- Trang Chủ
- Giáo dục học
- Một số mô hình đào tạo giáo viên trên thế giới và giải pháp đổi mới đào tạo giáo viên ở Việt Nam
Xem mẫu
- MỘT SỐ MÔ HÌNH ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN TRÊN THẾ GIỚI
VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN Ở VIỆT NAM
LÊ ANH PHƯƠNG - TRẦN KIÊM MINH
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Tóm tắt: Đào tạo giáo viên là vấn đề có ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo
dục phổ thông của bất kỳ quốc gia nào. Mục tiêu của nghiên cứu này là phân
tích mô hình đào tạo giáo viên ở một số nước và đưa ra một số giải pháp về
đổi mới đào tạo giáo viên ở Việt Nam theo hướng đào tạo nghiệp vụ hiệu
quả hơn.
Từ khoá: Mô hình đào tạo giáo viên, mô hình đồng thời, mô hình liên tiếp.
1. GIỚI THIỆU
Đào tạo giáo viên là một trong những vấn đề cơ bản và có ảnh hưởng lớn đến hệ
thống giáo dục phổ thông của bất kỳ quốc gia nào. Vấn đề này rất quan trọng vì nó ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo viên, và nghiên cứu đã cho thấy chất lượng giáo
viên có ảnh hưởng lớn đến thành tích học tập của học sinh (OECD, 2005). Vì vậy, một
trong những cách để nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông là thay đổi cách thức đào
tạo (ban đầu) và tuyển dụng giáo viên.
Mục tiêu của nghiên cứu này là tổng hợp các mô hình đào tạo giáo viên ở một số
nước phát triển như Phần Lan, Australia và Singapore. Từ đó, chúng tôi đưa ra một số
đề nghị ban đầu cho mô hình và quá trình đào tạo giáo viên phổ thông ở Việt Nam theo
hướng chuyên nghiệp, khoa học và hiệu quả hơn.
2. MÔ HÌNH ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN TRUNG HỌC Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Mô hình đào tạo giáo viên ở Phần Lan
Sự thành công của giáo dục phổ thông Phần Lan hiện nay là một vấn đề thu hút
rất nhiều nhà nghiên cứu cũng như hoạch định chính sách giáo dục trên thế giới quan
tâm tìm hiểu. Người ta cho rằng một trong những vấn đề quan trọng nhất ảnh đến thành
công của giáo dục phổ thông Phần Lan là triết lý và mô hình đào tạo giáo viên của nước
này. Hệ thống đào tạo giáo viên phổ thông Phần Lan bắt đầu tiến bộ và đạt được những
thành công kể từ cuộc cải cách năm 1971 (Musset, 2010; Plumelle & Latour, 2012).
Theo đó, mục tiêu hàng đầu là cải thiện và tăng cường các năng lực nghiệp vụ của
người giáo viên trong quá trình đào tạo. Với mục tiêu đó, cuộc cải cách tập trung vào 5
vấn đề chính sau :
- Việc đào tạo giáo viên chuyển về các trường đại học: Kể từ năm 1971, việc đào
tạo giáo viên được thực hiện ở các trường đại học. Khoa Giáo dục đảm nhiệm việc đào
tạo giáo viên cấp tiểu học và giảng dạy các môn sư phạm chung. Các khoa chuyên
ngành (Toán, Vật Lý, Hóa Học…) có nhiệm vụ phối hợp với Khoa giáo dục đào tạo các
giáo viên chuyên môn (thường những giáo viên này sẽ có thể dạy từ 1 đến 2 môn
chuyên ngành) dạy học ở các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông.
380
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
- Tăng yêu cầu bắt buộc về trình độ giáo viên: tất cả giáo viên tiểu học hay trung
học phải có bằng Thạc sĩ giáo dục
Trình độ bắt buộc để trở thành một giáo viên tiểu học hoặc trung học là Thạc sĩ.
Tất cả giáo viên phải có bằng Thạc sĩ giáo dục học (đào tạo trong 5 năm) mới có thể
đứng lớp dạy học. Cũng có trường hợp người có bằng Thạc sĩ tương đương nhưng phải
theo học một khóa đào tạo bổ sung một năm tại Khoa giáo dục để có thể trở thành giáo
viên cấp tiểu học.
