Xem mẫu

  1. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM NẮM BẮT CƠ HỘI TỪ VIỆC THỰC THI CÁC CAM KẾT TPP Ở VIỆT NAM TS. Nguyễn Thị Cẩm Vân Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Việc tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội thuận lợi và cả những khó khăn, thách thức. Nhận diện được các cơ hội và thách thức sẽ góp phần giúp Việt Nam tận dụng được những thuận lợi, hạn chế những khó khăn, trở ngại và vượt qua thách thức nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững, cải thiện tính minh bạch trong điều hành, thúc đẩy đổi mới, nâng cao năng suất, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, các ngành và nền kinh tế. Bài viết này sẽ tập trung phân tích các cơ hội và chỉ rõ những thách thức cơ bản mà các ngành và nền kinh tế Việt Nam phải vượt qua khi tham gia và thực thi các cam kết của TPP, đồng thời cũng đề xuất một số gợi ý chính sách. 1. Giới thiệu Nhiều năm qua Việt Nam đã khởi xướng chính sách đổi mới, mở cửa và đã đạt được những thành tựu ban đầu rất đáng khích lệ. Tăng trưởng kinh tế nhanh trong hai thập niên qua đã đưa Việt Nam lên một vị thế mới, từ một nền kinh tế chậm phát triển trở thành nền kinh tế có mức thu nhập trung bình. Quá trình cải cách kinh tế đã giúp hình thành một hệ thống kinh tế đa ngành và có nhiều thành phần tham gia. Sự phát triển vượt trội của khu vực kinh tế tư nhân khiến khả năng chi phối của khu vực quốc doanh trong tổng thể nền kinh tế ngày càng giảm. Cùng với khu vực FDI, những lực lượng này đang ngày càng đóng một vai trò lớn hơn đối với các hoạt động kinh tế cũng như các mục tiêu xã hội như tạo việc làm và thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên, trong những năm qua, mô hình tăng trưởng của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào đầu tư công và thương mại quốc tế hơn là dựa vào sức cầu trong nước. Trong đó, thương mại quốc tế đóng góp rất lớn cho tốc độ tăng trưởng kinh tế từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa đến nay. Mặc dù xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng cơ cấu hàng xuất khẩu có hiệu quả và năng lực cạnh tranh 367
  2. không cao, xuất khẩu chủ yếu tập trung vào các ngành hàng thâm dụng lao động, công nghệ thấp như: dệt may, giày dép, và các ngành hàng xuất khẩu phần lớn dưới dạng nguyên liệu thô, hàm lượng chế biến và giá trị gia tăng thấp như: nông nghiệp, đặc biệt là thủy sản. Hơn nữa, tốc độ cải cách và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vẫn khá chậm chạp. Nền kinh tế cơ bản vẫn chưa hình thành các cơ sở của sự tăng trưởng bền vững khi các doanh nghiệp nhà nước được xem là xương sống của nền kinh tế vẫn thiếu cơ chế quản lý chặt chẽ khiến cho hiệu suất tăng trưởng kém hiệu quả. Kế hoạch cải cách doanh nghiệp nhà nước được đề ra với nhiều tham vọng song không kế hoạch nào được thực hiện đúng lộ trình trong nhiều năm qua. Trong khi đó, khu vực tư nhân vẫn chưa thực sự mạnh mẽ hơn do nội lực yếu kém. Sau những nỗ lực thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế, để có thể tiến thêm một bước dài trên con đường cải cách, việc thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới bằng cách tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một trong những bước đi quan trọng và đầy quyết đoán của Việt Nam trong hội nhập quốc tế với kỳ vọng tạo dựng một nền kinh tế có sức cạnh tranh thực chất, gia tăng hơn nữa những lợi ích, nâng cao vị thế kinh tế và trình