Xem mẫu

  1. MỘT SỐ THÀNH TỰU VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY Nguyễn Mậu Hùng* TÓM TẮT: Bằng các phương pháp định lượng và định tính cũng như chuyên ngành và liên ngành từ các số liệu thống kê của các cơ quan chức năng và báo chí, tham luận chỉ ra rằng giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng tự hào cả về chất lượng lẫn số lượng. Một hệ thống các cơ sở giáo dục nghề nghiệp rộng khắp trong cả nước nước với đủ mọi loại hình, cấp độ, và trình độ đào tạo đã được hình thành. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục nghề nghiệp ngày càng được bổ sung, nâng cao, và hoàn thiện. Số lượng tuyển sinh liên tục tăng trong những năm gần đây, trong khi chất lượng đào tạo không ngừng được nâng cao theo hướng từng bước hội nhập với các tiêu chuẩn giáo dục nghề nghiệp khu vực và thế giới. Đội ngũ nhà giáo giáo dục nghề nghiệp không những được bổ sung về mặt số lượng, mà còn từng bước được nâng cao về mặt chất lượng. Điều kiện cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật phục vụ dạy và học ngày càng đầy đủ và hiện đại. Số người được đào tạo nghề trong dân số ngày càng tăng. Đa phần người học sau khi tốt nghiệp các khóa đào tạo nghề đều tìm được việc làm hoặc chí ít cũng thăng tiến trong công việc. Hệ thống các doanh nghiệp cũng tham gia ngày càng sâu rộng hơn vào công tác đào tạo nghề. Giáo dục nghề nghiệp trong những năm vừa qua chính vì thế không chỉ đã góp phần cải thiện tỷ lệ lao động được đào tạo trong dân số, mà còn nâng cao chất lượng và trình độ của người lao động đồng thời cung cấp cho thị trường một nguồn nhân lực số lượng ngày càng đông trong khi chất lượng ngày càng được nâng lên đáng kể. Mặc dù vậy, hệ thống giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức trong những năm vừa qua. Tiêu biểu nhất trong số này chính là cơ cấu đào tạo và tuyển sinh của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vẫn chủ yếu tập trung vào hệ sơ cấp nghề và đào tạo nghề dưới ba tháng. Chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp về cơ bản vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tỷ lệ lực lượng lao động được đào tạo nghề nghiệp vẫn còn tương đối khiêm tốn. Việc tiếp tục nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô đào tạo của hệ thống giáo dục nghề nghiệp chính vì thế không chỉ là tất yếu đương nhiên đến mức không thể khác được, mà còn hết sức cấp thiết. Từ khóa: giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, hệ thống giáo dục nghề nghiệp, chất lượng đào tạo, số lượng tuyển sinh. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống cũng như thông lệ quốc tế, giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam * Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế 128
  2. thời gian qua đã góp phần không nhỏ vào việc cung cấp một nguồn nhân lực ngày càng đông đảo về số lượng trong khi chất lượng không ngừng được nâng cao cho thị trường lao động việc làm. Mặc dù vậy, thực tiễn thị trường lao động việc làm cũng như nhu cầu nhân lực của nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng đang đặt ra không ít vấn đề không hề nhỏ cho cả hệ thống giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục nghề nghiệp nói riêng. Bên cạnh vấn đề chất lượng đào tạo cần phải được nâng cao trong thời gian sớm nhất có thể, mô hình đào tạo và cơ chế vận hành của hệ thống giáo dục nghề nghiệp cũng cần phải được cải tiến mạnh mẽ hơn nữa để vừa hội nhập với các tiêu chuẩn nghề nghiệp quốc tế vừa nâng tầm chất lượng nguồn nhân lực lao động chuyên môn kỹ thuật của Việt Nam trong thời gian tới. Câu hỏi này ít nhiều đã nhận được sự quan tâm của cả giới nghiên cứu lẫn các bên liên quan trong thời gian qua cả trong lẫn ngoài nước, nhưng thực tế vẫn còn nhiều khía cạnh chưa thể giải quyết một cách triệt để và tìm được tiếng nói chung hoàn toàn. Trên cơ sở sử dụng các phương pháp định tính và định lượng cũng như chuyên ngành và liên ngành để phân tích các số liệu thống kê của bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam hàng quý của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, thông báo báo chí về tình hình kinh tế - xã hội hàng quý, Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009 của Tổng cục Thống kê - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thông tin giáo dục và đào tạo và số liệu thống kê giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bài viết tập trung phân tích một số thành tựu chủ yếu cũng như làm rõ các vấn đề còn tồn tại đối với giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, tham luận đưa ra một số đề xuất mang tính hàm ý chính sách và gợi ý mang tính tham khảo cho các bên liên quan để góp phần nâng tầm hệ thống giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam trong những năm tới đồng thời hy vọng giải quyết càng sớm càng tốt một trong những vấn đề mấu chốt nhất về nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật chất lượng cao trong các lĩnh vực mang tính thực tiễn cho nền kinh tế40 của Việt Nam trong quá trình tham gia vào các hiệp định thương mại quốc tế thế hệ mới. 2. MỘT SỐ KẾT QUẢ VÀ HẠN CHẾ CỦA GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM VỪA QUA Trong những năm gần đây, giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam đã thực sự bứt phá, đổi mới, và phát triển với nhiều thành tựu hết sức nổi bật rất đáng trân trọng.41 Đó trong thực tế là kết quả của một quá trình phát triển lâu dài của nhiều năm trước đó và được thể hiện trên một số phương diện chính yếu như sau: 40 Xem thêm: Giáo dục nghề nghiệp: Thách thức trong bối cảnh hội nhập quốc tế, trong: https://dantri.com.vn/tuyen-sinh/ giao-duc-nghe-nghiep-thach-thuc-trong-boi-canh-hoi-nhap-quoc-te20181219144258037.html 41 Minh Thư (2019), trong: http://dangcongsan.vn/xa-hoi/tiep-tuc-tap-trung-cao-do-cho-giao-duc-nghe-nghiep-512444.html 129
  3. 2.1.1. Về mặt quản lý nhà nước và tổ chức hệ thống Luật Giáo dục nghề nghiệp được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa 13 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2014 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2015. Trên cơ sở đó, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã xây dựng và ban hành được 63 văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật giáo dục nghề nghiệp tính đến ngày 1 tháng 3 năm 2019. Trong đó có 46 văn bản, gồm: 5 nghị định, 7 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 30 thông tư, và 4 thông tư liên tịch, liên quan trực tiếp đến giáo dục nghề nghiệp.42 Hệ thống các văn bản pháp luật này không những đã góp phần hình thành nên một hệ thống giáo dục nghề nghiệp, mà còn tạo ra các hành lang pháp lý và cơ sở pháp luật cho các hoạt động giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam trong bối cảnh đã có nhiều thay đổi so với trước đây.43 Các hoạt động giáo dục nghề nghiệp từ đó trở thành một hệ thống riêng nằm dưới sự quản lý trực tiếp của Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, kể cả các chương trình đào tạo nghề của trường đại học và cao đẳng của Bộ Giáo dục và Đào tạo trước đây. Việc thay đổi để thích ứng với tình tình mới không chỉ là tất yếu đương nhiên, mà còn vô cùng cần thiết để vừa giải quyết bài toán nhân lực của Việt Nam trong thời gian tới vừa từng bước hội nhập với các tiêu chuẩn giáo dục nghề nghiệp khu vực và thế giới. Về mặt số lượng, trong những năm qua mạng lưới các cơ sở dạy nghề phát triển tương đối nhanh. Năm 2005, cả nước có 1.691 cơ sở giáo dục có đào tạo nghề bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau.44 Năm 2013, cả nước có 1.339 cơ sở dạy nghề.45 Đến cuối năm 2015, cả nước có 1,467 cơ sở dạy nghề.46 Tính đến ngày 30 tháng 10 năm 2016, cả nước đã có 1,972 cơ sở giáo dục nghề nghiệp.47 Đến cuối năm 2018, Việt Nam có tổng cộng 1.954 cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong cả nước.48 Đến đầu năm 2019, cả nước đang có gần 2.000 cơ sở giáo dục nghề nghiệp.49 Đầu năm 2019, cả nước hiện có 1.948 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong 42 Trong: http://vneconomy.vn/tap-trung-cao-do-cho-giao-duc-nghe-nghiep-20190427132941444.htm 43 Xem thêm: http://ldtbxh.hatinh.gov.vn/index.phpnv=news&op=Giao-duc-nghe-nghiep/Quy-hoach-mang-luoi-tai-co-cau- he-thong-giao-duc-nghe-nghiep-1541 (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 44 Tổng cục Thống kê (2005), Tình hình kinh tế - xã hội tháng 12 và cả năm 2005, trong: https://www.gso.gov.vn/default. aspx?tabid=621&ItemID=3966 (truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2019). 45 Trịnh Thu Nga và Nguyễn Ngọc Bình (2015), Hệ thống dạy nghề ở Việt Nam và phát triển nghề nghiệp cho người lao động, trong: http://www.ilssa.org.vn/vi/news/he-thong-day-nghe-o-viet-nam-va-phat-trien-nghe-nghiep-cho-nguoi-lao-dong-144 (truy cww.ilssa.org.vn/vi năm 2019). 46 Tổng cục Thống kê (2015), Tình hình kinh tế - xã hội năm 2015, trong: https://www.gso.gov.vn/default. aspx?tabid=621&ItemID=15507 (truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2019). 47 National Institute for Vocational Education and Training (2018), Vietnam Vocational Education and Training Report 2016, Hanoi, p. 45. 48 Tổng cục Thống kê (2018), Tình hình kinh tế - xã hội năm 2018, trong: https://www.gso.gov.vn/default. aspx?tabid=621&ItemID=19037 (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 130
  4. đó: 397 trường cao đẳng, 519 trường trung cấp, và 1.032 trung tâm giáo dục nghề nghiệp. Điều đó có nghĩa là mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp không chỉ đã phủ rộng khắp tất cả các tỉnh thành trong cả nước,50 mà rất nhiều địa phương còn có nhiều hơn một cơ sở dạy nghề nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục nghề nghiệp ngày càng cao cho lực lượng lao động còn trẻ về tuổi đời và đông về số lượng của Việt Nam hiện nay. Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2015 đã quy định có 3 hình thức sở hữu đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, gồm: cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập, cơ sở giáo dục nghề nghiệp tư thục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2015, có 320 trường công lập (178 trường trung cấp nghề và 142 trường cao đẳng nghề), 149 trường tư thục (102 trường trung cấp nghề và 47 trường cao đẳng nghề), 1 trường cao đẳng nghề có vốn đầu tư nước ngoài cùng với 997 trung tâm dạy nghề (344 ngoài công lập).51 Đến ngày 30 tháng 10 năm 2016, trong tổng số 1,972 cơ sở giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam, có 1,307 (66.3%) cơ sở công lập52 và 665 (33.7%) ngoài công lập (cả tư thục lẫn đầu tư nước ngoài).53 Đến đầu năm 2019, cả nước có 1.954 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong đó: hơn 1.500 trường trung cấp và cao đẳng thuộc diện công lập.54 Đến đầu năm 2019, Việt Nam có một mạng lưới các cơ sở dạy nghề cơ bản bao phủ rộng khắp tất cả các địa phương với 1.948 cơ sở giáo dục nghề nghiệp55 ở đều khắp cả nước.56 Tất cả các tỉnh thành trực thuộc trung ương đều đã có các cơ sở giáo dục nghề nghiệp bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Mặc dù vậy, việc phân phố mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vẫn còn nhiều bất cập, chưa phân bố hợp lý giữa các vùng, miền, chưa quy hoạch tới từng ngành, nghề, cấp trình độ đào tạo.57 Cho đến năm 2013, về cơ bản các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vẫn chủ yếu tập trung ở các khu vực thành thị, các khu công nghiệp tập trung, và các vùng kinh tế trọng điểm. Trong khi đó, vùng nông thôn rộng lớn và tập trung 49 Quy hoạch hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp ra sao, trong: https://dantri.com.vn/viec-lam/quy-hoach-he-thong-co-so- giao-duc-nghe-nghiep-ra-sao-20180830232806538.htm 50 Thanh Hùng (2019), http://www.sggp.org.vn/chua-het-lo-voi-tuyen-sinh-giao-duc-nghe-nghiep-586115.html 51 Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015, Hà Nội, tr. 46. National Institute for Vocational Education and Training (2018), Vietnam Vocational Education and Training Report 2016, 52 Hanoi, p. 46. 53 National Institute for Vocational Education and Training (2018), Vietnam Vocational Education and Training Report 2016, Hanoi, p. 47. 54 Xem thêm: https://baotintuc.vn/xa-hoi/tu-chu-co-so-giao-duc-nghe-nghiep-tao-buoc-dot-pha-nang-cao-chat- luong-20190103224043318.htm (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 55 Thanh Hùng (2019), http://www.sggp.org.vn/chua-het-lo-voi-tuyen-sinh-giao-duc-nghe-nghiep-586115.html 56 Lương Thị Tâm Uyên (2019), Gắn kết giữa giáo dục nghề nghiệp với nhu cầu của doanh nghiệp, thị trường lao động và việc làm, trong: http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Van-hoa-xa-hoi/2019/54576/Gan-ket-giua-giao-duc-nghe-nghiep-voi- nhu-cau-cua-doanh.aspx (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 57 Trong: http://www.molisa.gov.vn/vi/Pages/chitiettin.aspx?IDNews=26182 131