Đối với các giáo viên trung học tương lai, họ phải học những môn học ở Khoa
giáo dục để có được những kiến thức và kỹ năng sư phạm chung cần thiết cho nghề
nghiệp của họ. Phần còn lại, họ theo học các môn ở khoa chuyên ngành để có được các
kiến thức và kỹ năng chuyên ngành đặc thù. Ngược lại, các giáo viên tiểu học tương lai,
bên cạnh theo học ở Khoa giáo dục các kỹ năng sư phạm chung, phải theo học các môn
chuyên ngành ở các khoa chuyên ngành (Toán, Vật Lý, Hóa Học…) để chuyên môn hóa
trong một hoặc hai môn học có trong chương trình ở tiểu học.
- Nâng cao yêu cầu tuyển chọn đầu vào: Tiêu chuẩn lựa chọn đầu vào cho việc
đào tạo giáo viên khá cao. Việc tuyển chọn được dựa trên các tiêu chí sau: điểm tốt
nghiệp trung học phổ thông, phỏng vấn cá nhân và thậm chí là cả xử lý tình huống trong
lớp học thực tế.
- Đào tạo giáo viên toàn diện với 3 yếu tố chủ đạo: kiến thức, kỹ năng sư phạm và
thực hành theo tình huống: Sau 5 năm đào tạo ở trường đại học, các sinh viên phải
thành thạo một tập hợp các năng lực. Tất cả sinh viên phải làm một luận văn tốt nghiệp
định hướng nghiên cứu theo chuyên môn mình sẽ dạy học ở phổ thông. Chương trình
đào tạo dành một thời lượng quan trọng cho việc tiếp thu các phương pháp dạy học có
tính cá nhân hóa người học. Vào cuối quá trình đào tạo, sinh viên được đào tạo để biết
cách phát hiện các khó khăn học tập của học sinh và phải biết cách giúp học sinh khắc
phục được những khó khăn đó. Sinh viên cũng được học các phương pháp để thiết kế
cấu trúc bài dạy học của họ phù hợp theo trình độ và theo nhịp độ học tập của học sinh.
Vào cuối khóa học, nhiều hình thức thực hành dạy học trong tình huống thực tế được tổ
chức. Khoa giáo dục phối hợp với các trường phổ thông thực hành để hướng dẫn thực
tập cho sinh viên.
- Quyền tự chủ tối đa của cơ sở tuyển dụng giáo viên và của giáo viên: Việc tuyển
dụng giáo viên được thực hiện bởi một hội đồng chủ yếu bao gồm các thành viên của cơ
quan hành chính thành phố và hiệu trưởng các trường học. Một khi đã được tuyển dụng,
giáo viên có một quyền tự do rất lớn trong việc thực thi chức năng dạy học và giáo dục
của họ. Giáo viên soạn ra chương trình dạy học cụ thể, giáo án dạy học và giáo dục, chỉ
dựa trên những yêu cầu chung nhất của ngành về chương trình. Giáo viên lựa chọn hình
thức hỗ trợ dạy học và giáo dục cho từng học sinh, và đánh giá sự tiến bộ của học sinh.
Các giáo viên có thể làm việc cùng nhau để thiết kế các bài học tốt. Các giáo viên có
kinh nghiệm có thể đến tham gia giảng dạy và chia sẻ kinh nghiệm dạy học ở trường đại
học nơi có đào tạo giáo viên.
381
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
Chúng ta có thể tóm tắt mô hình đào tạo giáo viên ở Phần Lan như sau:
Mô hình Đào tạo đồng thời Đào tạo liên tiếp
- Thi tuyển sinh sau khi tốt nghiệp THPT (tỷ
lệ cạnh tranh rất cao, khoảng 15% thi đỗ).
Sinh viên đã có bằng
- Hình thức thi: bài thi viết, bài thi kiểm tra
Đầu vào Thạc sĩ chuyên ngành
năng khiếu và động cơ, và phỏng vấn.
- Chú trọng tuyển chọn sinh viên có năng
khiếu và đam mê nghề dạy học.
Cơ sở đào tạo Trường Đại học
- Phối hợp giữa khoa Khoa học giáo dục
Chỉ theo học các học
và Khoa chuyên ngành.
