Xem mẫu

  1. MỘT SỐ MÔ HÌNH ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN TRÊN THẾ GIỚI VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN Ở VIỆT NAM LÊ ANH PHƯƠNG - TRẦN KIÊM MINH Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế Tóm tắt: Đào tạo giáo viên là vấn đề có ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục phổ thông của bất kỳ quốc gia nào. Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích mô hình đào tạo giáo viên ở một số nước và đưa ra một số giải pháp về đổi mới đào tạo giáo viên ở Việt Nam theo hướng đào tạo nghiệp vụ hiệu quả hơn. Từ khoá: Mô hình đào tạo giáo viên, mô hình đồng thời, mô hình liên tiếp. 1. GIỚI THIỆU Đào tạo giáo viên là một trong những vấn đề cơ bản và có ảnh hưởng lớn đến hệ thống giáo dục phổ thông của bất kỳ quốc gia nào. Vấn đề này rất quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo viên, và nghiên cứu đã cho thấy chất lượng giáo viên có ảnh hưởng lớn đến thành tích học tập của học sinh (OECD, 2005). Vì vậy, một trong những cách để nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông là thay đổi cách thức đào tạo (ban đầu) và tuyển dụng giáo viên. Mục tiêu của nghiên cứu này là tổng hợp các mô hình đào tạo giáo viên ở một số nước phát triển như Phần Lan, Australia và Singapore. Từ đó, chúng tôi đưa ra một số đề nghị ban đầu cho mô hình và quá trình đào tạo giáo viên phổ thông ở Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp, khoa học và hiệu quả hơn. 2. MÔ HÌNH ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN TRUNG HỌC Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 2.1. Mô hình đào tạo giáo viên ở Phần Lan Sự thành công của giáo dục phổ thông Phần Lan hiện nay là một vấn đề thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu cũng như hoạch định chính sách giáo dục trên thế giới quan tâm tìm hiểu. Người ta cho rằng một trong những vấn đề quan trọng nhất ảnh đến thành công của giáo dục phổ thông Phần Lan là triết lý và mô hình đào tạo giáo viên của nước này. Hệ thống đào tạo giáo viên phổ thông Phần Lan bắt đầu tiến bộ và đạt được những thành công kể từ cuộc cải cách năm 1971 (Musset, 2010; Plumelle & Latour, 2012). Theo đó, mục tiêu hàng đầu là cải thiện và tăng cường các năng lực nghiệp vụ của người giáo viên trong quá trình đào tạo. Với mục tiêu đó, cuộc cải cách tập trung vào 5 vấn đề chính sau : - Việc đào tạo giáo viên chuyển về các trường đại học: Kể từ năm 1971, việc đào tạo giáo viên được thực hiện ở các trường đại học. Khoa Giáo dục đảm nhiệm việc đào tạo giáo viên cấp tiểu học và giảng dạy các môn sư phạm chung. Các khoa chuyên ngành (Toán, Vật Lý, Hóa Học…) có nhiệm vụ phối hợp với Khoa giáo dục đào tạo các giáo viên chuyên môn (thường những giáo viên này sẽ có thể dạy từ 1 đến 2 môn chuyên ngành) dạy học ở các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông. 380