  5. đa số dân cư của cả nước lại thiếu vắng hẳn các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có chất lượng.58 Sự bất hợp lý trong quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, vấn đề chồng chéo các ngành nghề đào tạo giữa các trường nghề cũng làm cho tình trạng cạnh tranh trong tuyển sinh còn căng thẳng59 và cơ hội việc làm của người học lại giảm đi, trong khi tình trạng thiếu nguồn nhân lực có kỹ năng vẫn là một câu hỏi lớn đối với toàn bộ hệ thống giáo dục và đào tạo của Việt Nam. Về năng lực đào tạo, năm 2013, Việt Nam có tổng cộng 33.270 nhà giáo đang làm công tác giảng dạy nghề nghiệp trong các trường cao đẳng, trung cấp nghề, và trung tâm dạy nghề. Ngoài ra, còn có gần 16 nghìn nhà giáo thuộc nhiều loại hình cơ sở giáo dục khác nhau tham gia dạy nghề trong nhiều chương trình và khóa học đào tạo nghề nghiệp dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau.60 Chính vì vậy, đội ngũ nhà giáo dạy nghề trải qua một quá trình phát triển tương đối thiếu ổn định. Số lượng giáo viên trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có xu hướng giảm trong những năm 2013-2015. Cụ thể, năm 2013: 42,126, 2014: 40,615, 2015: 39,152, nhưng tại tăng năm 2016.61 Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2016, cả nước có 67,686 giáo viên dạy nghề, tăng 11.35% (6,902 người) so với năm 2015.62 Chất lượng đội ngũ nhà giáo dạy nghề không ngừng được nâng lên trong những năm gần đây. Theo báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 - 2020: 100% nhà giáo đạt chuẩn về trình độ chuyên môn đào tạo. Trong khi số người có trình độ sau đại học không ngừng tăng lên, thì số người có trình độ từ đại học trở xuống cũng liên tục giảm một cách tương ứng. Năm 2015, đội ngũ nhà giáo dạy nghề có trình độ sau đại học tăng lên thành 11.039 người so với năm 2014 chỉ mới 5.417 người.63 Ngày 31 tháng 12 năm 2016, hệ thống các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có 67,686 người (năm 2015 có 60,784 người). Số người có bằng sau đại học tăng 2.07% so với năm 2015.64 Phần lớn đội ngũ cán bộ quản lý của hệ thống giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam đều có trình độ cao đẳng và đại học trở lên (93,43%).65 Về cơ bản, chất lượng đội ngũ nhà giáo 58 Trịnh Thu Nga và Nguyễn Thu Nga, trong: http://www.ilssa.org.vn/vi/news/he-thong-day-nghe-o-viet-nam-va-phat-trien- nghe-nghiep-cho-nguoi-lao-dong-144 (truy cww.ilssa.org.vn/vi/news/he-th 59 Thanh Hùng (2019), http://www.sggp.org.vn/chua-het-lo-voi-tuyen-sinh-giao-duc-nghe-nghiep-586115.html 60 Trịnh Thu Nga và Nguyễn Ngọc Bình (2015), Hệ thống dạy nghề ở Việt Nam và phát triển nghề nghiệp cho người lao động, trong: http://www.ilssa.org.vn/vi/news/he-thong-day-nghe-o-viet-nam-va-phat-trien-nghe-nghiep-cho-nguoi-lao-dong-144 (truy cww.ilssa.org.vn/vi/news/h19). 61 National Institute for Vocational Education and Training (2018), Vietnam Vocational Education and Training Report 2016, Hanoi, p. 59. 62 National Institute for Vocational Education and Training (2018), Vietnam Vocational Education and Training Report 2016, Hanoi, p. 58. 63 Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015, Hà Nội, tr. 59. National Institute for Vocational Education and Training (2018), Vietnam Vocational Education and Training Report 2016, 64 Hanoi, p. 65. 132
  6. giáo dục nghề nghiệp đã được cải thiện đáng kể trong những năm vừa qua, nhưng các số liệu cho thấy vẫn chưa thể đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn giáo dục nghề nghiệp và tương ứng với chi phí đầu tư của nhà nước cũng như đáp ứng được mong đợi của xã hội. 2.1.2. Quy mô đào tạo Quy mô quyển sinh và đào tạo của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp không ngừng tăng lên trong thời gian vừa qua. Cụ thể, trong năm 2005, hệ thống các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cả nước chỉ mới tuyển được khoảng 230.000 học sinh học nghề dài hạn, 66nhưng đến năm 2010, đã tuyển sinh trên 1.748.000 người.67 so với cùng kỳ năm trước. Số lượng tuyển sinh của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đến ngày 31 tháng 12 năm 2015 của cả nước tăng lên 1.979.199 người (92,1% kế hoạch).68 Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2016, cả nước đã có 2.367.654 tham gia các khóa học nghề tập trung trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.69 Năm 2018, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cả nước đã tuyển sinh70 được 2.210.000 người.71 Con số này đạt 100,5% so với kế hoạch đã đề ra cho năm 2018.72 Đây là năm thứ hai liên tiếp công tác tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp có nhiều tín hiệu tích cực.73 Năm 2019 dự kiến tuyển mới tổng cộng ít nhất khoảng 2.260.000 người tham gia các khóa học giáo dục nghề nghiệp bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau. 74 Tuy nhiên, về cơ bản giáo dục nghề nghiệp vẫn chưa thể là một phương án lựa chọn ưa thích đối với những người muốn xác định tương lai nghề nghiệp cho mình. Cơ cấu đào tạo của hệ thống giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều khía cạnh chưa hợp lý. Phần lớn các cơ sở dạy nghề mới chỉ tập trung vào các chương trình đào tạo trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng. Trong khi đó, tỷ lệ học sinh học tham gia các chương trình đào tạo ở trình độ cao đẳng nghề và trung cấp nghề vẫn còn rất thấp.75 Năm 2018, phần lớn người học mới tuyển 65 Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015, Hà Nội, tr. 67. 66 Tổng cục Thống kê (2005), Tình hình kinh tế - xã hội tháng 12 và cả năm 2005, trong: https://www.gso.gov.vn/default. aspx?tabid=621&ItemID=3966 (truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2019). 67 Tổng cục Thống kê (2010), Tình hình kinh tế- xã hội năm 2010, trong: https://www.gso.gov.vn/default. aspx?tabid=621&ItemID=10835 (truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2019). 68 Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015, Hà Nội, tr. 50. National Institute for Vocational Education and Training (2018), Vietnam Vocational Education and Training Report 2016, 69 Hanoi, p. 50. 70 Xuân Anh (2018), Nhtap-trung-cao-do-cho-gáo dục nghề nghiệp năm 2018, trong: https://www.nhandan.com.vn/xahoi/ item/38752802-nhung-net-noi-bat-cua-giao-duc-nghe-nghiep-nam-2018.html (truy cwww.nhandan.com.vn/xahoi/item/ 71 Tổng cục Thống kê (2018), Tình hình kinh tế - xã hội năm 2018, trong: https://www.gso.gov.vn/default. aspx?tabid=621&ItemID=19037 (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 72 Lương Thị Tâm Uyên (2019), Gắn kết giữa giáo dục nghề nghiệp với nhu cầu của doanh nghiệp, thị trường lao động và việc làm, trong: http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Van-hoa-xa-hoi/2019/54576/Gan-ket-giua-giao-duc-nghe-nghiep-voi- nhu-cau-cua-doanh.aspx (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 73 Băng Châu (2019), Giáo dục nghề nghiệp có những thay đổi tích cực, trong: https://www.qdnd.vn/xa-hoi/cac-van-de/nhan- thuc-cua-xa-hoi-ve-giao-duc-nghe-nghiep-co-nhung-thay-doi-tich-cuc-565224 74 Minh Thư (2019), http://dangcongsan.vn/xa-hoi/tiep-tuc-tap-trung-cao-do-cho-giao-duc-nghe-nghiep-512444.html 133