Quá trình đào tạo phần về nghiệp vụ sư
- Chú trọng lớn vào đào tạo nghiệp vụ sư
phạm
phạm.
- Các vấn đề chung của khoa học giáo dục.
- Gắn liền với các trường thực hành “kiểu
Bản chất của đào mẫu”liên kết với trường đại học.
tạo nghiệp vụ sư - Chú trọng đến vấn đề nghiên cứu khoa
phạm học giáo dục trong đào tạo giáo viên.
- Tất cả SV phải làm một luận văn tốt
nghiệp về khoa học giáo dục.
- Bắt đầu từ năm thứ nhất, thời lượng tăng
dần theo các năm.
- Sinh viên thực tập và làm việc theo nhóm
để giải quyết vấn đề theo chu trình : lên kế Giống với đào tạo đồng
Thực tập, kiến tập
hoạch dạy học - hành động - phản ánh/ thời
đánh giá.
- Tổng thời lượng thực hành, thực tế ở phổ
thông ít nhất là 1 năm.
Tổng thời gian 5 - 6 năm
Bằng Thạc sĩ
2.2. Mô hình đào tạo giáo viên ở Singapore
Hiện nay, việc đào tạo giáo viên ở Singapore chủ yếu được thực hiện ở Viện giáo
dục quốc gia (NIE). NIE hiện là một viện có tính tự chủ và tự trị cao nằm trong Đại học
Công nghệ Nanyang. NIE nhận ngân sách hỗ trợ trực tiếp từ Bộ giáo dục Singapore.
- Chương trình đào tạo giáo viên trung học: Đào tạo giáo viên trung học hiện nay
ở Singapore được thực hiện chủ yếu dưới hai chương trình sau (Kaur et al. 2007) :
- Chương trình cử nhân: Chương trình kéo dài trong bốn năm cho những người có
bằng A Level (dự bị đại học) hoặc những người có chứng chỉ kỹ thuật. Tất cả sinh viên
đều được đào tạo kết hợp giữa khối kiến thức chuyên ngành đặc thù (Toán, Vật Lý…)
và khối kiến thức nghiệp vụ sư phạm trong suốt bốn năm ở đại học.
382
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
- Chương trình chứng chỉ giáo dục Sau đại học (PGDE): Đây là chương trình
kéo dài chỉ trong một năm cho những người đã có bằng đại học và muốn trở thành
giáo viên.
Yêu cầu tuyển sinh đầu vào
- Đối với chương trình cử nhân: Phải có chứng chỉ dự bị đại học A Level.
- Đối với chương trình chứng chỉ PGDE: Ứng viên được yêu cầu phải có một
bằng đại học. Ngoài ra, tùy theo ứng viên đăng ký vào chuyên ngành nào (giáo viên
toán, giáo viên vật lý…) mà có thể có thêm các điều kiện điểm của những môn học liên
quan đến chuyên ngành đó ở đại học.
Cấu trúc các lĩnh vực môn học trong mỗi chương trình
Lĩnh vực Chương trình cử nhân Chương trình PGDE
Nghiên cứu giáo dục X X
Nghiên cứu chương trình (theo
X X
chuyên ngành)
Trải nghiệm thực hành dạy học X X
Các môn học chuyên ngành sâu
X
(Toán, Lý, Hóa….)
Ngôn ngữ và kỹ năng diễn ngôn X X
Thực hiện dự án học tập-phục
X X
vụ cộng đồng
Thời lượng thực hành nghề nghiệp trong mỗi chương trình
Chương trình Số năm đào tạo Thời gian thực tập, kiến tập
- Năm 1: 2 tuần trải nghiệm thực tế ở
trường phổ thông.
- Năm 2: 5 tuần trợ lý dạy học ở trường
phổ thông.
Cử nhân 4
- Năm 3: 5 tuần thực hành dạy học ở
trường phổ thông.
- Năm 4: 10 tuần thực hành dạy học ở
phổ thông.
Chứng chỉ PGDE 1 - 1,5 năm 10 tuần thực hành dạy học ở phổ thông.
Những ưu tiên của các chương trình đào tạo giáo viên hiện hành ở Singapore
- Cân bằng giữa lý thuyết và thực hành trong đào tạo.
- Thời lượng dành cho thực tập, kiến tập, trải nghiệm thực tế phổ thông nhiều.
- Mô hình đối tác Đại học - Phổ thông trong hướng dẫn thực tập, kiến tập tạo cho
các trường phổ thông có vai trò lớn hơn trong đào tạo giáo viên.
383
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
- Kiến thức chuyên ngành sâu được học song song với kiến thức nghiệp vụ trong 4
năm là một thuận lợi.
Tóm tắt mô hình đào tạo giáo viên ở Singapore :
Mô hình Đào tạo đồng thời Đào tạo liên tiếp
Thi tuyển sinh sau khi đã bằng Sinh viên đã có bằng Đại
Đầu vào
A - Level (dự bị đại học). học chuyên ngành
Cơ sở đào tạo Trường Đại học
- Phối hợp giữa khoa Khoa học giáo
dục và và Khoa chuyên ngành.
Chỉ theo học các học phần
Qúa trình đào tạo - Chú trọng lớn vào đào tạo nghiệp
về nghiệp vụ sư phạm
vụ sư phạm, cân bằng giữa lý thuyết
và thực hành.
- Các vấn đề chung của khoa học
giáo dục.
- Mô hình đối tác trường Đại học -
Bản chất của đào
trường Phổ thông trong đào tạo
tạo nghiệp vụ sư
nghiệp vụ sư phạm.
phạm
- Chú trọng đến vấn đề nghiên cứu
khoa học giáo dục trong đào tạo
giáo viên.
- Năm 1: 2 tuần trải nghiệm thực tế
ở trường phổ thông.
- Năm 2: 5 tuần trợ lý dạy học ở
trường phổ thông. 10 tuần thực hành dạy học
Thực tập, kiến tập
- Năm 3: 5 tuần thực hành dạy học ở trường phổ thông
ở trường phổ thông.
- Năm 4: 10 tuần thực hành dạy học
ở phổ thông.
Tổng thời gian 4 năm 1 – 1,5 năm
Bằng Cử nhân Chứng chỉ PGDE
2.3. Mô hình đào tạo giáo viên ở Australia
- Tuyển sinh đầu vào: Việc tuyển sinh trong đào tạo giáo viên ở Australia được
thực hiện dưới hai hình thức: dựa trên kết quả tốt nghiệp trung học phổ thông (chủ yếu)
và dựa trên bằng cấp thứ nhất mà người học đã có (thứ yếu).
- Chương trình đào tạo: Có hai hình thức đào tạo giáo viên ở Australia hiện nay,
được tổ chức ở các Khoa chuyên ngành và Khoa giáo dục trong các Đại học (Sim, 2006):
+ Cử nhân giáo dục: Đầu vào cho chương trình là người có bằng trung học phổ
thông. Quá trình đào tạo kéo dài từ 4 đến 5 năm, trong đó ít nhất là hai năm dành cho
384
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
việc đào tạo nghiệp vụ giáo viên. Chương trình đào tạo bao gồm khối kiến thức chuyên
ngành và khối kiến thức chuẩn bị cho nghiệp vụ dạy học. Mô hình này được đánh giá là
có nhiều ưu điểm, kết hợp được lý thuyết và thực hành trong đào tạo.
+ Bằng thứ hai: Đầu vào là những người đã có bằng cử nhân, thạc sĩ hoặc tương
đương. Chương trình thường được kéo dài từ 1 đến 2 năm. Chương trình này chủ yếu
dành cho việc đào tạo nghiệp vụ sư phạm. Người tốt nghiệp có thể được cấp thêm một
bằng thứ hai về cử nhân giáo dục, hoặc Thạc sĩ dạy học hay Thạc sĩ giáo dục (tùy theo
trường đại học), bên cạnh bằng thứ nhất.
- Thực hành nghề nghiệp
Yếu tố trải nghiệm thực tế thực hành nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng trong
đào tạo giáo viên ở Australia. Vì vậy, chương trình đào tạo giáo viên thường rất chú ý
đến việc tích hợp giữa lý thuyết (ở trường đại học) và thực hành nghề nghiệp (ở trường
phổ thông).
Năm 2014, Bộ trưởng Giáo dục Australia thành lập Nhóm cố vấn về đổi mới đào
tạo giáo viên. Nhóm cố vấn đã đề xuất năm khía cạnh sau trong đổi mới đào tạo giáo
viên hiện nay và đã được chính phủ Úc xem xét thực hiện:
+ Kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo giáo viên;
+ Yêu cầu cao trong tuyển sinh đầu vào;
+ Tăng cường trải nghiệp thực hành thực tế phổ thông;
+ Đánh giá nghiêm ngặt chuẩn đầu ra trong đào tạo;
+ Chú trọng nghiên cứu giáo dục trong đào tạo giáo viên.
Tóm tắt mô hình đào tạo giáo viên ở Australia:
Mô hình Đào tạo đồng thời Đào tạo liên tiếp
Thi tuyển sinh sau khi đã có bằng
Đầu vào Bằng đại học thứ nhất
Trung học phổ thông
Cơ sở đào tạo Trường Đại học
- Phối hợp giữa khoa Khoa học giáo
dục và Khoa chuyên ngành.
- Trang bị đồng thời khối kiến thức Theo chương trình Cử nhân
chuyên ngành và khối kiến thức nghiệp giáo dục, hoặc Thạc sĩ dạy
Quá trình đào tạo
vụ sư phạm. học, Thạc sĩ giáo dục riêng
- Chú trọng lớn vào đào tạo nghiệp vụ của Khoa (Trường) giáo dục.
sư phạm, cân bằng giữa lý thuyết và
thực hành.
Bản chất của - Mô hình đối tác trường Đại học -
đào tạo nghiệp vụ trường Phổ thông trong đào tạo nghiệp
sư phạm vụ sư phạm.
385
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
- Thời gian cho đào tạo nghiệp vụ sư
phạm ít nhất là 2 năm.
- Chú trọng đến vấn đề nghiên cứu
khoa học giáo dục trong đào tạo
giáo viên.
- Chú ý phát triển các kỹ năng nghề
nghiệp cho việc dạy học theo sự phát
triển từng cá nhân học sinh.
- Nhấn mạnh kiểm định các chương
trình đào tạo giáo viên.
Thực tập, kiến tập Kiến tập, thực tập Thực tập
Tổng thời gian 4 năm 1 - 2 năm
Bằng Thạc sĩ (Thạc sĩ dạy
Bằng Cử nhân học, Thạc sĩ giáo dục),
Bằng cử nhân thứ 2.
2.4. So sánh hai mô hình chủ yếu trong đào tạo giáo viên ở các nước
Từ phân tích về mô hình đào tạo giáo viên ở ba nước trên, chúng tôi nhận thấy có
hai mô hình chủ yếu sau trong đào tạo giáo viên :
Mô hình đồng thời Mô hình liên tiếp
Các kiến thức nội dung chuyên Các kiến thức nghiệp vụ sư phạm
ngành được giảng dạy đồng thời, và khoa học giáo dục được dạy sau
Đặc trưng
đan xen với các kiến thức về khi người học đã có bằng đại học
nghiệp vụ và khoa học giáo dục chuyên ngành
Thời gian 4 - 6 năm 3 năm + (1 - 2 năm)
Trải nghiệm đào tạo tích hợp
Thuận lợi đồng thời hai khối kiến thức Tuyển sinh đầu vào linh hoạt hơn
chuyên ngành và nghiệp vụ
Kiến thức về nghiệp vụ sư phạm có
phần hạn chế.
Hạn chế Đầu vào ít linh hoạt hơn Ngắt quãng giữa kiến thức chuyên
ngành và kiến thức nghiệp vụ trong
đào tạo.
Hiện nay, ở nhiều nước đều tồn tại hai mô hình trên trong đạo tạo giáo viên. Tuy
nhiên, mô hình liên tiếp không được đánh giá cao, vì sự ngắt quãng trong đào tạo giữa
hai khối kiến thức có mối quan hệ gắn kết với nhau là kiến thức nội dung chuyên ngành
và kiến thức nghiệp vụ sư phạm. Do vậy, đào tạo theo mô hình đồng thời tích hợp trong
các trường Đại học vẫn đang là mô hình chủ yếu ở nhiều nước trên thế giới hiện nay.
3. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN TRUNG HỌC HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
Hiện nay ở nước ta tồn tại nhiều mô hình và hình thức khác nhau trong đào tạo
giáo viên từ cấp Mầm non đến Trung học phổ thông, thể hiện qua bảng sau:
386
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
Mô hình Kiểu cơ sở đào tạo Loại hình Ghi chú
Trường Đại học Sư phạm, Cử nhân sư phạm (giáo
4 năm Khoa Sư phạm thuộc viên Trung học, Tiểu học, Trường công lập
Trường Đại học Mầm Non)
Bằng Cao đẳng sư phạm
3 năm Trường Cao đẳng Sư phạm (giáo viên Trung học cơ Trường công lập
sở, Tiểu học, Mầm Non)
Cử nhân bằng hai, Chứng
Trường Đại học Trường công lập
chỉ sư phạm
1,5 đến 2 năm và Trường tư
Bằng Trung cấp (giáo thục
Trường Trung cấp
viên Mầm Non)
Từ thực tế đào tạo, chúng tôi nhận thấy một số bất cập, hạn chế trong hệ thống
đào tạo giáo viên hiện nay ở nước ta như sau:
Về mô hình và kiểu cơ sở đào tạo:
- Nhiều kiểu trường khác nhau cùng tham gia đào tạo giáo viên (trường Đại học
sư phạm, Khoa sư phạm trong trường Đại học, trường Cao đẳng, trường Trung cấp) và
sự dễ dàng trong việc xem xét điều kiện cho phép đào tạo giáo viên. Điều này dẫn đến
chất lượng đào tạo giáo viên không được đảm bảo.
- Sự không thống nhất trong quy định chuẩn trình độ cho giáo viên các cấp học:
chẳng hạn, giáo viên Mầm Non có thể tốt nghiệp chương trình cử nhân sư phạm bốn
năm, cũng có thể tốt nghiệp từ trường chương trình ba năm ở trường Cao đẳng, thậm chí
là hai năm ở trường Trung cấp.
- Trong khi giáo viên Tiểu học, Mầm Non đã có chương trình đào tạo đại học bốn
năm thì giáo viên Trung học cơ sở chưa có chương trình đào tạo đại học bốn năm, mà
phải học chương trình cao đẳng ba năm.
Về chương trình đào tạo:
- Chưa có được sự cân bằng giữa lý thuyết và thực hành trong quá trình đào
tạo giáo viên. Các chương trình đào tạo giáo viên nói chung vẫn còn nặng kiến thức
lý thuyết.
- Sự kết hợp giữa khối kiến thức nội dung chuyên ngành và khối kiến thức nghiệp
vụ sư phạm trong đào tạo giáo viên chưa thể hiện rõ trong chương trình đào tạo.
- Thời gian dành cho trải nghiệm thực tế ở phổ thông (kiến tập, thực tập) còn rất
ít, trong tổng thể thời gian đào tạo.
- Mô hình đối tác trường Đại học - trường Phổ thông chưa được gắn kết một cách
chặt chẽ và hiệu quả trong việc hướng dẫn thực tập, kiến tập cho sinh viên.
- Các chương trình đào tạo sư phạm hầu như chưa được kiểm định chất lượng.
387
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
- Chưa có chuẩn đầu ra chung cho giáo viên tốt nghiệp các chương trình đào tạo
sư phạm trên toàn quốc.
- Chưa chú trọng tương xứng đến khía cạnh nghiên cứu khoa học giáo dục trong
đào tạo giáo viên. Cần có những chứng cứ khoa học về các thực hành dạy học, các
phương pháp giáo dục được khẳng định là tốt để áp dụng vào thực tế giảng dạy.
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Có thể thấy rằng việc đào tạo giáo viên là một vấn đề rất quan trọng trong cải cách
giáo dục ở các nước trên thế giới. Nhiều nước đã tiến hành cải cách trong đào tạo giáo
viên và đã đạt được thành công như Phần Lan, Singapore, Australia… Sự thành công của
giáo dục trung học ở Phần Lan là một minh chứng rõ nhất về ảnh hưởng và tầm quan
trọng đặc biệt của vấn đề đào tạo giáo viên đến chất lượng giáo dục phổ thông một nước.
Đào tạo giáo viên ở nước ta đang trong quá trình đổi mới, hội nhập và vẫn còn
nhiều hạn chế. Lựa chọn hoặc đề xuất một mô hình đào tạo giáo viên phù hợp nhất là
vấn đề cần được trao đổi sâu hơn. Tuy nhiên, trước mắt chúng ta có thể có những giải
pháp cụ thể để nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, góp phần nâng cao chất lượng hệ
thống giáo dục phổ thông. Chứng tôi đề xuất một số giải pháp như sau :
- Quy hoạch lại mạng lưới các cơ sở đào tạo giáo viên theo hướng giảm số lượng
cơ sở được phép đào tạo, tập trung vào một số cơ sở đào tạo mạnh, đáp ứng được yêu
cầu chất lượng. Cả nước nên có chỉ có tối đa khoảng 10 cơ sở đào tạo giáo viên. Xóa
bỏ đào tạo giáo viên trong các trường Cao đẳng sư phạm và Trung cấp. Tất cả các
trường Cao đẳng sư phạm phải chuyển đổi qua mô hình trường Cao đẳng cộng đồng,
Cao đẳng nghề (không đào tạo giáo viên).
- Đại học hóa yêu cầu về trình độ giáo viên: tất cả giáo viên từ bậc Mầm Non đến
bậc Trung học phổ thông phải có bằng cử nhân sư phạm (ít nhất là 4 năm nếu là đào tạo
ban đầu).
- Đào tạo giáo viên chỉ nên tập trung vào mô hình đồng thời và ở hai loại hình cơ
sở đào tạo: trường Đại học sư phạm (đào tạo ban đầu 4 năm) và Khoa sư phạm trong
trường Đại học (đào tạo ban đầu 4 năm).
- Chú trọng đến tính cân bằng giữa lý thuyết (ở trường Đại học) và thực hành (ở
trường Phổ thông) trong quá trình đào tạo.
- Tạo ra mô hình đối tác trường Đại học - trường Phổ thông trong đào tạo giáo
viên, đặc biệt là việc hướng dẫn kiến tập, thực tập.
- Tăng thời lượng trải nghiệm thực tế phổ thông bao gồm kiến tập, trợ lý dạy học
và thực hành dạy học. Các nội dung này phải được phân bố đều trong các năm học từ
năm thứ hai đến năm thứ tư.
- Chú trọng vấn đề nghiên cứu khoa học giáo dục trong đào tạo giáo viên: các lý
thuyết học tập, phương pháp dạy học, thực hành dạy học… phải được dựa trên chứng cứ
khoa học đã được công nhận là tốt để áp dụng vào đào tạo giáo viên./.
388
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Kaur, B., Lee, K. P., Fwe, Y, S. (2007), Initial Mathematics Teacher Training in
Singapore, Centre for British Teachers, UK.
[2] Musset, P. (2010), “Initial Teacher Education and Continuing Training Policies in a
Comparative Perspective: Current Practices in OECD Countries and a Literature
Review on Potential Effects”, OECD Education Working Papers, No. 48, OECD
Publishing.
[3] OECD. (2005). Teachers matter: attracting, developping and retaining effective
teachers. Paris: OECD Publishing.
[4] Plumelle, B., Latour, M. (2012), La formation initiale et continue des enseignants :
Allemagne, Angleterre, Finlande. Centre de ressources et d’ingénierie documentaires.
[5] Sim, C. (2006), A national overview of teacher education in Australia. In G. Reinstra
and A. Gonczi (Eds.), Entry to the Teaching Profession: Preparation, Practice, Pressure
and Professionalism (pp. 18-22), College Year Book: Australian College of Educators:
Deakin West, ACT.
[6] Website: http://www.lemonde.fr/.
Title: MODELS OF TEACHER EDUCATION IN SOME COUNTRIES AND
RECOMMENDATIONS FOR TEACHER EDUCATION REFORM IN VIETNAM
Abstract: Teacher education is an issue affecting the quality of secondary education in any
country. The objective of this paper is to analyze the models of teacher education in some
countries and to provide some recommendations for teacher education reform in Vietnam
towards more effective teacher professional development.
Keywords: Teacher education model, simultanous model, consecutive model.
TS. LÊ ANH PHƯƠNG
Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế.
TS. TRẦN KIÊM MINH
Trưởng khoa Toán học, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế.
Địa chỉ: 34 Lê Lợi, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế.
Email: kiemminh@gmail.com
389
nguon tai.lieu . vn