độ phát triển của Việt Nam. Tham gia TPP là một sự kiện lịch sử đặc biệt trong quá trình hội nhập của Việt Nam sau sự kiện gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO năm 2007. TPP được đánh giá là hình mẫu cho hợp tác kinh tế khu vực trong những năm đầu của thế kỷ XXI với các tiêu chuẩn cao, toàn diện và có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn. TPP tập hợp 12 quốc gia có quy mô và mức độ phát triển khác nhau thuộc vành đai Thái Bình Dương bao gồm: Mỹ, Nhật Bản, Canada, Singapore, Australia, New Zealand, Malaysia, Chile, Mexico, Việt Nam, Peru và Brunei tạo thành một liên kết kinh tế có quy mô lớn nhất toàn cầu với hơn 790 triệu dân, chiếm gần 25% diện tích thế giới, 40% GDP và 30% giá trị thương mại toàn cầu. Các nước tham gia TPP kỳ vọng thỏa thuận thương mại tự do lớn nhất thế giới này sẽ giúp hỗ trợ việc làm, thúc đẩy tăng trưởng bền vững, phát triển toàn diện và đổi mới, thúc đẩy thương mại tự do trên khắp khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Trong 12 thành viên tham gia TPP, Việt Nam hiện đứng ở vị trí thứ 8 về diện tích, thứ 8 về xuất nhập khẩu nhưng có trình độ kinh tế thuộc hàng thấp nhất cả về quy mô nền kinh tế cũng như mức GDP bình quân đầu người. Trong quan hệ thương mại với các nước TPP, Việt Nam ở vị thế xuất siêu tại 7/11 thị trường 368
  3. của TPP. Tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam vào 11 thành viên còn lại của TPP chiếm khoảng 39% tổng kim ngạch xuất khẩu các năm 2013, 2014. Điều này cho thấy các nước TPP đã và đang là những thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam trong những năm vừa qua, đồng thời sẽ là các thị trường xuất khẩu tiềm năng trong thời gian tới. Do đó, Việt Nam có thể thu được nhiều lợi ích to lớn về kinh tế và thương mại nếu tận dụng được những cơ hội từ TPP. Tuy nhiên, TPP không chỉ mang lại nhiều cơ hội phát triển mà còn đặt các ngành và nền kinh tế Việt Nam trước những thách thức không nhỏ. Bài viết này sẽ phân tích những cơ hội và thách thức đối với các ngành và nền kinh tế Việt Nam khi tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương và đưa ra một số gợi ý chính sách. 2. Những cơ hội và thách thức đối với các ngành và nền kinh tế Việt Nam TPP mở ra một thị trường rộng lớn với nền tảng công nghệ cao không chỉ tạo ra lợi ích kinh tế và thương mại lớn hơn cho các nước thành viên mà còn có thể tạo ra những chuyển biến về kỹ thuật cho các nước này nếu nâng cao được khả năng đáp ứng những quy tắc mà TPP đặt ra. 2.1. Những cơ hội thuận lợi cho Việt Nam TPP sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội thuận lợi. Các cơ hội đó là: Thứ nhất, cơ hội mở rộng xuất khẩu. TPP sẽ tạo xung lực tích cực để Việt Nam phát triển mạnh mẽ các hoạt động thương mại do được tiếp cận sâu hơn và rộng hơn với các thị trường xuất khẩu rộng lớn, trong đó có hai thị trường xuất khẩu chủ lực là Hoa Kỳ và Nhật Bản. Các nước TPP cam kết miễn, giảm các hàng rào thuế quan đối với hầu hết các hàng hóa và dịch vụ khi TPP có hiệu lực, trong đó, 90% các dòng thuế sẽ về 0% ngay lập tức, và 10% còn lại sẽ giảm dần về 0% trong thời gian không quá 10 năm. Do đó, việc thuế nhập khẩu nhiều loại hàng hóa giảm xuống 0% sẽ tạo cú hích mạnh mẽ cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu tăng, qua đó tăng sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu và đồng thời làm GDP tăng lên. Việt Nam có cơ hội gia tăng xuất khẩu các mặt hàng có thế mạnh, đồng thời cũng là các mặt hàng xuất khẩu chính hiện nay như hàng dệt may, giày dép, thủy sản, đồ gỗ, các sản phẩm và thiết bị điện tử… Theo tính toán của các chuyên gia Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), TPP sẽ giúp xuất khẩu của Việt Nam tăng thêm 68 tỷ USD vào năm 2025 và GDP tăng thêm khoảng 36 tỷ USD so với kịch bản khi không tham gia TPP. 369