  2. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017 - Tăng yêu cầu bắt buộc về trình độ giáo viên: tất cả giáo viên tiểu học hay trung học phải có bằng Thạc sĩ giáo dục Trình độ bắt buộc để trở thành một giáo viên tiểu học hoặc trung học là Thạc sĩ. Tất cả giáo viên phải có bằng Thạc sĩ giáo dục học (đào tạo trong 5 năm) mới có thể đứng lớp dạy học. Cũng có trường hợp người có bằng Thạc sĩ tương đương nhưng phải theo học một khóa đào tạo bổ sung một năm tại Khoa giáo dục để có thể trở thành giáo viên cấp tiểu học. Đối với các giáo viên trung học tương lai, họ phải học những môn học ở Khoa giáo dục để có được những kiến thức và kỹ năng sư phạm chung cần thiết cho nghề nghiệp của họ. Phần còn lại, họ theo học các môn ở khoa chuyên ngành để có được các kiến thức và kỹ năng chuyên ngành đặc thù. Ngược lại, các giáo viên tiểu học tương lai, bên cạnh theo học ở Khoa giáo dục các kỹ năng sư phạm chung, phải theo học các môn chuyên ngành ở các khoa chuyên ngành (Toán, Vật Lý, Hóa Học…) để chuyên môn hóa trong một hoặc hai môn học có trong chương trình ở tiểu học. - Nâng cao yêu cầu tuyển chọn đầu vào: Tiêu chuẩn lựa chọn đầu vào cho việc đào tạo giáo viên khá cao. Việc tuyển chọn được dựa trên các tiêu chí sau: điểm tốt nghiệp trung học phổ thông, phỏng vấn cá nhân và thậm chí là cả xử lý tình huống trong lớp học thực tế. - Đào tạo giáo viên toàn diện với 3 yếu tố chủ đạo: kiến thức, kỹ năng sư phạm và thực hành theo tình huống: Sau 5 năm đào tạo ở trường đại học, các sinh viên phải thành thạo một tập hợp các năng lực. Tất cả sinh viên phải làm một luận văn tốt nghiệp định hướng nghiên cứu theo chuyên môn mình sẽ dạy học ở phổ thông. Chương trình đào tạo dành một thời lượng quan trọng cho việc tiếp thu các phương pháp dạy học có tính cá nhân hóa người học. Vào cuối quá trình đào tạo, sinh viên được đào tạo để biết cách phát hiện các khó khăn học tập của học sinh và phải biết cách giúp học sinh khắc phục được những khó khăn đó. Sinh viên cũng được học các phương pháp để thiết kế cấu trúc bài dạy học của họ phù hợp theo trình độ và theo nhịp độ học tập của học sinh. Vào cuối khóa học, nhiều hình thức thực hành dạy học trong tình huống thực tế được tổ chức. Khoa giáo dục phối hợp với các trường phổ thông thực hành để hướng dẫn thực tập cho sinh viên. - Quyền tự chủ tối đa của cơ sở tuyển dụng giáo viên và của giáo viên: Việc tuyển dụng giáo viên được thực hiện bởi một hội đồng chủ yếu bao gồm các thành viên của cơ quan hành chính thành phố và hiệu trưởng các trường học. Một khi đã được tuyển dụng, giáo viên có một quyền tự do rất lớn trong việc thực thi chức năng dạy học và giáo dục của họ. Giáo viên soạn ra chương trình dạy học cụ thể, giáo án dạy học và giáo dục, chỉ dựa trên những yêu cầu chung nhất của ngành về chương trình. Giáo viên lựa chọn hình thức hỗ trợ dạy học và giáo dục cho từng học sinh, và đánh giá sự tiến bộ của học sinh. Các giáo viên có thể làm việc cùng nhau để thiết kế các bài học tốt. Các giáo viên có kinh nghiệm có thể đến tham gia giảng dạy và chia sẻ kinh nghiệm dạy học ở trường đại học nơi có đào tạo giáo viên. 381