  7. được chủ yếu tham gia các khóa học ở học trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề nghiệp dưới 3 tháng (75%). Trong khi đó, các chương trình đào tạo nghề nghiệp ở trình độ cao đẳng và trung cấp chỉ tuyển được khoảng 545.000 người (25%).76 Nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp lại không thể tuyển được và tuyển đủ số người theo học các ngành nghề nặng nhọc độc hại.77 Để đảm bảo cho công tác giáo dục nghề nghiệp hoàn thành được vai trò, chức năng, và sứ mệnh của mình trong bối cảnh mới, trong những năm qua nhà nước đã có rất nhiều chính sách ưu đãi đối với cả các cơ sở giáo dục nghề nghiệp lẫn người học. Một loạt các chương trình đào tạo kỹ năng nghề và dự án giáo dục nghề nghiệp cho những người lao động đã được triển khai thực hiện thời gian qua. Một trong những chương trình như thế là Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020, được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009, dự kiến được thực hiện trong vòng 11 năm (2010- 2020) với mục tiêu: dạy nghề cho khoảng 10,6 triệu lao động nông thôn, trong đó: hỗ trợ dạy nghề cho khoảng 6,54 triệu người theo chính sách của Đề án. Đào tạo và bồi dưỡng cho khoảng 1,1 triệu lượt cán bộ và công chức cấp xã. 78 Trong 5 năm (2010-2014), cả nước đã có 2.169.562/3,2 triệu lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề theo chính sách của Đề án.79 Năm 2015, ngân sách nhà nước cũng dành 5 nghìn tỷ đồng hỗ trợ cho 350.000 lao động nghèo học nghề miễn phí, trong khi 10.000 lao động thuộc các huyện nghèo được đào tạo nghề và giáo dục định hướng nghề nghiệp hoặc đi làm việc ở nước ngoài.80 Trong giai đoạn những năm 2007-2013, tổng số người học tốt nghiệp các chương trình đào tạo nghề là hơn 7 triệu người.81 Trong 5 năm (2010-2014), cả nước đã có gần 3,2 triệu lao động nông thôn được học nghề.82 Trong 6 năm (2010- 2015) thực hiện Đề án 1956, chỉ đào tạo nghề cho trên 4,1 triệu lao động nông thôn.83 Sau 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011-2020, đã có 9,2 triệu lượt người được đào tạo nghề.84 Năm 2016, có tổng cộng 1,974,193 người tốt nghiệp từ các cơ sở đào tạo nghề.85 Năm 2017 có 1.983.960 người tốt 75 Trịnh Thu Nga trong: http://www.ilssa.org.vn/vi/news/he-thong-day-nghe-o-viet-nam-va-phat-trien-nghe-nghiep-cho- nguoi-lao-dong-144 76 Thanh Hùng (2019), http://www.sggp.org.vn/chua-het-lo-voi-tuyen-sinh-giao-duc-nghe-nghiep-586115.html 77 Trịnh Thu Nga trong: http://www.ilssa.org.vn/vi/news/he-thong-day-nghe-o-viet-nam-va-phat-trien-nghe-nghiep-cho- nguoi-lao-dong-144 78 Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015, Hà Nội, tr. 108. 79 Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015, Hà Nội, tr. 56-57. 80 Tổng cục Thống kê (2015), Tình hình kinh tế - xã hội năm 2015, trong: https://www.gso.gov.vn/default. aspx?tabid=621&ItemID=15507 (truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2019). 81 Trịnh Thu Nga trong: http://www.ilssa.org.vn/vi/news/he-thong-day-nghe-o-viet-nam-va-phat-trien-nghe-nghiep-cho- nguoi-lao-dong-144 82 Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015, Hà Nội, tr. 56-57. 83 Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015, Hà Nội, tr. 57. 134
  8. nghiệp cao đẳng và trung cấp nghề.86 Năm 2018, số học sinh tốt nghiệp các lớp đào tạo nghề là 2.100.000 người.87 Năm 2019, chỉ tiêu đề ra là khoảng 2.195.000 người tốt nghiệp học nghề.88 Tuy nhiên, phần lớn những người tốt nghiệp các chương trình đào tạo nghề hàng năm từ các khóa học dạy nghề dưới 3 tháng (53%) và trình độ sơ cấp (39%). 89 Giai đoạn những năm 2010-2014, tỷ lệ người có việc làm sau khi học nghề đạt 78,7%.90 Năm 2015, có đến khoảng 70% học sinh tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp, ở một số nghề và một số cơ sở dạy nghề tỷ lệ này đạt trên 90%.91 Năm 2016, số người đã từng tham gia các khóa đào tạo nghề tìm được việc làm sau khi tốt nghiệp lên đến 70%.92 Năm 2017, 79% số sinh viên cao đẳng và 82% học sinh trung cấp nghề ra trường có việc làm.93 Tính trung bình chung, năm 2018 tỷ lệ học sinh và sinh viên tốt nghiệp trình độ cao đẳng và trung cấp có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp đạt khoảng 85%.94 Mặc dù công tác giáo dục nghề nghiệp có nhiều chuyển biến tích cực trong thời gian gần đây. Năm 2003, lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật mới chỉ chiếm 21,22%, thì đến năm 2009, mới chỉ có 1,6% số người trong độ tuổi lao động tốt nghiệp cao đẳng, 4,2% tốt nghiệp đại học, và 0,21% tốt nghiệp sau đại học.95 Tính chung cả năm 2015, trong tổng số 54,6 triệu người trong lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên (78,8% dân số), mới chỉ có 11,02 triệu người (20,2% lực lượng 84 Tổng cục Thống kê (2015), Tình hình kinh tế - xã hội năm 2015, trong: https://www.gso.gov.vn/default. aspx?tabid=621&ItemID=15507 (truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2019). National Institute for Vocational Education and Training (2018), Vietnam Vocational Education and Training Report 2016, 85 Hanoi, p. 54. 86 An Nhiên (2018), https://anninhthudo.vn/doi-song/truong-nghe-manh-dan-cam-ket-viec-lam-cho-sinh-vien-tot- nghiep/781158.antd 87 Tổng chục Thống kê (2018), Tình hình kinh tế - xã hội năm 2018, trong: https://www.gso.gov.vn/default. aspx?tabid=621&ItemID=19037 (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 88 Minh Thư (2019), http://dangcongsan.vn/xa-hoi/tiep-tuc-tap-trung-cao-do-cho-giao-duc-nghe-nghiep-512444.html 89 Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015, Hà Nội, tr. 55. 90 Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015, Hà Nội, tr. 109-110. 91 Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015, Hà Nội, tr. 19-20, 57. National Institute for Vocational Education and Training (2018), Vietnam Vocational Education and Training Report 2016, 92 Hanoi, p. 56. 93 An Nhiên (2018), https://anninhthudo.vn/doi-song/truong-nghe-manh-dan-cam-ket-viec-lam-cho-sinh-vien-tot- nghiep/781158.antd 94 Anh Quang (2019), 85% sinh viên cao đẳng, trung cấp trường nghề có việc làm ngay sau tốt nghiệp, trong: http://giáo dục nghề nghiệp.gov.vn/AIAdmin/News/View/tabid/66/newsid/37228/seo/85-sinh-vien-cao-dang-trung-cap-truong-nghe-co- viec-lam-ngay-sau-tot-nghiep/Default.aspx (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 95 Tổng cục Thống kê (2011), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009, Giáo dục ở Việt Nam: Phân tích các chỉ số chủ yếu, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, tr. 53. 135
  9. lao động) có chuyên môn kỹ thuật và bằng cấp chứng chỉ trong các khóa đào tạo nghề từ 3 tháng trở lên. Trong số này, 4,84 triệu người có trình độ đại học trở lên (43,9%), hơn 1,47 triệu người có trình độ cao đẳng (13,3%), khoảng 180.000 người có trình độ cao đẳng nghề (1,6%), gần 2,14 triệu người có trình độ trung cấp chuyên nghiệp (19,4%), 710.000 người có trình độ trung cấp nghề (6,4%), và 1,68 triệu người có trình độ sơ cấp nghề (15,3%).96 Năm 2018, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt khoảng 58,6%, trong đó: tỷ lệ lao động có bằng cấp chứng chỉ đạt 23 -23,5%.97 Đến quý 1 năm 2019, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước là 55,4 triệu người, nhưng trong độ tuổi lao động là 48,8 triệu người. Trong số này, số người từ 15 tuổi trở lên có việc làm là 54,3, nhưng - lao động có việc làm đã qua đào tạo từ trình độ sơ cấp nghề trở lên chỉ là 12,1 triệu người, chiếm 22,2% tổng số lao động có việc.98 Theo số liệu điều tra vào quý 4 năm 2013 của Tổng cục Thống kê, trong số những người đã qua đào tạo nghề, có 280.000 