  4. Thứ hai, cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Khi thực hiện các cam kết của TPP về tăng cường các quy định liên quan đến đầu tư nước ngoài và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư, tăng mức độ bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ cao hơn so với mức trong WTO, Việt Nam sẽ tăng sức hút đáng kể đối với các nhà đầu tư quốc tế. Do đó, các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ tăng không chỉ trong các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu mà còn trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bất động sản,... và một số lĩnh vực có hàm lượng tri thức cao như sản xuất dược phẩm. Dòng vốn từ các nước thành viên TPP có trình độ phát triển cao có thể mang lại những lợi ích lan tỏa về công nghệ và kỹ năng quản lý, hiện đại hóa và mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất toàn cầu. Thứ ba, cơ hội hội nhập sâu hơn vào thị trường tài chính thế giới. Các nước TPP cam kết sẽ tăng mức độ mở cửa các lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ tài chính. Hệ thống ngân hàng sẽ được mở rộng hơn nữa theo các cam kết chung. Các luồng vốn đầu tư vào Việt Nam tăng lên sẽ tạo thuận lợi cho hệ thống ngân hàng tăng cường thanh khoản, gia tăng cơ hội kinh doanh và tiếp cận với các nguồn vốn ủy thác trên thế giới với chi phí thấp hơn. Thứ tư, cơ hội hình thành một cơ cấu kinh tế toàn diện hơn. TPP quy định các sản phẩm xuất khẩu từ một thành viên của TPP sang các thành viên khác phải có xuất xứ “nội khối”, không sử dụng các nguyên liệu của nước thứ ba ngoài TPP mới được hưởng ưu đãi thuế suất 0%. Để đáp ứng quy tắc xuất xứ hàng hóa trong TPP, hàng xuất khẩu của Việt Nam phải sử dụng nguyên liệu có nguồn gốc xuất xứ trong nước hoặc được nhập khẩu từ các thành viên TPP. Do đó, TPP có khả năng kích thích các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào các ngành công nghiệp hỗ trợ tạo nguồn nguyên vật liệu tại chỗ phục vụ cho sản xuất xuất khẩu. Từ đó, Việt Nam có thể gia tăng giá trị nội địa cho hàng hóa xuất khẩu và giúp tăng năng lực cạnh tranh của các ngành trước các đối thủ cạnh tranh khác. Đồng thời, Việt Nam cũng dần thoát khỏi tình trạng là một nước gia công, lắp ráp giản đơn. Thứ năm, cơ hội hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. Tham gia TPP là cơ hội cho Việt Nam tiếp tục hoàn thiện thể chế, hỗ trợ cho tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế. TPP thúc đẩy hoàn thiện bộ máy theo hướng tinh gọn, đẩy mạnh cải cách hành chính, cung cách quản lý của bộ máy chính quyền và bộ máy hành chính, tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương và 370
  5. phòng chống tham nhũng, lãng phí. Đặc biệt, TPP tạo thêm cơ hội để hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng minh bạch, thuận lợi, các doanh nghiệp được đối xử công bằng, cạnh tranh bình đẳng và tự do đầu tư kinh doanh, và thuận lợi cho việc cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, thực hiện các cam kết TPP sẽ thúc đẩy những cải cách tích cực ở trong nước, đặc biệt là trong các lĩnh vực cải cách mang tính thách thức. Thứ sáu, cơ hội nâng cao chất lượng lao động trong nước. Luồng vốn đầu tư tăng sẽ giúp các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm và gia tăng thu nhập cho người lao động. Trình độ và kỹ năng của người lao động cũng sẽ được cải thiện bởi vì cạnh tranh trong TPP tạo áp lực buộc người lao động phải chủ động nâng cao trình độ ngoại ngữ, kỹ năng tay nghề, tinh thần liên kết và cạnh tranh việc làm gắn với các nhóm lao động đặc thù và lợi ích xã hội trong môi trường quốc tế hóa ngày càng cao. Áp lực cạnh tranh cũng buộc người lao động phải nâng cao năng suất lao động, đáp ứng yêu cầu mới của hội nhập. Cần nhấn mạnh rằng, các nước thành viên TPP phải thực thi các nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc, cũng như bảo đảm quyền của người lao động. Điều đó giúp người lao động nâng cao điều kiện làm việc, tái sản xuất sức lao động, góp phần cải thiện chất lượng lao động. 2.2. Một số thách thức cho Việt Nam TPP không chỉ mang lại nhiều cơ hội thuận lợi mà còn đặt ra cho Việt Nam những thách thức nhất định bởi vì những quy tắc TPP đề ra được đánh giá là vượt quá khả năng đáp ứng của nền kinh tế Việt Nam hiện nay rất nhiều. Thứ nhất, khi TPP có hiệu lực, mặc dù cơ hội mở rộng xuất khẩu là lớn nhưng giỏ hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam phần lớn là các mặt hàng thâm dụng lao động, có công nghệ thấp như hàng dệt may, giày dép,… và chủ yếu dưới dạng gia công, lắp ráp hoặc nguyên liệu thô, có hàm lượng chế biến thấp. Điều đó dẫn tới giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu không cao và khả năng cạnh tranh về giá cả, chất lượng thấp. Thứ hai, tham gia TPP Việt Nam sẽ gặp phải thách thức về cạnh tranh. TPP sẽ tạo ra sức ép về mở cửa thị trường, các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt. Tự do hóa thương mại có thể dẫn đến phá sản và tình trạng thất nghiệp ở các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh yếu. Hiện tại, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn được bảo vệ khá chặt chẽ bởi mức thuế cao, do đó, nếu không có sự chuẩn bị tốt, nhiều doanh nghiệp thậm chí là một số ngành sản xuất và dịch vụ có thể sẽ gặp khó khăn. Việc giảm thuế nhập khẩu không chỉ là giảm 371
  6. thu ngân sách mà còn khiến luồng hàng hóa nhập khẩu từ các nước TPP với mức giá cả cạnh tranh vào Việt Nam tăng lên. Điều đó khiến cho các hàng hóa liên quan tại Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng và phải chịu sự cạnh tranh gay gắt ngay trên thị trường nội địa. Thứ ba, quy tắc xuất xứ “nội khối” của hàng hóa xuất khẩu từ một nước thành viên TPP sang các thành viên khác là một khó khăn đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Do năng lực tự sản xuất, cung ứng nguyên phụ liệu còn hạn chế nên một số ngành xuất khẩu chủ lực của nước ta hiện đang phụ thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu, chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và một số nước trong khu vực ASEAN (các nước nằm ngoài khung khổ của TPP). Vì công nghiệp hỗ trợ còn yếu kém nên các ngành xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam sẽ không dễ dàng khai thác được các ưu đãi từ TPP. Do đó, đáp ứng được yêu cầu xuất xứ hàng hóa trong TPP để tận dụng cơ hội có được từ việc giảm thuế xuất khẩu là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam. Thứ tư, mặc dù thuế nhập khẩu nhiều loại hàng hóa sẽ giảm xuống 0% trong một lộ trình tương đối ngắn nhưng các nước TPP tất yếu sẽ áp dụng hàng rào phi thuế quan với các yêu cầu về vệ sinh dịch tễ và rào cản kỹ thuật. Đáp ứng được những tiêu chuẩn và vượt qua được các rào cản này tất yếu sẽ làm tăng chi phí sản xuất và khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn hơn nữa. Thứ năm, các tiêu chuẩn cao trong TPP sẽ gây sức ép đối với quá trình cải cách thể chế ở Việt Nam. TPP đặt ra một cơ sở pháp lý rõ ràng, với những yêu cầu minh bạch chính sách rất cao sẽ là những thách thức đối với quá trình đổi mới, hoạch định chính sách, bổ sung và sửa đổi hệ thống pháp luật ở Việt Nam. Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn cao cũng sẽ là những ràng buộc buộc Việt Nam phải tính đến các yếu tố phát triển bền vững như bảo vệ môi trường, sức khỏe con người và các lợi ích công cộng khác. Thứ sáu, thách thức từ sự trì trệ của hệ thống doanh nghiệp. Khả năng thích ứng với kinh tế thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam còn bộc lộ sự yếu kém, khả năng chủ động khai thác cơ hội còn nhiều hạn chế. Cải cách thành công các doanh nghiệp nhà nước để tận dụng những cơ hội to lớn từ TPP đang là thách thức quan trọng nhất cho hệ thống doanh nghiệp Việt Nam bởi vì kinh tế Việt Nam vừa trải qua một giai đoạn đầy khó khăn, nhiều doanh nghiệp bị suy kiệt, đặc biệt trong một số doanh nghiệp nhà nước do sử dụng vốn và quản trị thiếu hiệu quả. 372
  7. 2.3. Cơ hội và thách thức đối với các ngành kinh tế 2.3.1. Đối với nhóm ngành nông nghiệp Ngành nông nghiệp, một trong ba trụ cột của nền kinh tế, sẽ được hưởng nhiều lợi ích trực tiếp từ TPP. TPP sẽ giúp ngành nông nghiệp Việt Nam gặp thuận lợi trong việc tiếp cận với các thị trường lớn trên thế giới vì nhiều thành viên TPP hiện là thị trường tiêu thụ nông sản lớn và đang có xu hướng mở rộng hơn như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia… Do đó, Việt Nam sẽ đa dạng hóa được các thị trường xuất khẩu, không bị phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống nhưng bất ổn định. Hơn nữa, bởi Việt Nam còn có lợi thế cạnh tranh hơn so với các quốc gia xuất khẩu những mặt hàng nông sản cùng loại nhưng không phải là thành viên của TPP nên TPP còn mở ra cho Việt Nam cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Hiện nay, gỗ và các sản phẩm từ gỗ, thủy sản, hạt điều là các nông sản chủ lực xuất khẩu sang TPP. Bên cạnh đó, khi TPP có hiệu lực sẽ thúc đẩy đầu tư của các nước trong khối vào Việt Nam, tạo cơ hội hợp tác, tiếp cận vốn, kỹ thuật công nghệ cao, thay đổi cách làm truyền thống kém hiệu quả, phát triển nông nghiệp hiện đại, đồng thời cũng tạo thuận lợi cho Việt Nam khai thác lợi thế, tiềm năng về nông nghiệp để tăng sản lượng cũng như giá trị cho nông sản Việt. Ngoài ra, TPP còn tăng cơ hội việc làm, nâng cao trình độ và cải thiện thu nhập cho lao động nông nghiệp. Tuy nhiên, nền nông nghiệp nước ta phổ biến là sản xuất nhỏ, quy mô hộ gia đình là chủ yếu, quy trình sản xuất theo lối nông hộ vẫn khá phổ biến, cơ sở hạ tầng nghèo nàn, lao động thiếu kỹ năng, chất lượng nông sản không đồng nhất nên khó có thể cạnh tranh với các đối thủ có kinh nghiệm và truyền thống sản xuất lớn. Đặc biệt, thuế nhập khẩu giảm có thể khiến luồng nông sản từ các nước TPP vào Việt Nam tăng lên, khi đó, các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt. Nếu rào cản kỹ thuật chưa có hoặc kém, các biện pháp kiểm dịch vệ sinh an toàn thực phẩm không hiệu quả sẽ khó bảo vệ được sản xuất nông nghiệp trong nước. Hơn nữa, cùng với việc dựng lên các hàng rào kỹ thuật và các tiêu chuẩn vệ sinh, các quy định về bản quyền (giống, thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất nông nghiệp…) rất chặt chẽ ở các thành viên khác của TPP cũng sẽ gây khó khăn cho Việt Nam khi tiếp cận và xâm nhập vào các thị trường tiềm năng này. TPP có thể khiến ngành chăn nuôi trong nước gặp nhiều khó khăn, thách thức. Một số nước thành viên TPP có lợi thế cạnh tranh vượt trội về chăn nuôi so với Việt Nam. Các sản phẩm của chăn nuôi của họ (chẳng hạn như: lợn, gà của 373
  8. Mỹ và Canada; bò thịt và sản phẩm sữa của Australia, New Zealand) đều theo quy trình sản xuất công nghiệp. Trong giai đoạn 2009 - 2014, nhập khẩu các sản phẩm thịt từ các nước TPP chiếm tỷ trọng cao trên tổng giá trị nhập khẩu từng ngành hàng (nhập khẩu thịt gà, thịt lợn từ TPP chiếm khoảng 66%, thịt bò chiếm khoảng 46%). Điểm đáng lo ngại là năng lực sản xuất, kỹ thuật và công nghệ, chất lượng con giống trong ngành chăn nuôi của Việt Nam còn hạn chế, nguyên liệu thức ăn chăn nuôi chủ yếu phải nhập khẩu (từ nguyên liệu chính đến các chất phụ gia) và nhập khẩu ngày càng tăng do quy mô chăn nuôi của các hộ tăng dần, đồng thời, ngành chăn nuôi còn phải thường xuyên đối mặt với các loại dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm. Vì vậy, ngành chăn nuôi Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt khi TPP có hiệu lực. Hơn nữa, nhằm giữ bảo hộ đối với nông sản nội địa, các nước TPP có xu hướng áp dụng hàng rào phi thuế quan với các tiêu chuẩn cao về chất lượng sản phẩm, chẳng hạn yêu cầu xử lý nước thải từ trại chăn nuôi phải đạt chuẩn sẽ làm chi phí sản xuất tăng cao, gây khó khăn cho các doanh nghiệp chăn nuôi trong nước. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi Việt Nam sẽ có 10 năm để cải thiện năng lực trước khi các dòng thuế hoàn toàn bị gỡ bỏ. Hiệp định TPP mở ra cơ hội lớn cho ngành gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt Nam từ những ưu đãi thuế xuất nhập khẩu. Hoa Kỳ và Nhật Bản từ trước đến nay là các thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành gỗ, do vậy, TPP tạo thuận lợi lớn cho việc đẩy mạnh xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ sang những thị trường này. Việc ưu đãi thuế suất cũng sẽ tạo thuận lợi cho việc nhập khẩu nguyên liệu cho ngành gỗ nhưng cũng khiến ngành gỗ phải đối mặt với cạnh tranh khốc liệt ngay trong thị trường nội địa. Khi thuế suất bằng không, các sản phẩm gỗ của nước ngoài sẽ vào Việt Nam với chất lượng tốt, giá thành lại rẻ. Trong khi đó, các doanh nghiệp gỗ của ta chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ với quy trình sản xuất còn lạc hậu, năng suất lao động thấp nên sẽ gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh. Hiện nay, 11 thành viên còn lại của TPP đều là những đối tác chiến lược của ngành thủy sản Việt Nam. Giá trị xuất khẩu của ngành thủy sản vào các nước TPP chiếm trên 50% kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2013, 49% năm 2014. Nhập khẩu thủy sản từ các nước TPP chiếm khoảng 21% tổng kim ngạch nhập khẩu thủy sản năm 2013, và 16% năm 2014. Như vậy, có thể thấy TPP sẽ mạng lại lợi ích đáng kể cho các doanh nghiệp ngành thủy sản. Để nắm bắt cơ hội này, các doanh nghiệp thủy sản phải vượt qua những thách thức nhất định như: nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm để không bị lúng túng trước các rào cản kỹ thuật khắt khe hơn. 374
  9. 2.3.2. Đối với các ngành công nghiệp và xây dựng Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, một trong những nhóm ngành có đóng góp lớn nhất vào GDP Việt Nam hiện nay được kỳ vọng sẽ mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam khi tham gia TPP. Đối với các ngành dệt may và da giày, TPP tạo cơ hội lớn cho các ngành này mở rộng xuất khẩu bởi vị trí vững vàng của ngành trong chuỗi cung ứng toàn cầu và chi phí lao động tương đối thấp của Việt Nam. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may đứng ở vị trí thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước mặc dù ngành này đang phải đối mặt với mức thuế nhập khẩu cao trên thị trường TPP. Do đó, ngành dệt may được kỳ vọng là sẽ được hưởng những lợi ích đáng kể đến từ việc cắt giảm thuế khi TPP có hiệu lực. Để tận dụng cơ hội hưởng thuế nhập khẩu thấp trong TPP, các công ty dệt may trong nước và nước ngoài sẽ đẩy mạnh đầu tư tại Việt Nam. Từ đó, ngành dệt may Việt Nam có cơ hội hiện đại hóa sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đạt giá trị gia tăng lớn hơn trong chuỗi cung ứng, tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất toàn cầu. Tuy nhiên, do ngày càng nhiều doanh nghiệp quốc tế sẽ đầu tư vào ngành này để tận dụng lợi thế của TPP nên cung ứng lao động có thể sẽ bắt đầu cạn kiệt và áp lực tăng chi phí lao động có thể gia tăng trong những năm tới. Thách thức cơ bản đối với các ngành dệt may và da giày là hiện nay 60 - 90% nguyên phụ liệu phải nhập khẩu từ các nước khác, chủ yếu ngoài TPP như Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan, nguồn thay thế từ các nước thành viên TPP gần như không có. Do chỉ chủ động được từ 20 - 40% nguyên liệu sản xuất ở các khâu ở trong nước nên phần lớn hàng dệt may, da giày xuất khẩu sẽ không đáp ứng được tiêu chuẩn nguồn gốc xuất xứ của TPP. Nếu công nghiệp hỗ trợ các ngành này phát triển, sự phụ thuộc của ngành dệt may Việt Nam vào Trung Quốc sẽ giảm đi đáng kể. Thêm vào đó, thiết bị công nghệ lạc hậu và lệ thuộc nhiều vào khâu gia công cũng là thách thức lớn với ngành dệt may. Hiệp định TPP được dự đoán sẽ mở ra cơ hội lớn cho ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam thông qua việc thu hút được nhiều nguồn đầu tư trong và ngoài nước. Lợi thế nhân công rẻ là cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm đối tác, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực sản xuất. Việt Nam có cơ hội trở thành một cứ điểm quan trọng nằm trong chuỗi cung ứng các mặt hàng điện tử, công nghệ cao như bộ vi xử lý máy tính, điện thoại thông minh, các mặt hàng gia dụng sử dụng công nghệ mới… Đây là điều kiện giúp Việt Nam dần thoát khỏi tình trạng lắp ráp giản đơn, bước sang giai đoạn phát triển các ngành điện tử có công nghệ cao hơn. 375
  10. Dược phẩm là một trong những lĩnh vực chịu cạnh tranh lớn nhất khi Việt Nam tham gia vào TPP. Theo hiệp định TPP, việc giảm thuế dược phẩm từ mức hiện tại khoảng 2,5% về 0% sẽ làm tăng xu hướng cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài, và các doanh nghiệp dược trong nước sẽ phải đối diện với một cuộc cạnh tranh khốc liệt, trong đó các doanh nghiệp sản xuất thuốc gốc sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh nhiều hơn so với các doanh nghiệp sản xuất thuốc generic (loại dược phẩm dùng thay thế sản phẩm gốc và được đưa ra thị trường sau khi bản quyền của sản phