tiêu dùng cũng như cản trở tính sáng bệnh từ xa), giáo dục từ xa,... đang làm thay đổi tạo kinh tế thì đóng cửa đối với dòng chảy tự do hết sức sâu sắc cách thức sản xuất kinh doanh, tổ của con người và ý tưởng là cản trở sự tạo ra tri chức quản lý theo hướng tăng tốc độ, năng suất, thức vốn là huyết mạch của những thành công chất lượng và hiệu quả. Mạng Internet làm cho thế kinh tế. giới xích lại, ngày càng trở lên nhỏ bé. Tri thức Toàn cầu hóa trong bối cảnh cách mạng đại và thông tin không biên giới làm cho hoạt động TẠP CHÍ QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ - Số 17 Quý 2/2021 45
  4. NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG kinh tế vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và trở thành trong những thành tố cấu thành không thể thiếu hoạt động liên kết mang tính toàn cầu. Trong một của lực lượng sản xuất hiện đại. Ở nhiều nước, “xã hội mạng”, các hoạt động sản xuất kinh doanh nhất là các nước công nghiệp phát triển,do nhu ngày càng sôi động, nhanh nhạy, quan hệ giữa sản cầu khách quan đã xuất hiện các “công viên khoa xuất và tiêu dùng trực tiếp hơn, có thể dễ dàng học”, “thành phố khoa học”, các “khu công nghệ thực hiện sản xuất theo đơn đặt hàng; hình thức cao”... nhằm tạo ra môi trường, điều kiện thuận tổ chức sản xuất trở lên linh hoạt, cơ động hơn; sự lợi để khoa học, công nghệ và cơ sở sản xuất gắn liên kết giữa các doanh nghiệp, giữa sản xuất với kết chặt chẽ với nhau, tạo nên một “cơ thể” thống cung ứng nguyên liệu, với thị trường tiêu thụ trở nhất. Đặc biệt, công nghệ cao đòi hỏi tư duy và lên chặt chẽ, gắn bó hơn. Chi phí giao dịch sẽ giảm nhận thức ở trình độ cao của người sáng tạo và đi rất nhiều do thương mại điện tử có khả năng sử dụng nó. Khu công nghệ cao là nơi biến các kết nối trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu tri thức mới, phát triển khoa học mới thành công dùng, dẫn đến giảm thiểu nhiều khâu trung gian nghệ và sản phẩm. Đó là hạt nhân của KTTT. giữa các bên mua và bán. Kết quả quan trọng nhất 2.2.5. Sáng tạo là động lực chủ yếu thúc đẩy sự của việc phát triển thương mại điện tử là sự hạ thấp phát triển kinh tế - xã hội những rào chắn và chi phí đi vào thị trường. Trong Trong nền KTTT, chính sách và ý tưởng đổi thời đại tri thức, thông tin trở thành tài nguyên mới, phát triển công nghệ mới trở thành chìa quan trọng nhất của nền kinh tế.Như vậy, công khóa cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao nghệ thông tin có vai trò quan trọng đối với sự phát chất lượng cuộc sống. Sáng tạo là một phẩm chất triển của xã hội hiện đại, là một trong những động của con người, trong đó, con người thông qua hoạt lực quan trọng bậc nhất của sự phát triển, cùng với động sống để tạo nên những giá trị tinh thần, giá một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến trị vật chất có tính mới về chất đối với nhu cầu và đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, thúc lợi ích của sự phát triển xã hội. Bản chất con người đẩy tăng trưởng kinh tế và kích thích tăng lực đổi vốn có khả năng sáng tạo và trong thời đại tri thức, mới đối với nền kinh tế toàn cầu nói chung và của sáng tạo tri thức là động lực tối ưu nhất cho sự phát từng quốc gia nói riêng. triển bền vững. 2.2.4. Sản xuất công nghệ trở thành loại hình Tuy nhiên, phẩm chất sáng tạo của con người sản xuất quan trọng bậc nhất của nền kinh tế lại được bắt nguồn từ chính nhu cầu sinh tồn của Sản xuất công nghệ cao trở thành ngành sản họ, do đó, để cái mới luôn được nảy nở và phát xuất tối quan trọng. Công nghệ cao xuất phát từ tri huy, cần một chính sách kích thích mạnh vào tính thức khoa học, là thành tựu của cuộc cách mạng tích cực, sáng tạo của con người. Khác biệt giữa tri khoa học - công nghệ hiện đại. Công nghệ cao thức với các nguồn vốn khác là nó chịu sự khống cho phép sản xuất các sản phẩm có tính năng hoàn chế hoàn toàn của người có nó, người khác không toàn mới, chưa có trước đây và không thể thay thế thể dịch chuyển nó một cách tùy tiện. Chính ở đây, được. Khoa học, công nghệ được coi là lực lượng một chế độ sở hữu tài sản tri thức phù hợp, đảm sản xuất trực tiếp, là yếu tố quan trọng và có ý bảo nguyên tắc lợi ích cùng hưởng, cùng chịu giữa nghĩa quyết định sự phát triển của kinh tế - xã hội, bên cung ứng và người thụ hưởng sản phẩm trí tuệ không giản đơn chỉ với nghĩa là khoa học tham gia cần được tôn trọng. vào quá trình sản xuất bằng việc tạo ra công nghệ, 2.2.6. Kinh tế tri thức thúc đẩy dân chủ hóa đề ra và xây dựng phương pháp tổ chức và quản Trong nền KTTT, mọi người đều dễ dàng truy lý để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng cập đến các thông tin cần thiết, mở ra khả năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả của sản xuất, thực tế cho quá trình dân chủ hóa trên mọi lĩnh trong nền KTTT, khoa học trở thành lực lượng vực, nhất là trong việc tiếp cận và tiếp nhận các sản xuất trực tiếp còn với nghĩa là khoa học có công nghệ mới, thậm chí là cả công nghệ hiện đại thể trực tiếp làm ra sản phẩm khoa học và là một nhất. 46 TẠP CHÍ QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ - Số 17 Quý 2/2021
