Xem mẫu

  1. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 5/2016 77 MỘT SỐ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRONG TỤC NGỮ VIỆT NAM 1 Lê Thị Thơi , Cầm Thị Phượng Trường Cao ñẳng Sư phạm Điện Biên Tóm tắt: tắt: Tục ngữ tuy không phải là triết học nhưng về phương diện nào ñó nó rất gần gũi với triết học. Tục ngữ ñược làm ra với mục ñích triết lý, luôn cố gắng phát hiện ra bản chất và tính quy luật của các sự vật hiện tượng, nên tục ngữ chứa ñựng nhiều tư tưởng, quan niệm triết học rất giá trị. Trong phạm vi bài này, chúng tôi bàn về một số tư tưởng triết học thể hiện trong tục ngữ Việt Nam. Từ những câu tục ngữ ngắn gọn, súc tích, ta có thể tìm thấy những câu trả lời cho những vấn ñề triết học và qua ñó, thấy ñược giá trị chân lý, giá trị nhân văn của tư tưởng triết lý dân gian. Từ khoá khoá: oá: Tục ngữ, tư tưởng, quan niệm triết học. 1. MỞ ĐẦU Tục ngữ là những nhận ñịnh, quan niệm của người xưa về những kinh nghiệm trong lao ñộng sản xuất; về các hiện tượng tự nhiên, lịch sử xã hội; về tư tưởng, ñạo ñức, triết lý dân gian của dân tộc. Tục ngữ ñược làm ra với mục ñích triết lý, luôn cố gắng phát hiện ra bản chất và tính quy luật của các sự vật hiện tượng nên tục ngữ chứa ñựng nhiều tư tưởng, quan niệm triết học rất giá trị. Làm rõ những tư tưởng triết học trong tục ngữ Việt Nam giúp chúng ta có cái nhìn khách quan, toàn diện ñối với thể loại văn học dân gian này. Đồng thời, ñây cũng là cơ sở lý luận có tính nguyên tắc giúp chúng ta sử dụng tốt phương pháp luận triết học ñể tìm hiểu tục ngữ cũng như vận dụng tục ngữ trong công việc và cuộc sống một cách hiệu quả. 2. NỘI DUNG 2.1. Các khái niệm Tục ngữ là thể loại văn học dân gian, là sáng tác cô ñọng nhất, tồn tại dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp ñiệu, dễ nhớ, dễ truyền nhằm ñúc kết kinh nghiệm, tri thức của nhân dân. 1 Nhận bài ngày 15.05.2016; gửi phản biện và duyệt ñăng ngày 24.05.2016 Liên hệ tác giả: Lê Thị Thơi; Email: lethoidb@gmail.com
  2. 78 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI Theo Vũ Ngọc Phan "Tục ngữ là một câu tự nó diễn ñạt trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân lý, một công lý, có khi là một sự phê phán. Thành ngữ là một bộ phận câu có sẵn mà nhiều người quen dùng nhưng tự riêng nó không diễn ñược một ý trọn vẹn" [9, tr. 31- 32]. Triết học là phạm trù ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng, bao gồm hệ thống những tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Do ñó, những tri thức triết học ñược phản ánh thông qua các khái niệm, phạm trù, quy luật vận ñộng, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy nhằm xây dựng thế giới quan và phương pháp luận cho hoạt ñộng nhận thức khoa học và thực tiễn ñời sống của con người. 2.2. Một số tư tưởng triết học trong tục ngữ Việt Nam Tục ngữ tuy không phải là triết học nhưng về phương diện nào ñó nó rất gần gũi với triết học. Tác giả Đặng Hiển trong bài viết: "Triết lý về con người trong văn học dân gian Việt Nam" ngày 01/12/2009 ñã nhận xét: "Nếu hiểu triết học là những nhận thức khái quát về thế giới khách quan, về con người với những quan hệ có tính bản chất, tính quy luật, thì nông dân có triết học, triết học sâu sắc nữa là khác, triết học ñó thể hiện trong văn hoá, văn hoá ñời sống, văn hoá dân gian mà hạt nhân là văn học dân gian, văn học truyền miệng với nhiều thể loại: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, câu ñố, ca dao, tục ngữ..." [3]. Tri thức của tục ngữ là tri thức dân gian, ñược ñúc rút ra trên cơ sở quan sát và miêu tả cái cụ thể, ñó là những tri thức kinh nghiệm. Do ñó, tục ngữ còn ñược gọi là "triết lý dân gian", "triết học của nhân dân lao ñộng". Điều ñó có nghĩa là trong nội dung của tục ngữ ñã chứa ñựng những yếu tố của tư tưởng triết học tuy không ñược thể hiện một cách ñầy ñủ và chặt chẽ như những nguyên lý, quy luật, phạm trù triết học. Tục ngữ phản ánh bản thể luận và nhận thức luận triết học Về mặt bản thể luận, phần lớn tục ngữ Việt Nam ñã phản ánh thế giới quan duy vật. Mặc dù không thể hiện dưới hình thức nguyên lý, quy luật, phạm trù nhưng những tư tưởng triết học sơ khai ñã ñược ñề cập tới, chẳng hạn như thừa nhận sự tồn tại và vận ñộng khách quan của thế giới không phụ thuộc vào con người: Chạy trời không khỏi nắng, chạy mưa không khỏi trời, "trời", "nắng", "mưa" ở ñây chính là hiện thực khách quan. Hay khẳng ñịnh sự vật và hiện tượng tồn tại, vận ñộng và phát triển theo quy luật khách quan vốn có của nó: Trăng ñến rằm thì trăng tròn, sao ñến tối thì sao mọc; Còn da lông mọc, còn chồi nẩy cây... Rõ ràng không trực tiếp giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nhưng những tư tưởng trên ñã phản ánh nhận thức có tính duy vật tự phát, thừa nhận sự tồn tại, vận ñộng
  3. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 5/2016 79 và phát triển của thế giới không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Không chỉ thừa nhận và hành ñộng theo quy luật khách quan mà nhân dân ñộng còn nhận thấy vai trò của nhân tố chủ quan, của ý chí, quyết tâm thay ñổi, cải tạo tự nhiên, bắt tự nhiên phục tùng mình: Vắt ñất ra nước, thay trời làm mưa... Thế giới quan duy vật tự nhiên, sơ giản của nhân dân lao ñộng còn ñược thể hiện ở thái ñộ phản ñối những chuyện mê tín dị ñoan và những người làm các nghề thầy bói, thầy cúng: Thầy bói nói dựa; Xem bói ra ma, quét nhà ra rá; Hòn ñất mà biết nói năng. Thì thầy ñịa lý hàm răng không còn... Mặc dù ñã có những tư tưởng duy vật mang tính chất trực quan, ngây thơ, chất phác, nhưng thế giới quan của người xưa còn biểu hiện tính không thuần nhất, có sự ñan xen giữa yếu tố duy vật và duy tâm. Tuy có nghi ngờ, không tin vào các loại "thầy" làm nghề mê tín, nhưng họ lại tin vào thần thánh, vào vận hạn, vào tướng mạo và những dấu vết trên cơ thể con người, vào ngày giờ lành dữ, và nhất là tin vào số mệnh: Một khoáy sống lâu, hai khoáy trọc ñầu, ba khoáy chóng chết; Chớ ñi ngày bảy, chớ về ngày ba; Trăm ñường tránh chẳng khỏi số; Số giàu tay trắng cũng giàu, số nghèo chín ñụn mười trâu cũng nghèo... Những tư tưởng duy tâm, mê tín nói trên không những chi phối nặng nề ñời sống của nhân dân lao ñộng nước ta trong các xã hội trước ñây, mà còn ảnh hưởng không nhỏ ñến một bộ phận nhân dân trong xã hội ta ngày nay, ñặc biệt là ñối với lớp người làm nghề buôn bán và tầng lớp thanh niên gặp nhiều khó khăn, trắc trở về tình duyên, về công việc làm ăn... Chỉ có sự phát triển của ñời sống xã hội, của trình ñộ nhận thức và kinh nghiệm thực tế của mỗi người mới có thể dần dần khắc phục và loại trừ những quan niệm sai lầm trong thế giới quan và nhân sinh quan. Về mặt nhận thức luận, mặc dù xuất phát từ kinh nghiệm nhưng tục ngữ ñã ít nhiều ñề cập ñến các cấp ñộ của nhận thức cũng như mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn và từ ñó khẳng ñịnh khả năng nhận thức của con người. Trong tục ngữ Việt Nam thể hiện rất rõ quan ñiểm thực tiễn, khẳng ñịnh sự hiểu biết (hay nhận thức) của con người bắt nguồn từ chính thực tiễn. Muốn nên người, muốn hiểu biết nhiều, có kiến thức rộng, am hiểu sự ñời, phải lăn lộn với cuộc sống, phải ñi nhiều, phải ñi ñây ñó ñể thu lượm, học hỏi những tri thức của cuộc sống ñể nâng cao, mở rộng tầm nhìn, tầm hiểu biết của bản thân mình: Đi một ngày ñàng học một sàng khôn. Người xưa cũng quan niệm giỏi lý thuyết không bằng giỏi thực hành: Trăm hay không bằng tay quen; Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm. Không chỉ ñề cao vai trò của thực hành, thực tiễn, người xưa còn thấy ñược vai trò to lớn của lý luận ñối với thực tiễn: Làm việc không kế hoạch như bắt chạch ñằng ñuôi. "Kế
  4. 80 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI hoạch" ñược hiểu là kết quả của nhận thức lý luận, còn "bắt chạch ñằng ñuôi" là việc làm rất khó. Nếu không có lý luận dẫn dắt thì khó có thể thành công trong thực tiễn. Nhận thức của người xưa có phần chính xác vì do ñúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn mà có. Tuy nhiên, do trình ñộ của họ còn thấp kém, kỹ thuật sản xuất còn thô sơ cùng với sự bất lực trước các thế lực xã hội nên nhận thức của người xưa còn nhiều hạn chế. Từ chỗ sợ hãi trước những lực lượng thiên nhiên luôn luôn ñe doạ, con người ñi ñến sùng bái, tôn thờ những lực lượng ấy. Chính vì vậy, trong tục ngữ bên cạnh quan ñiểm duy vật còn ñan xen quan ñiểm duy tâm tạo nên yếu tố nhị nguyên trong thế giới quan của họ. Tục ngữ phản ánh tư duy biện chứng Cùng với tư tưởng duy vật tự phát, trong tục ngữ Việt Nam cũng chứa ñựng rất nhiều những yếu tố của tư duy biện chứng. Người xưa nhìn nhận các sự vật và hiện tượng không phải ở trạng thái ñứng im, bất biến mà ở trong sự vận ñộng, biến ñổi và phát triển: Trời còn có khả năng khi mưa, ngày còn khi sớm khi trưa nữa người; Người có lúc vinh, lúc nhục, nước có lúc ñục lúc trong; Hết cơn bĩ cực ñến kỳ thái lai; Nước chảy, ñá mòn... Các sự vật và hiện tượng không tồn tại ñộc lập, tách rời nhau mà giữa chúng có những mối liên hệ, tác ñộng qua lại lẫn nhau, quy ñịnh và ảnh hưởng lẫn nhau: Hổ cậy rừng, rừng cậy hổ; Cháy thành vạ lây; Trâu bò ñánh nhau ruồi muỗi chết... Tuy chưa sử dụng phạm trù "chất", "lượng", "ñộ", "thuộc tính"... như triết học, nhưng mối quan hệ giữa lượng và chất lượng ñược tục ngữ thể hiện khá rõ nét. Phân biệt chất khác nhau ñược tạo nên bởi những thuộc tính khác nhau: Quý hồ tinh bất quý hồ ña; Văn hay chẳng lọ dài dòng. Chất bao giờ cũng ñược coi trọng hơn lượng. Không thể lấy lượng thay chất ñược dù rằng lượng ñó gấp bao nhiêu lần: Trăm ñom ñóm không bằng bó ñuốc, trăm hòm chì chẳng ñúc lên chuông. Sự thay ñổi về lượng khi vượt "ñộ" sẽ dẫn ñến sự thay ñổi về chất: Quá mù ra mưa; Tốt quá hoá lốp; Góp gió thành bão, góp cây nên rừng; Năng nhặt chặt bị; Tích tiểu thành ñại... Quan hệ mâu thuẫn ñược tục ngữ ñề cập ñến trong tự nhiên và xã hội như: Được mùa cau, ñau màu lúa, Được mùa lúa úa mùa cau; Được lòng ta xót xa lòng người; Kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra... Sự vật hiện tượng luôn chứa ñựng tính hai mặt, phải nhận thức ñược cả ñiểm mạnh, ñiểm yếu của mình mới là người sáng suốt: Lươn ngắn chê Trạch dài; Thờn Bơn méo miệng chê Trai lệch mồm... Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng ñược tục ngữ ñề cập ñến ở nhiều góc ñộ khác nhau. Bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua hiện tượng: Trông mặt mà bắt hình dong; Người khôn dồn ra mặt; Khôn ngoan hiện ra nét mặt, què quặt hiện ra chân tay... Có thể căn cứ
  5. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 5/2016 81 vào hiện tượng ñể kết luận về thực chất sự vật: Nứa trôi sông chẳng giập thì gẫy, gái chồng rẫy chẳng chứng nọ cũng tật kia... Hiện tượng khác nhau nhưng bản chất chỉ là một: Khác lọ cùng một nước; Bình mới, rượu cũ... Phải cảnh giác với những hiện tượng xuyên tạc bản chất: Thủ thỉ nhưng mà quỷ ma; Tẩm ngẩm tầm ngầm mà ñấm chết voi; Bên ngoài thơn thớt nói cười, bên trong tẩm ngẩm giết người không dao... Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả ñược thể hiện trong tục ngữ dưới góc ñộ triết lý nhà Phật: Không có lửa sao có khói; Gieo gió gặt bão... Người Việt Nam luôn tin ở hiền gặp lành, vì họ giàu thiện tâm và tin vào luật nhân quả. Tư tưởng này không chỉ là lời răn của triết lý nhà Phật, mà còn là lời tâm niệm chân thành của người Việt ñược họ chiêm nghiệm và lý giải trong văn học dân gian: Đời cha ăn mặn, ñời con khát nước. Thành quả hôm nay là kết quả của hôm qua, nỗ lực hôm nay là nguyên nhân thắng lợi của ngày mai: Có công mài sắt, có ngày nên kim... Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung trong tục ngữ có lúc là sự phân biệt giữa cái bộ phận và cái toàn thể như: Thấy cây mà không thấy rừng... có lúc là là sự gắn bó và phân biệt giữa cá thể và và loài trong thế giới sinh vật: Thân chim cũng như thân cò; Lòng vả cũng như lòng sung, một trăm con lợn cũng chung một lòng; Sống mỗi người mỗi nết, chết mỗi người mỗi tật... Phương pháp tư duy biện chứng trong tục ngữ Việt Nam mặc dù là tự phát, nhưng rất sinh ñộng, phong phú. Không chỉ dừng ở việc nêu ra các quy luật vận ñộng hay diễn biến của các sự vật hiện tượng tự nhiên, xã hội cùng các hệ quả của nó, mà người xưa còn có những bước tiến xa hơn trong việc xác ñịnh phương pháp xem xét, nhìn nhận, ñánh giá sự vật. Tục ngữ phản ánh những vấn ñề triết học xã hội Nhân dân lao ñộng xưa nhận thức rất rõ vật chất quyết ñịnh tinh thần, tồn tại xã hội quyết ñịnh ý thức xã hội: Có thực mới vực ñược ñạo. Trong cuộc sống, cần quan tâm trước hết tới những ñiều thiết thực nhất như ăn và mặc: Mẻ không ăn cũng chết; Cơm ba bát, áo ba manh, ñói không xanh, rét không chết... Rõ ràng, ở một góc ñộ nhất ñịnh, quan niệm của người xưa ñã chứa ñựng những tư tưởng gần gũi với quan ñiểm duy vật lịch sử cho rằng suy cho cùng tồn tại xã hội quyết ñịnh và sinh ra ý thức xã hội, ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Những tư tưởng ñó có phần ñúng ñắn vì nó xuất phát từ chính thực tiễn ñời sống của nhân dân. Cũng từ thực tiễn sinh ñộng ñó cha ông ta còn nêu bật vai trò của lao ñộng và thấy rõ giá trị của lao ñộng: Khen nết hay làm, ai khen nết hay ăn; Có khó mới có miếng ăn; Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ... Tuy không nêu lên những mệnh ñề có tính chân lý như
  6. 82 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI những nhà kinh ñiển của chủ nghĩa Mác – Lênin: "lao ñộng là ñiều kiện cơ bản ñầu tiên của toàn bộ ñời sống con người", nhưng cha ông ta ñã nhận thấy rất rõ một sự thật hiển nhiên là muốn có ăn, có mặc thì phải lao ñộng. Bên cạnh những yếu tố duy vật tự phát trong lĩnh vực ñời sống xã hội, tục ngữ Việt Nam còn thể hiện nhân sinh quan sâu sắc, ñó là tư tưởng duy vật, tư tưởng nhân văn về con người, ñề cao hết mức giá trị và vị thế của con người trong trời ñất. Về mặt tự nhiên, mọi con người ñều như nhau, ñều là sản phẩm của tự nhiên. Song trong xã hội có giai cấp, con người lại bị phân ra thành kẻ giàu - người nghèo, kẻ sang - người hèn. Sự khác nhau giữa họ là do quan hệ xã hội, do ñịa vị xã hội quy ñịnh: Tắt ñèn, nhà ngói cũng như nhà tranh... Con người vốn là sản phẩm của tự nhiên, nhưng là sản phẩm cao nhất, hoàn mỹ nhất của tự nhiên. Nó vừa có vẻ ñẹp về thể xác, vừa có vẻ ñẹp về tâm hồn, trí tuệ. Đó không chỉ là thiên nhiên tự nó, mà còn là thiên nhiên cho nó: Người ta là hoa ñất. Câu tục ngữ là sự trân trọng, ñề cao giá trị con người. Con người là sản phẩm của tự nhiên, nhưng ñồng thời cũng là sản phẩm của xã hội. Con người không chỉ là tâm ñiểm của trái ñất mà còn là tâm ñiểm của vũ trụ vì con người có trí tuệ. Trí tuệ ñã ñem lại cho con người sự tìm tòi khám phá, những kiến thức khoa học tạo nên những biến ñổi lớn lao trong ñời sống xã hội. Ngoài những nhu cầu bản năng, con người còn có ý thức, có khả năng thăng hoa những nhu cầu ấy thành văn hoá Người. Chẳng hạn, con người thăng hoa nhu cầu ăn uống thành văn hoá ẩm thực: Ăn trông nồi, ngồi trông hướng; Một miếng giữa ñàng bằng một sàng xó bếp... Ý thức xã hội của người Việt Nam xưa ñược phản ánh ñậm nét trong tục ngữ. Ý thức ấy không chỉ là ý chí, mà còn là tình cảm thiết tha, cụ thể, thiêng liêng và sâu nặng với nòi giống, quê hương, ñất nước... Chẳng hạn như các câu tục ngữ sau: Một giọt máu ñào hơn ao nước lã; Thương người như thể thương thân; Lá lành ñùm lá rách; chim có tổ, người có tông... Tuy ở những góc ñộ phản ánh khác nhau nhưng tục ngữ Việt Nam ñã phác hoạ rất rõ nét ñời sống vật chất và ñời sống tinh thần của cha ông xưa, ñặc biệt, trong tục ngữ còn phản ánh ñậm nét nhân sinh quan cũng như thế giới quan người Việt, chứa ñựng những yếu tố duy vật, biện chứng thô sơ, chất phác. 3. KẾT LUẬN Văn học dân gian nói chung, tục ngữ nói riêng là giá trị tinh thần bất tử của nhân dân ta. Việc nghiên cứu tìm hiểu một số tư tưởng triết học thể hiện trong tục ngữ thực chất là
  7. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 5/2016 83 làm sáng tỏ chiều sâu của những quan niệm, triết lý... phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan của người xưa. Những quan niệm, triết lý ấy ñã chi phối cách ứng xử của con người Việt Nam trong mọi mối quan hệ, mọi lĩnh vực của ñời sống. Học tập triết lý cha ông trên hệ quán chiếu của chủ nghĩa duy vật biện chứng ñòi hỏi chúng ta phải làm cho những giá trị ñó thực sự là một nguồn nhựa sống nuôi dưỡng tâm hồn, chắp cánh cho thế hệ tương lai những hoài bão lớn lao về xây dựng cuộc sống mới tốt ñẹp hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Nguyễn Nghĩa Dân (2001), Đạo làm người trong tục ngữ ca dao Việt Nam, Nxb Thanh niên. 3. Đặng Hiển (2009), Triết lý về con người trong văn học dân gian Việt Nam, websitse http://chungta.com 4. Đinh Gia Khánh, Chu Văn Diên và Võ Quang Nhơn (2002), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục. 5. Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ (2002), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 6. Tục ngữ ca dao Việt Nam (2002), Nxb Văn hoá - Thông tin. 7. Văn học (tập 1) (2001), Giáo trình ñạo tạo giáo viên Tiểu học hệ CĐSP và Sư phạm 12 + 2, Nxb Giáo dục. 8. Vũ Hùng (2010), Tìm hiểu những yếu tố triết học (hay triết lý dân gian) trong tục ngữ Việt Nam, websitse http://dongphuonghoc.org/vn. 9. Vũ Ngọc Phan (2000), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Văn học. SOME THOUGHTS OF PHILOSOPHY OF VIETNAMESE PROVERBS Abstract: Abstract Proverbs are not philosophy but in terms of something that are very close to philosophy. Proverbs are made for the purpose of philosophy. It always tries to discover the nature and regularity of the phenomena and things. It contains many valuable ideological, philosophical concepts. Within this article, we discuss some philosophical thoughts, which are expressed in Vietnamese proverbs. From the brief and concise proverbs, we can find the answers to the problems of philosophy and thereby, see the value of truth, human values of folk philosophy thoughts. Keywords: Keywords Proverb, ideology, philosophical ideology.
nguon tai.lieu . vn