người (9,8%) đang làm các công việc giản đơn và 88.000 người (3,1%) chưa tìm được việc làm.99 Đến quý 1 năm 2016, có tới hơn 32,3% số lao động thất nghiệp của Việt Nam là lao động đã qua đào tạo chuyên nghiệp hoặc đào tạo nghề từ 3 tháng trở lên. Trong số này, lao động có trình độ từ đại học trở lên chiếm khoảng 38,6% tổng số lao động chưa tìm được việc làm.100 Quý 4 năm 2018, số người thất nghiệp có trình độ đại học trở lên là 135.800 người, giảm 15.900 nghìn người, trình độ trung ấp là 68.800 người, giảm 1.500 người so với quý 3 năm 2018. Ngược lại, nhóm trình độ cao đẳng có 81.400 người thất nghiệp, tăng 6.200 người. Nhóm trình độ sơ cấp nghề có 27.000 người thất nghiệp, tăng 1.600 người so với quý 3 năm 2018.101 Tỷ lệ thất nghiệp cao nhất vẫn ở nhóm có trình độ cao đẳng (4,1%), tiếp đến là trung cấp (2,61%), đại học trở lên (2,57%), sơ cấp nghề (1,51%).102 Như vậy, mặc dù một số lượng không nhỏ lực lượng lao động của Việt Nam vẫn chưa qua đào tạo kỹ năng nghề nghiệp và trình độ chuyên môn dưới bất cứ hình thức và mức độ nào, nhưng tỷ lệ những người có bằng cấp chứng chỉ chưa kiếm được việc làm vẫn còn cao, trong khi không ít 96 Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015, Hà Nội, tr. 133-134. 97 Lý H Khoa học Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nhttp://vneconomy.vn/tap-trung-cao-do-cho-giao- duc-nghe-nghiep-20190427132941444.htm (truy cneconomy.vn/tap-trung-cao-do- 98 Tổng cục Thống kê (2019), Thông cáo báo chí về tình hình Lao động việc làm quý I năm 2019, trong: https://www.gso.gov. vn/default.aspx?tabid=382&idmid=2&ItemID=19136 (truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2019). 99 Ngọc Bình (2015), Hệ thống dạy nghề ở Việt Nam và phát triển nghề nghiệp cho người lao động, trong: http://www.ilssa. org.vn/vi/news/he-thong-day-nghe-o-viet-nam-va-phat-trien-nghe-nghiep-cho-nguoi-lao-dong-144 100 Tổng cục Thống kê (2017), Báo cáo điều tra lao động việc làm Quý 1 năm 2017, Hà Nội, tr. 14. 101 Tổng cục Thống kê (2018), Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam, Số 20, Quý 4 năm 2018, Hà Nội, tr. 4. 102 Tổng cục Thống kê (2018), Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam, Số 20, Quý 4 năm 2018, Hà Nội, tr. 5. 136
  10. doanh nghiệp không thể tuyển đúng và tuyển đủ đội ngũ nhân lực cần thiết cho sản xuất kinh doanh của mình. 2.1.3. Chất lượng giáo dục nghề nghiệp Mặc dù bức tranh tổng thể cũng như tình hình cụ thể của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đang phải đối diện với không ít vấn đề, nhưng có một điều chắc chắn rằng chất lượng giáo dục nghề nghiệp không ngừng được nâng cao trong những năm vừa qua. Cùng với đó, hiệu quả đào tạo của giáo dục nghề nghiệp cũng đã có những chuyển biến tích cực và trong thực tế cũng đã đạt được nhiều kết quả đáng trân trọng. Đào tạo nghề đã chuyển dần từng bước từ những gì mình có sang những gì thị trường lao động cần. Đi đôi với các thành công này là công tác dự báo nguồn nhân lực có những bước tiến vững chắc, trong khi sự tham của các doanh nghiệp đóng một vai trò không hề nhỏ. Để hoàn thành mục tiêu tổng quát là phải đổi mới một cách căn bản và toàn diện cũng như không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp, công tác kiểm định giữ một vị trí then chốt. Trong năm 2015, các hoạt động kiểm định và đảm bảo chất lượng của hệ thống giáo dục nghề nghiệp có những bước phát triển hết sức cơ bản. Số lượng các cơ sở dạy nghề thực hiện tự kiểm định chất lượng dạy nghề tăng trong năm 2015 hơn so với các năm trước. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2015, có 343 (23,4%) cơ sở dạy nghề thực hiện tự kiểm định, trong đó: 107 trường cao đẳng nghề (56,3%), 72 trường trung cấp nghề (25,8%), và 164 trung tâm dạy nghề (16,4%), cao hơn so các năm trước (2013: 275, 2014: 212), nhưng vẫn còn 1.123 (76,6%) cơ sở dạy nghề chưa thực hiện tự kiểm định chất lượng. Kết quả kiểm định cho thấy đã có 22 cơ sở dạy nghề được công nhận đạt cấp độ 3 và 1 trường đạt cấp độ 2. 25 trường tham gia thí điểm kiểm định chương trình đào tạo.103 Tuy nhiên, đến ngày 31 tháng 12 năm 2016, mới chỉ có 263/1,502 (17.51%) cơ sở giáo dục nghề nghiệp triển khai đánh giá nội bộ, trong đó công lập 248/1,010 (24.6%) và ngoài công lập 15/492 (3%), cao đẳng 111 (58.7%), trung cấp nghề 60 (21.5%), và trung tâm dạy nghề 92 (8.9%). 104 Bên cạnh kiểm định cơ sở giáo dục nghề nghiệp là kiểm định chương trình đào tạo của các ngành nghề. Từ năm 2012, có 25/45 trường (55,6%) đã tham gia thí điểm kiểm định chất lượng chương trình đào tạo. Hầu hết các trường này có ít nhất một chương trình đào tạo được thí điểm kiểm định.105 Cùng với đó, việc 103 Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015, Hà Nội, tr. 21, 92. National Institute for Vocational Education and Training (2018), Vietnam Vocational Education and Training Report 104 2016, Hanoi, p. 74. 105 Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015, Hà Nội, tr. 94-95. 137
  11. xây dựng các bộ tiêu chí trên từng lĩnh vực cụ thể cũng góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng cho các hoạt động giáo dục nghề nghiệp. Đến cuối năm 2015, đã có 195 bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia được xây dựng và 36 trung tâm đánh giá kỹ năng nghề quốc gia được thành lập và cấp giấy phép hoạt động.106 Năm 2018, Tổng cục Dạy nghề đã thí điểm xây dựng bộ tiêu chí chuẩn đầu ra thống nhất trong cả nước. Trên nền tảng đó, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tự thiết kế và xây dựng chương trình đào tạo107 sao cho sát hợp với thực tiễn và năng lực đào tạo của đơn vị mình, nhưng đồng thời cũng mở đường cho quá trình hội nhập với hệ thống giáo dục nghề nghiệp cả nước và từng bước tiệm cận với các tiêu chuẩn quốc tế. Dựa trên cơ sở đó, hệ thống giáo dục nghề nghiệp đã triển khai xây dựng được 160 chuẩn đầu ra cho các chương trình đào tạo nghề trình độ cao đẳng và trung cấp. Ngoài ra, các cơ quan chức năng cũng đã ban hành được 9 bộ định mức kinh tế kỹ thuật đào tạo và xây dựng được 58 bộ danh mục thiết bị đào tạo trình độ cao đẳng và trung cấp108 làm mục tiêu định hướng cho các hoạt động đào tạo của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong cả nước. Cùng với việc ban hành các bộ tiêu chuẩn đầu ra, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cũng triển khai thực hiện chiến lược đào tạo gắn với nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động và đời sống kinh tế hàng ngày của đất nước. Một trong những khâu trọng tâm và có tính chất quyết định trong chiến lược phát triển này chính là sự tham gia của các doanh nghiệp vào trong các hoạt động giáo dục nghề nghiệp. Ngoài việc tăng cường các mối quan hệ lệ thuộc lẫn nhau giữa hai bên, việc các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào các hoạt động đào tạo và giáo dục nghề nghiệp của các trường nghề sẽ góp phần gắn kết các cơ sở dạy nghề với hơi thở của cuộc sống hàng ngày. Một trong những hướng đi có tính đột phá trên phương diện này chính là phải chuyển mạnh sang cơ chế đào tạo theo đơn đặt hàng của thị trường lao động và chuẩn đầu ra của các cơ quan chức năng. Muốn làm được điều này, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp buộc phải có các chương trình đào tạo tiên tiến để có thể thu hút người học thuộc đủ mọi nguồn gốc, thành phần, và trình độ đào tạo. Mặc dù vậy, một trong những nguồn cung cấp người học và cũng chính là đối tượng cần thu hút nhiều nhất của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chính là các học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông có đam mê và năng khiếu kỹ năng nghề nghiệp hơn học thuật hàn lâm. 106 Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015, Hà Nội, tr. 20. 