  5. NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG Dân chủ hóa trong lĩnh vực công nghệ là nét giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển nổi bật của kinh tế thông tin. Chính những thành kinh tế tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc tựu của khoa học và công nghệ đã tạo điều kiện sống. Ngày nay, loài người đang bước vào một thời cho quá trình dân chủ hóa trong lĩnh vực này, nhờ đại kinh tế mới lấy việc chi phối, chiếm hữu nguồn đó các nước chưa đủ khả năng phát minh có cơ tài nguyên trí lực và sử dụng, phân phối, sản xuất hội đón nhận được lực công nghệ tân tiến. Sự xuất tri thức làm nhân tố chủ yếu. Tri thức trở thành một hiện của công nghệ thông tin hiện đại như vệ tinh, nhân tố sản xuất quan trọng nhất, thức đẩy vai trò truyền hình cáp, truyền hình qua vệ tinh cùng với của đất đai, tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động các thiết bị thu hiện đại cực nhạy nhưng lại hết sức giá rẻ xuống hàng thứ hai. gọn nhẹ, Internet, đặc biệt là Internet băng rộng,... đã làm cho quá trình dân chủ hóa mang tính chất Tài liệu tham khảo của một bước ngoặt thực sự trong đời sống xã hội. 1. Organization for Economy Cooperation and Với các phương tiện truyền thông cực kỳ chính Development (OECD), (2001) “The new economy: xác, nhanh chóng và hữu hiệu này, mọi người, dù Beyond the hype” (Nền kinh tế mới: Vượt lên trên sống ở nơi thị thành, chốn thôn quê hay ở những sự cường điệu), Final report on the OECD Growth. vùng núi rừng heo hút, về nguyên tắc, đều có thể 2. Asia-Pacific Economic Cooperation (APEC), cùng một lúc biết được những sự kiện nóng hổi (2000) “Towards knowledge-based economies in vừa xảy ra hoặc đang tiếp diễn, tại một địa điểm xa APEC” (Hướng tới các nền kinh tế dựa trên tri xôi bất kỳ nào đó trên hành tinh. thức trong APEC), APEC Economic Committee Dân chủ hóa thông tin thông qua các phương Report, 11.2000. tiện truyền thông hiện đại trên không chỉ đem lại 3. Ngô Quý Tùng (2000), Kinh tế tri thức - xu cho con người những kiến thức và tin tức mới nhất thế mới của xã hội thế kỷ XXI, NXB Chính trị có thể chưa kịp cập nhật trong các sách báo viết, Quốc gia, Hà Nội. cho phép người ta trao đổi, thảo luận, tranh luận, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện trình bày chính kiến của mỗi người về tất cả các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính vấn đề, kể cả những vấn đề nhạy cảm nhất, đang trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. được quan tâm mà còn không cho phép các hành 5. Bùi Thị Kim Hậu (2012), Trí thức hóa công vi bưng bít thông tin, không minh bạch, che giấu nhân Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện những hành động sai trái, những tội ác chống lại nay, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. con người và loài người. Dân chủ hóa thông tin, vì 6. Phan Thị Hiên (2016), Tư tưởng chính trị vậy cũng góp phần không nhỏ vào quá trình dân Montesquieu và những vấn đề đặt ra đối với thực chủ hóa kinh tế, dân chủ hóa quyền lực, dân chủ tiễn chính trị ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia hóa việc hoạch định chính sách và góp phần làm - Sự thật, Hà Nội. trong sạch nền hành chính quốc gia. Quyền lực và 7. Nguyễn Đắc Hưng (2005), Trí thức Việt Nam sức mạnh thông tin thậm chí có thể trở thành sức trước yêu cầu phát triển đất nước, NXB Chính trị mạnh chính trị, làm khuynh đảo cả một chế độ hay Quốc gia, Hà Nội. một tập đoàn cầm quyền. 8. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí tuệ 3. Kết luận trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, NXB Chính Nền KTTT là nền kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở trị Quốc gia, Hà Nội. tri thức, khoa học; dựa trên việc tạo ra và sử dụng tri 9. Đặng Mộng Lân (2002), Kinh tế tri thức và thức, phản ánh sự phát triển của lực lượng sản xuất những vấn đề cơ bản, NXB Thanh niên, Hà Nội. ở trình độ cao. Trong môi trường đó, tri thức tất yếu 10. Ban Chấp hành Trung ương (2008), Nghị trở thành yếu tố sản xuất quan trọng nhất, đóng góp quyết số 27-NQ/TW, ngày 6/8/2008 về xây dựng vào phát triển kinh tế - xã hội. KTTT là nền kinh tế đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội. TẠP CHÍ QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ - Số 17 Quý 2/2021 47
nguon tai.lieu . vn