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017 Chúng ta có thể tóm tắt mô hình đào tạo giáo viên ở Phần Lan như sau: Mô hình Đào tạo đồng thời Đào tạo liên tiếp - Thi tuyển sinh sau khi tốt nghiệp THPT (tỷ lệ cạnh tranh rất cao, khoảng 15% thi đỗ). Sinh viên đã có bằng - Hình thức thi: bài thi viết, bài thi kiểm tra Đầu vào Thạc sĩ chuyên ngành năng khiếu và động cơ, và phỏng vấn. - Chú trọng tuyển chọn sinh viên có năng khiếu và đam mê nghề dạy học. Cơ sở đào tạo Trường Đại học - Phối hợp giữa khoa Khoa học giáo dục Chỉ theo học các học và Khoa chuyên ngành. Quá trình đào tạo phần về nghiệp vụ sư - Chú trọng lớn vào đào tạo nghiệp vụ sư phạm phạm. - Các vấn đề chung của khoa học giáo dục. - Gắn liền với các trường thực hành “kiểu Bản chất của đào mẫu”liên kết với trường đại học. tạo nghiệp vụ sư - Chú trọng đến vấn đề nghiên cứu khoa phạm học giáo dục trong đào tạo giáo viên. - Tất cả SV phải làm một luận văn tốt nghiệp về khoa học giáo dục. - Bắt đầu từ năm thứ nhất, thời lượng tăng dần theo các năm. - Sinh viên thực tập và làm việc theo nhóm để giải quyết vấn đề theo chu trình : lên kế Giống với đào tạo đồng Thực tập, kiến tập hoạch dạy học - hành động - phản ánh/ thời đánh giá. - Tổng thời lượng thực hành, thực tế ở phổ thông ít nhất là 1 năm. Tổng thời gian 5 - 6 năm Bằng Thạc sĩ 2.2. Mô hình đào tạo giáo viên ở Singapore Hiện nay, việc đào tạo giáo viên ở Singapore chủ yếu được thực hiện ở Viện giáo dục quốc gia (NIE). NIE hiện là một viện có tính tự chủ và tự trị cao nằm trong Đại học Công nghệ Nanyang. NIE nhận ngân sách hỗ trợ trực tiếp từ Bộ giáo dục Singapore. - Chương trình đào tạo giáo viên trung học: Đào tạo giáo viên trung học hiện nay ở Singapore được thực hiện chủ yếu dưới hai chương trình sau (Kaur et al. 2007) : - Chương trình cử nhân: Chương trình kéo dài trong bốn năm cho những người có bằng A Level (dự bị đại học) hoặc những người có chứng chỉ kỹ thuật. Tất cả sinh viên đều được đào tạo kết hợp giữa khối kiến thức chuyên ngành đặc thù (Toán, Vật Lý…) và khối kiến thức nghiệp vụ sư phạm trong suốt bốn năm ở đại học. 382
  4. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017 - Chương trình chứng chỉ giáo dục Sau đại học (PGDE): Đây là chương trình kéo dài chỉ trong một năm cho những người đã có bằng đại học và muốn trở thành giáo viên. Yêu cầu tuyển sinh đầu vào - Đối với chương trình cử nhân: Phải có chứng chỉ dự bị đại học A Level. - Đối với chương trình chứng chỉ PGDE: Ứng viên được yêu cầu phải có một bằng đại học. Ngoài ra, tùy theo ứng viên đăng ký vào chuyên ngành nào (giáo viên toán, giáo viên vật lý…) mà có thể có thêm các điều kiện điểm của những môn học liên quan đến chuyên ngành đó ở đại học. Cấu trúc các lĩnh vực môn học trong mỗi chương trình Lĩnh vực Chương trình cử nhân Chương trình PGDE Nghiên cứu giáo dục X X Nghiên cứu chương trình (theo X X chuyên ngành) Trải nghiệm thực hành dạy học X X Các môn học chuyên ngành sâu X (Toán, Lý, Hóa….) Ngôn ngữ và kỹ năng diễn ngôn X X Thực hiện dự án học tập-phục X X vụ cộng đồng Thời lượng thực hành nghề nghiệp trong mỗi chương trình Chương trình Số năm đào tạo Thời gian thực tập, kiến tập - Năm 1: 2 tuần trải nghiệm thực tế ở trường phổ thông. - Năm 2: 5 tuần trợ lý dạy học ở trường phổ thông. Cử nhân 4 - Năm 3: 5 tuần thực hành dạy học ở trường phổ thông. - Năm 4: 10 tuần thực hành dạy học ở phổ thông. Chứng chỉ PGDE 1 - 1,5 năm 10 tuần thực hành dạy học ở phổ thông. Những ưu tiên của các chương trình đào tạo giáo viên hiện hành ở Singapore - Cân bằng giữa lý thuyết và thực hành trong đào tạo. - Thời lượng dành cho thực tập, kiến tập, trải nghiệm thực tế phổ thông nhiều. - Mô hình đối tác Đại học - Phổ thông trong hướng dẫn thực tập, kiến tập tạo cho các trường phổ thông có vai trò lớn hơn trong đào tạo giáo viên. 383