107 Hà Nội Giáo dục nhập quốc tế, trong: https://dantri.com.vn/tuyen-sinh/giao-duc-nghe-nghiep-thach-thuc-trong-boi- canh-hoi-nhap-quoc-te-20181219144258037.htm (truy cdantri.com.vn/tuyen-sinh/giao- 108 Xuân Anh (2018), https://www.nhandan.com.vn/xahoi/item/38752802-nhung-net-noi-bat-cua-giao-duc-nghe-nghiep- nam-2018.html 138
  12. Tóm lại, về chất lượng, giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam trong những năm qua đã có những chuyển biến hết sức tích cực. Kỹ năng nghề nghiệp của người học sau khi tốt nghiệp các trường nghề đã được nâng lên đáng kể.109 Mặc dù vậy, xét một cách tổng thể, kỹ năng nghề và năng lực nghề nghiệp của đa phần lao động Việt Nam vẫn còn một khoảng cách tương đối lớn so với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.110 Chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam hiện nay còn chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu của nền kinh tế.111 Phần lớn người lao động sau khi tốt nghiệp học nghề vẫn còn tương đối yếu về ngoại ngữ và các kỹ năng mềm khác. Cùng lúc đó, các tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia chưa được ban hành kịp thời, chất lượng đào tạo của hệ thống giáo dục nghề nghiệp về cơ bản chưa thể đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động.112 Việc đảm bảo điều kiện chất lượng để đào tạo đội ngũ nhân lực tham gia vào thị trường lao động thời hội nhập chính vì thế vẫn còn là một thách thức không nhỏ đối với không ít cơ sở giáo dục nghề nghiệp113 của Việt Nam hiện nay. 3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT MANG TÍNH THAM KHẢO Dựa trên các kết quả phân tích ở trên, bài viết mạnh dạn đề ra một số giải pháp mang tính tham khảo cho các bên liên quan như sau: Trên phương diện quản lý nhà nước, trước hết phải xây dựng cho được một chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp dài hơn dựa trên cơ sở nhu cầu thực tiễn về nhân lực nghề nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới cũng như khả năng đáp ứng của hệ thống các cơ sở giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam hiện nay. Từ chiến lược phát triển dựa trên cơ sở thực tiễn của Việt Nam theo hướng hội nhập toàn diện và sâu rộng với các tiêu chuẩn của giáo dục nghề nghiệp khu vực và thế giới, các bên liên quan đưa ra các chương trình và đề án phát triển cho ngành, địa phương, và từng cơ sở giáo dục nghề nghiệp cụ thể. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và phát triển các chiến lược dài hơi thường đòi hỏi nhiều thời gian, trước mắt các cơ quan chức năng cần phải tiếp tục đổi mới một cách mạnh mẽ, đồng thời nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp. Trong đó, tập trung ưu tiên bổ sung, cụ thể hóa, và tiến tới hoàn thiện hệ thống các văn bản quy 109 Trong: https://dantri.com.vn/viec-lam/bo-truong-dao-ngoc-dung-day-manh-giao-duc-nghe-nghiep-giup-tang-nang- suat-lao-dong-thap-20180826232003178.htm 110 Trịnh Thu Nga và Nguyễn Thu Nga và Nguy15), trong: http://www.ilssa.org.vn/vi/news/he-thong-day-nghe-o-viet-nam- va-phat-trien-nghe-nghiep-cho-nguoi-lao-dong-144 111 Trong: http://vneconomy.vn/tap-trung-cao-do-cho-giao-duc-nghe-nghiep-20190427132941444.htm Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015, Hà Nội, tr. 55.Giáo dục nghề nghiệp://www. 112 molisa.gov.vn/vi/Pages/chitiettin.aspx?IDNews=26182 113 https://dantri.com.vn/tuyen-sinh/giao-duc-nghe-nghiep-thach-thuc-trong-boi-canh-hoi-nhap-quoc te20181219144258037.htm 139
  13. phạm pháp luật về giáo dục nghề nghiệp một cách đồng bộ và thống nhất.114 Về sắp xếp mạng lưới, sau một thời gian thực hiện luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2015, Việt Nam đã có được một mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp rộng khắp trong cả nước. Tuy nhiên, tình hình phân bố của nhiều cơ sở dạy nghề còn bất hợp lý. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để rà soát và sắp xếp lại mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên cơ sở dự báo nguồn nhân lực theo lĩnh vực sản xuất, trình độ đào tạo, và địa bàn quản lý theo hướng giảm dần các đầu mối không cần thiết, tăng quy mô tuyển sinh đầu vào, và nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả đào tạo của công tác dạy nghề. Về phương diện số lượng, hạn chế thành lập các cơ sở giáo dục nghề nghiệp mà hiện nay thị trường lao động chưa có nhu cầu đồng thời chú trọng phát triển các các cơ sở dạy nghề đa ngành với nhiều loại hình và trình độ đào tạo. Song song với đó là đẩy mạnh quy hoạch lại mạng lưới các cơ sở đào tạo và bồi dưỡng nhà giáo dạy nghề dựa trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của từng vùng miền và địa phương. 115 Công tác tự chủ được xem là một trong những khâu đột phá trong quá trình tiến hành đổi mới và sắp xếp lại mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam thời gian tới. Chính vì vậy, việc các cơ sở giáo dục nghề nghiệp được quyền tự quyết định chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm trên cơ sở điều kiện về số lượng, chất lượng đội ngũ nhà giáo, và cơ sở vật chất và trong thiết bị kỹ thuật phục vụ đào tạo là yếu tố then chốt. Cùng lúc đó, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần được tự tuyển sinh nhiều lần trong năm, được tổ chức xét tuyển, thi tuyển hoặc kết hợp giữa xét tuyển với thi tuyển. Bên cạnh đó, công tác tự chủ cũng đòi hỏi các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần phải tự chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện chương trình đào tạo theo niên chế hoặc theo phương thức tích lũy mô-đun hoặc tín chỉ tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cũng như năng lực, điều kiện, và hoàn cảnh của người học, nhưng bắt buộc phải theo chuẩn kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp tối thiểu của từng chương trình đào tạo để đảm bảo liên thông thuận lợi giữa các trình độ đào tạo trong cùng một ngành nghề hoặc với các ngành nghề liên quan hoặc liên thông lên các trình độ đào tạo cao hơn trong hệ thống giáo dục quốc dân.116 Tuy nhiên, có một điều cần hết sức lưu ý là việc trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải gắn liên với trách nhiệm giải trình, cơ chế đánh giá độc lập, sự kiểm soát của các cơ quan chức năng, và khả năng giám Đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp giúp tăng năng suất lao động, trong: https://dantri.com.vn/viec-lam/bo-truong-dao-ngoc- 114 dung-day-manh-giao-duc-nghe-nghiep-giup-tang-nang-suat-lao-dong-thap-20180826232003178.htm 115 Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam, Số 20, Quý 4 năm 2018, Hà Nội và hội nhập của đất nước, trong: http:// www.molisa.gov.vn/vi/Pages/chitiettin.aspx?IDNews=26182 116 Chất lượng giáo dục nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước, trong: http://www.molisa.gov.vn/ vi/Pages/chitiettin.aspx?IDNews=2618 140