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017 - Kiến thức chuyên ngành sâu được học song song với kiến thức nghiệp vụ trong 4 năm là một thuận lợi. Tóm tắt mô hình đào tạo giáo viên ở Singapore : Mô hình Đào tạo đồng thời Đào tạo liên tiếp Thi tuyển sinh sau khi đã bằng Sinh viên đã có bằng Đại Đầu vào A - Level (dự bị đại học). học chuyên ngành Cơ sở đào tạo Trường Đại học - Phối hợp giữa khoa Khoa học giáo dục và và Khoa chuyên ngành. Chỉ theo học các học phần Qúa trình đào tạo - Chú trọng lớn vào đào tạo nghiệp về nghiệp vụ sư phạm vụ sư phạm, cân bằng giữa lý thuyết và thực hành. - Các vấn đề chung của khoa học giáo dục. - Mô hình đối tác trường Đại học - Bản chất của đào trường Phổ thông trong đào tạo tạo nghiệp vụ sư nghiệp vụ sư phạm. phạm - Chú trọng đến vấn đề nghiên cứu khoa học giáo dục trong đào tạo giáo viên. - Năm 1: 2 tuần trải nghiệm thực tế ở trường phổ thông. - Năm 2: 5 tuần trợ lý dạy học ở trường phổ thông. 10 tuần thực hành dạy học Thực tập, kiến tập - Năm 3: 5 tuần thực hành dạy học ở trường phổ thông ở trường phổ thông. - Năm 4: 10 tuần thực hành dạy học ở phổ thông. Tổng thời gian 4 năm 1 – 1,5 năm Bằng Cử nhân Chứng chỉ PGDE 2.3. Mô hình đào tạo giáo viên ở Australia - Tuyển sinh đầu vào: Việc tuyển sinh trong đào tạo giáo viên ở Australia được thực hiện dưới hai hình thức: dựa trên kết quả tốt nghiệp trung học phổ thông (chủ yếu) và dựa trên bằng cấp thứ nhất mà người học đã có (thứ yếu). - Chương trình đào tạo: Có hai hình thức đào tạo giáo viên ở Australia hiện nay, được tổ chức ở các Khoa chuyên ngành và Khoa giáo dục trong các Đại học (Sim, 2006): + Cử nhân giáo dục: Đầu vào cho chương trình là người có bằng trung học phổ thông. Quá trình đào tạo kéo dài từ 4 đến 5 năm, trong đó ít nhất là hai năm dành cho 384
  6. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017 việc đào tạo nghiệp vụ giáo viên. Chương trình đào tạo bao gồm khối kiến thức chuyên ngành và khối kiến thức chuẩn bị cho nghiệp vụ dạy học. Mô hình này được đánh giá là có nhiều ưu điểm, kết hợp được lý thuyết và thực hành trong đào tạo. + Bằng thứ hai: Đầu vào là những người đã có bằng cử nhân, thạc sĩ hoặc tương đương. Chương trình thường được kéo dài từ 1 đến 2 năm. Chương trình này chủ yếu dành cho việc đào tạo nghiệp vụ sư phạm. Người tốt nghiệp có thể được cấp thêm một bằng thứ hai về cử nhân giáo dục, hoặc Thạc sĩ dạy học hay Thạc sĩ giáo dục (tùy theo trường đại học), bên cạnh bằng thứ nhất. - Thực hành nghề nghiệp Yếu tố trải nghiệm thực tế thực hành nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng trong đào tạo giáo viên ở Australia. Vì vậy, chương trình đào tạo giáo viên thường rất chú ý đến việc tích hợp giữa lý thuyết (ở trường đại học) và thực hành nghề nghiệp (ở trường phổ thông). Năm 2014, Bộ trưởng Giáo dục Australia thành lập Nhóm cố vấn về đổi mới đào tạo giáo viên. Nhóm cố vấn đã đề xuất năm khía cạnh sau trong đổi mới đào tạo giáo viên hiện nay và đã được chính phủ Úc xem xét thực hiện: + Kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo giáo viên; + Yêu cầu cao trong tuyển sinh đầu vào; + Tăng cường trải nghiệp thực hành thực tế phổ thông; + Đánh giá nghiêm ngặt chuẩn đầu ra trong đào tạo; + Chú trọng nghiên cứu giáo dục trong đào tạo giáo viên. Tóm tắt mô hình đào tạo giáo viên ở Australia: Mô hình Đào tạo đồng thời Đào tạo liên tiếp Thi tuyển sinh sau khi đã có bằng Đầu vào Bằng đại học thứ nhất Trung học phổ thông Cơ sở đào tạo Trường Đại học - Phối hợp giữa khoa Khoa học giáo dục và Khoa chuyên ngành. - Trang bị đồng thời khối kiến thức Theo chương trình Cử nhân chuyên ngành và khối kiến thức nghiệp giáo dục, hoặc Thạc sĩ dạy Quá trình đào tạo vụ sư phạm. học, Thạc sĩ giáo dục riêng - Chú trọng lớn vào đào tạo nghiệp vụ của Khoa (Trường) giáo dục. sư phạm, cân bằng giữa lý thuyết và thực hành. Bản chất của - Mô hình đối tác trường Đại học - đào tạo nghiệp vụ trường Phổ thông trong đào tạo nghiệp sư phạm vụ sư phạm. 385
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017 - Thời gian cho đào tạo nghiệp vụ sư phạm ít nhất là 2 năm. - Chú trọng đến vấn đề nghiên cứu khoa học giáo dục trong đào tạo giáo viên. - Chú ý phát triển các kỹ năng nghề nghiệp cho việc dạy học theo sự phát triển từng cá nhân học sinh. - Nhấn mạnh kiểm định các chương trình đào tạo giáo viên. Thực tập, kiến tập Kiến tập, thực tập Thực tập Tổng thời gian 4 năm 1 - 2 năm Bằng Thạc sĩ (Thạc sĩ dạy Bằng Cử nhân học, Thạc sĩ giáo dục), Bằng cử nhân thứ 2. 2.4. So sánh hai mô hình chủ yếu trong đào tạo giáo viên ở các nước Từ phân tích về mô hình đào tạo giáo viên ở ba nước trên, chúng tôi nhận thấy có hai mô hình chủ yếu sau trong đào tạo giáo viên : Mô hình đồng thời Mô hình liên tiếp Các kiến thức nội dung chuyên Các kiến thức nghiệp vụ sư phạm ngành được giảng dạy đồng thời, và khoa học giáo dục được dạy sau Đặc trưng đan xen với các kiến thức về khi người học đã có bằng đại học nghiệp vụ và khoa học giáo dục chuyên ngành Thời gian 4 - 6 năm 3 năm + (1 - 2 năm) Trải nghiệm đào tạo tích hợp Thuận lợi đồng thời hai khối kiến thức Tuyển sinh đầu vào linh hoạt hơn chuyên ngành và nghiệp vụ Kiến thức về nghiệp vụ sư phạm có phần hạn chế. Hạn chế Đầu vào ít linh hoạt hơn Ngắt quãng giữa kiến thức chuyên ngành và kiến thức nghiệp vụ trong đào tạo. Hiện nay, ở nhiều nước đều tồn tại hai mô hình trên trong đạo tạo giáo viên. Tuy nhiên, mô hình liên tiếp không được đánh giá cao, vì sự ngắt quãng trong đào tạo giữa hai khối kiến thức có mối quan hệ gắn kết với nhau là kiến thức nội dung chuyên ngành và kiến thức nghiệp vụ sư phạm. Do vậy, đào tạo theo mô hình đồng thời tích hợp trong các trường Đại học vẫn đang là mô hình chủ yếu ở nhiều nước trên thế giới hiện nay. 3. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN TRUNG HỌC HIỆN NAY Ở VIỆT NAM Hiện nay ở nước ta tồn tại nhiều mô hình và hình thức khác nhau trong đào tạo giáo viên từ cấp Mầm non đến Trung học phổ thông, thể hiện qua bảng sau: 386
  8. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017 Mô hình Kiểu cơ sở đào tạo Loại hình Ghi chú Trường Đại học Sư phạm, Cử nhân sư phạm (giáo 4 năm Khoa Sư phạm thuộc viên Trung học, Tiểu học, Trường công lập Trường Đại học Mầm Non) Bằng Cao đẳng sư phạm 3 năm Trường Cao đẳng Sư phạm (giáo viên Trung học cơ Trường công lập sở, Tiểu học, Mầm Non) Cử nhân bằng hai, Chứng Trường Đại học Trường công lập chỉ sư phạm 1,5 đến 2 năm và Trường tư Bằng Trung cấp (giáo thục Trường Trung cấp viên Mầm Non) Từ thực tế đào tạo, chúng tôi nhận thấy một số bất cập, hạn chế trong hệ thống đào tạo giáo viên hiện nay ở nước ta như sau: Về mô hình và kiểu cơ sở đào tạo: - Nhiều kiểu trường khác nhau cùng tham gia đào tạo giáo viên (trường Đại học sư phạm, Khoa sư phạm trong trường Đại học, trường Cao đẳng, trường Trung cấp) và sự dễ dàng trong việc xem xét điều kiện cho phép đào tạo giáo viên. Điều này dẫn đến chất lượng đào tạo giáo viên không được đảm bảo. - Sự không thống nhất trong quy định chuẩn trình độ cho giáo viên các cấp học: chẳng hạn, giáo viên Mầm Non có thể tốt nghiệp chương trình cử nhân sư phạm bốn năm, cũng có thể tốt nghiệp từ trường chương trình ba năm ở trường Cao đẳng, thậm chí là hai năm ở trường Trung cấp. - Trong khi giáo viên Tiểu học, Mầm Non đã có chương trình đào tạo đại học bốn năm thì giáo viên Trung học cơ sở chưa có chương trình đào tạo đại học bốn năm, mà phải học chương trình cao đẳng ba năm. Về chương trình đào tạo: - Chưa có được sự cân bằng giữa lý thuyết và thực hành trong quá trình đào tạo giáo viên. Các chương trình đào tạo giáo viên nói chung vẫn còn nặng kiến thức lý thuyết. - Sự kết hợp giữa khối kiến thức nội dung chuyên ngành và khối kiến thức nghiệp vụ sư phạm trong đào tạo giáo viên chưa thể hiện rõ trong chương trình đào tạo. - Thời gian dành cho trải nghiệm thực tế ở phổ thông (kiến tập, thực tập) còn rất ít, trong tổng thể thời gian đào tạo. - Mô hình đối tác trường Đại học - trường Phổ thông chưa được gắn kết một cách chặt chẽ và hiệu quả trong việc hướng dẫn thực tập, kiến tập cho sinh viên. - Các chương trình đào tạo sư phạm hầu như chưa được kiểm định chất lượng. 387
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017 - Chưa có chuẩn đầu ra chung cho giáo viên tốt nghiệp các chương trình đào tạo sư phạm trên toàn quốc. - Chưa chú trọng tương xứng đến khía cạnh nghiên cứu khoa học giáo dục trong đào tạo giáo viên. Cần có những chứng cứ khoa học về các thực hành dạy học, các phương pháp giáo dục được khẳng định là tốt để áp dụng vào thực tế giảng dạy. 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Có thể thấy rằng việc đào tạo giáo viên là một vấn đề rất quan trọng trong cải cách giáo dục ở các nước trên thế giới. Nhiều nước đã tiến hành cải cách trong đào tạo giáo viên và đã đạt được thành công như Phần Lan, Singapore, Australia… Sự thành công của giáo dục trung học ở Phần Lan là một minh chứng rõ nhất về ảnh hưởng và tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề đào tạo giáo viên đến chất lượng giáo dục phổ thông một nước. Đào tạo giáo viên ở nước ta đang trong quá trình đổi mới, hội nhập và vẫn còn nhiều hạn chế. Lựa chọn hoặc đề xuất một mô hình đào tạo giáo viên phù hợp nhất là vấn đề cần được trao đổi sâu hơn. Tuy nhiên, trước mắt chúng ta có thể có những giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, góp phần nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục phổ thông. Chứng tôi đề xuất một số giải pháp như sau : - Quy hoạch lại mạng lưới các cơ sở đào tạo giáo viên theo hướng giảm số lượng cơ sở được phép đào tạo, tập trung vào một số cơ sở đào tạo mạnh, đáp ứng được yêu cầu chất lượng. Cả nước nên có chỉ có tối đa khoảng 10 cơ sở đào tạo giáo viên. Xóa bỏ đào tạo giáo viên trong các trường Cao đẳng sư phạm và Trung cấp. Tất cả các trường Cao đẳng sư phạm phải chuyển đổi qua mô hình trường Cao đẳng cộng đồng, Cao đẳng nghề (không đào tạo giáo viên). - Đại học hóa yêu cầu về trình độ giáo viên: tất cả giáo viên từ bậc Mầm Non đến bậc Trung học phổ thông phải có bằng cử nhân sư phạm (ít nhất là 4 năm nếu là đào tạo ban đầu). - Đào tạo giáo viên chỉ nên tập trung vào mô hình đồng thời và ở hai loại hình cơ sở đào tạo: trường Đại học sư phạm (đào tạo ban đầu 4 năm) và Khoa sư phạm trong trường Đại học (đào tạo ban đầu 4 năm). - Chú trọng đến tính cân bằng giữa lý thuyết (ở trường Đại học) và thực hành (ở trường Phổ thông) trong quá trình đào tạo. - Tạo ra mô hình đối tác trường Đại học - trường Phổ thông trong đào tạo giáo viên, đặc biệt là việc hướng dẫn kiến tập, thực tập. - Tăng thời lượng trải nghiệm thực tế phổ thông bao gồm kiến tập, trợ lý dạy học và thực hành dạy học. Các nội dung này phải được phân bố đều trong các năm học từ năm thứ hai đến năm thứ tư. - Chú trọng vấn đề nghiên cứu khoa học giáo dục trong đào tạo giáo viên: các lý thuyết học tập, phương pháp dạy học, thực hành dạy học… phải được dựa trên chứng cứ khoa học đã được công nhận là tốt để áp dụng vào đào tạo giáo viên./. 388
  10. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Kaur, B., Lee, K. P., Fwe, Y, S. (2007), Initial Mathematics Teacher Training in Singapore, Centre for British Teachers, UK. [2] Musset, P. (2010), “Initial Teacher Education and Continuing Training Policies in a Comparative Perspective: Current Practices in OECD Countries and a Literature Review on Potential Effects”, OECD Education Working Papers, No. 48, OECD Publishing. [3] OECD. (2005). Teachers matter: attracting, developping and retaining effective teachers. Paris: OECD Publishing. [4] Plumelle, B., Latour, M. (2012), La formation initiale et continue des enseignants : Allemagne, Angleterre, Finlande. Centre de ressources et d’ingénierie documentaires. [5] Sim, C. (2006), A national overview of teacher education in Australia. In G. Reinstra and A. Gonczi (Eds.), Entry to the Teaching Profession: Preparation, Practice, Pressure and Professionalism (pp. 18-22), College Year Book: Australian College of Educators: Deakin West, ACT. [6] Website: http://www.lemonde.fr/. Title: MODELS OF TEACHER EDUCATION IN SOME COUNTRIES AND RECOMMENDATIONS FOR TEACHER EDUCATION REFORM IN VIETNAM Abstract: Teacher education is an issue affecting the quality of secondary education in any country. The objective of this paper is to analyze the models of teacher education in some countries and to provide some recommendations for teacher education reform in Vietnam towards more effective teacher professional development. Keywords: Teacher education model, simultanous model, consecutive model. TS. LÊ ANH PHƯƠNG Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế. TS. TRẦN KIÊM MINH Trưởng khoa Toán học, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế. Địa chỉ: 34 Lê Lợi, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế. Email: kiemminh@gmail.com 389
nguon tai.lieu . vn