  14. sát của xã hội.117 Tự chủ trong giáo dục nghề nghiệp chính vì thế phải đi liền với tự chịu trách nhiệm. Vấn đề đảm bảo số lượng, mặc dù công tác tuyển sinh đầu vào của hệ thống các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã được cải thiện trong hai năm trở lại đây. Tuy nhiên, vẫn còn không ít hạn chế mà thời gian tới các cơ sở dạy nghề cần phải khắc phục. Cho dù số lượng tuyển sinh đầu vào của giáo dục nghề nghiệp liên tục tăng và thậm chí vượt mức chỉ tiêu từ năm 2017, nhưng chủ yếu vẫn tuyển sinh cho các chương trình đào tạo sơ cấp nghề và học nghề dưới 3 tháng. Chính vì vậy, phải tiếp tục tăng cường công tác truyền thông và hướng nghiệp để nâng cao chỉ tiêu tuyển sinh cho các hệ cao đẳng và trung cấp nghề.118 Muốn đạt được mục tiêu đó, trước hết phải tiến hành phân luồng người học càng sớm chừng nào tốt chừng đó. 119 Chất lượng giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam đã có nhiều biến chuyển tích cực trong những năm qua, nhưng thực tế cho thấy vẫn còn không ít vấn đề cần giải quyết. Chính vì thế, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cơ sở dạy nghề trong những năm tới là tập trung nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2021 và định hướng đến năm 2030.120 Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục nghề nghiệp cũng chính là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động121 của nền kinh tế quốc dân. Muốn vậy, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải coi hợp tác đào tạo với doanh nghiệp là ưu tiên số 1 và là nhiệm vụ sống còn để phát triển nhà trường và nâng cao chất lượng đào tạo.122 Cùng lúc đó, sự tham gia của các hiệp hội nghề nghiệp cũng như đơn vị sử dụng lao động trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp cũng góp phần nâng cao chất lượng hoạt động dự báo nhu cầu nguồn nhân lực của thị trường lao động và khả năng đào tạo123 của các cơ sở dạy nghề. 4. KẾT LUẬN Tóm lại, giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam trong những năm gần đây đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng tự hào và có những bước tiến vượt bậc cả về chất lượng lẫn số lượng. Bước đầu đã hình thành được một hệ thống các cơ sở 117 https://dantri.com.vn/viec-lam/bo-truong-dao-ngoc-dung-day-manh-giao-duc-nghe-nghiep-giup-tang-nang-suat-lao- dong-thap-20180826232003178.htm Đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp giúp tăng năng suất lao động, trong: https://dantri.com.vn/viec-lam/bo-truong-dao-ngoc- 118 dung-day-manh-giao-duc-nghe-nghiep-giup-tang-nang-suat-lao-dong-thap-20180826232003178.htm 119 http://www.molisa.gov.vn/vi/Pages/chitiettin.aspx?IDNews=26182 120 Minh Thư (2019), trong: http://dangcongsan.vn/xa-hoi/tiep-tuc-tap-trung-cao-do-cho-giao-duc-nghe-nghiep-512444. html 121 Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, tr. 53.9, Giáo dục ở Việt Nam https://dantri.com.vn/viec-lam/bo-truong-dao-ngoc-dung- day-manh-giao-duc-nghe-nghiep-giup-tang-nang-suat-lao-dong-thap-20180826232003178.htm 122 An Nhiên (2018): Đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp g cho sinh viên tốt nghiệp, trong: https://anninhthudo.vn/doi-song/ truong-nghe-manh-dan-cam-ket-viec-lam-cho-sinh-vien-tot-nghiep/781158.antd 123 Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam, Số 20, Quý 4 năm 2018, Hà Nội, tr. 5. https://dantri.com.vn/viec-lam/ bo-truong-dao-ngoc-dung-day-manh-giao-duc-nghe-nghiep-giup-tang-nang-suat-lao-dong-thap-20180826232003178.htm 141
  15. giáo dục nghề nghiệp rộng khắp trong cả nước nước với đủ mọi loại hình, cấp độ, và trình độ đào tạo. Mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng đa dạng về loại hình đào tạo và mô hình hoạt động.124 Hệ thống quy phạm pháp luật về giáo dục nghề nghiệp ngày càng được bổ sung, nâng cao, và hoàn thiện. Số lượng tuyển sinh liên tục tăng trong những năm gần đây, trong khi chất lượng không ngừng được nâng cao để từng bước hội nhập với các tiêu chuẩn của giáo dục nghề nghiệp khu vực và thế giới. Quy mô và khả năng đào tạo của hệ thống giáo dục nghề nghiệp ngày càng được mở rộng và nâng lên đáng kể trong những năm qua. Đội ngũ nhà giáo giáo dục nghề nghiệp không những được bổ sung về mặt số lượng, mà còn không ngừng được nâng cao về mặt chất lượng. Số người được đào tạo nghề trong dân số ngày càng tăng. Đa phần người học sau khi tốt nghiệp các khóa đào tạo nghề đều tìm được công ăn việc làm hoặc chí ít cũng thăng tiến trong công việc. Hệ thống các doanh nghiệp cũng tham gia ngày càng sâu rộng hơn vào công tác đào tạo nghề. Giáo dục nghề nghiệp trong những năm vừa qua chính vì thế không chỉ đã góp phần nâng cao tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong dân số, mà còn nâng cao chất lượng và trình độ của người lao động đồng thời cung cấp cho thị trường một nguồn nhân lực số lượng ngày càng đông trong khi chất lượng ngày càng được cải thiện đáng kể. Giáo dục nghề nghiệp vì thế không chỉ đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực và ổn định tình hình kinh tế - xã hội của đất nước thời kỳ hội nhập,125 mà còn góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia.126 Mặc dù vậy, khó khăn và thách thức trong những năm tới cũng không phải là nhỏ. Hệ thống quy phạm pháp luật về giáo dục nghề nghiệp không chỉ cần phải được cụ thể hóa và cập nhật cho phù hợp với tình hình thực tế đang biến đổi từng ngày của thời cuộc, mà nhiều lĩnh vực của giáo dục nghề nghiệp vẫn chưa được điều chỉnh hoặc hướng dẫn bởi các quy phạm pháp luật chi tiết và cụ thể. Mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phân bố vẫn còn chưa hợp lý. Cơ cấu đào tạo và tuyển sinh của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vẫn chủ yếu tập trung vào hệ sơ cấp nghề và đào tạo nghề dưới ba tháng. Sự tham gia của các doanh nghiệp vào trong các hoạt động giáo dục nghề nghiệp vẫn dừng lại ở mức độ hình thức và mang tính biểu tượng là chủ yếu. Chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vẫn còn một khoảng cách tương đối xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tỷ lệ lực lượng lao động được đào tạo nghề nghiệp trong dân số vẫn còn tương đối thấp. Việc tiếp tục nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô đào tạo của hệ thống giáo dục nghề nghiệp chính vì thế không chỉ là tất yếu đương nhiên đến mức không thể khác được, mà còn hết sức cấp thiết. 124 Tổng chục Thống kê (2018), Tình hình kinh tế - xã hội năm 2018, trong: https://www.gso.gov.vn/default. aspxtabid=621&ItemID=19037 (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019) 125 Thách thức trong bối cảnh hội nhập quốc tế, trong: https://dantri.com.vn/tuyen-sinh/giao-duc-nghe-nghiep-thach-thuc- trong-boi-canh-hoi-nhap-quoc-te-20181219144258037.htm 126 Tổng chục Thống kê (2018), Tình hình kinh tế - xã hội năm 2018, trong: https://www.gso.gov.vn/default. aspx?tabid=621&ItemID=19037 (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019) 142
  16. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. An Nhiên. (2018). Trường nghề mạnh dạn cam kết việc làm cho sinh viên tốt nghiệp, trong:https://anninhthudo.vn/doi-song/truong-nghe-manh-dan-cam-ket-viec-lam-cho- sinh-vien-tot-nghiep/781158.antd (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 2. An Nhiên. (2018). Trường nghề mạnh dạn cam kết việc làm cho sinh viên tốt nghiệp, trong:https://anninhthudo.vn/doi-song/truong-nghe-manh-dan-cam-ket-viec-lam-cho- sinh-vien-tot-nghiep/781158.antd (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 3. Anh Quang. (2019). 85% sinh viên cao đẳng, trung cấp trường nghề có việc làm ngay sau tốt nghiệp, trong: http://giáo dục nghề nghiệp.gov.vn/AIAdmin/News/View/tabid/66/ newsid/37228/seo/85-sinh-vien-cao-dang-trung-cap-truong-nghe-co-viec-lam-ngay-sau- tot-nghiep/Default.aspx (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 4. Băng Châu. (2019). Nhận thức của xã hội về giáo dục nghề nghiệp có những thay đổi tích cực, trong: https://www.qdnd.vn/xa-hoi/cac-van-de/nhan-thuc-cua-xa-hoi-ve-giao-duc- nghe-nghiep-co-nhung-thay-doi-tich-cuc-565224 (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 5. Đào Ngọc Dung. (2016). Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước, trong: http://www.molisa.gov.vn/vi/Pages/chitiettin. aspx?IDNews=26182 (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 6. Hoàng Mạnh. (2018). Bộ trưởng Đào Ngọc Dung: Đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp giúp tăng năng suất lao động, trong: https://dantri.com.vn/viec-lam/bo-truong-dao-ngoc-dung-day- manh-giao-duc-nghe-nghiep-giup-tang-nang-suat-lao-dong-thap-20180826232003178.htm (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 7. Hoàng Mạnh. (2018). Quy hoạch hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp ra sao?, trong: https://dantri.com.vn/viec-lam/quy-hoach-he-thong-co-so-giao-duc-nghe-nghiep-ra- sao-20180830232806538.htm (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 8. http://ldtbxh.hatinh.gov.vn/index.php?nv=news&op=Giao-duc-nghe-nghiep/Quy-hoach- mang-luoi-tai-co-cau-he-thong-giao-duc-nghe-nghiep-1541 (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 9. https://baotintuc.vn/xa-hoi/tu-chu-co-so-giao-duc-nghe-nghiep-tao-buoc-dot-pha-nang- cao-chat-luong-20190103224043318.htm (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 10. Lê Thị Hồng Điệp. (2014). Những hạn chế về lao động và việc làm trên thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 30, Số 4, tr. 48-49. 143
  17. 11. Lệ Thu. (2018). Giáo dục nghề nghiệp: Thách thức trong bối cảnh hội nhập quốc tế, trong: https://dantri.com.vn/tuyen-sinh/giao-duc-nghe-nghiep-thach-thuc-trong-boi-canh- hoi-nhap-quoc-te-20181219144258037.htm (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 12. Lương Thị Tâm Uyên. (2019). Gắn kết giữa giáo dục nghề nghiệp với nhu cầu của doanh nghiệp, thị trường lao động và việc làm, trong: http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Van- hoa-xa-hoi/2019/54576/Gan-ket-giua-giao-duc-nghe-nghiep-voi-nhu-cau-cua-doanh.aspx (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 13. Lý Hằng. (2019). Tập trung cao độ cho giáo dục nghề nghiệp, trong: http://vneconomy. vn/tap-trung-cao-do-cho-giao-duc-nghe-nghiep-20190427132941444.htm (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 14. National Institute for Vocational Education and Training. (2018). Vietnam Vocational Education and Training Report 2016, Hanoi. 15. Thanh Hùng. (2019). Chưa hết lo với tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp, trong: http://www. sggp.org.vn/chua-het-lo-voi-tuyen-sinh-giao-duc-nghe-nghiep-586115.html (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 16. Tổng chục Thống kê. (2018). Tình hình kinh tế - xã hội năm 2018, trong: https://www.gso. gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=19037 (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 17. Tổng cục Thống kê. (2005). Tình hình kinh tế - xã hội tháng 12 và cả năm 2005, trong: https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=3966 (truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2019). 18. Tổng cục Thống kê. (2010). Tình hình kinh tế- xã hội năm 2010, trong: https://www.gso. gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=10835 (truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2019). 19. Tổng cục Thống kê. (2011). Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009, Giáo dục ở Việt Nam: Phân tích các chỉ số chủ yếu, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. 20. Tổng cục Thống kê. (2015). Tình hình kinh tế - xã hội năm 2015, trong: https://www.gso. gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=15507 (truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2019). 21. Tổng cục Thống kê. (2017). Báo cáo điều tra lao động việc làm Quý 1 năm 2017, Hà Nội. 22. Tổng cục Thống kê. (2018). Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam, Số 20, Quý 4 năm 2018, Hà Nội. 23. Tổng cục Thống kê. (2018). Tình hình kinh tế - xã hội năm 2018, trong: https://www.gso. gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=19037 (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 144
  18. 24. Tổng cục Thống kê .(2019). Thông cáo báo chí về tình hình Lao động việc làm quý I năm 2019, trong: https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=382&idmid=2&ItemID=19136 (truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2019). 25. Trịnh Thu Nga và Nguyễn Ngọc Bình. (2015). Hệ thống dạy nghề ở Việt Nam và phát triển nghề nghiệp cho người lao động, trong: http://www.ilssa.org.vn/vi/news/he-thong-day- nghe-o-viet-nam-va-phat-trien-nghe-nghiep-cho-nguoi-lao-dong-144 (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 26. Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp. (2017). Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015, Hà Nội. 27. Xuân Anh. (2018). Những nét nổi bật của giáo dục nghề nghiệp năm 2018, trong: https:// www.nhandan.com.vn/xahoi/item/38752802-nhung-net-noi-bat-cua-giao-duc-nghe- nghiep-nam-2018.html (truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019). 145
nguon tai.lieu . vn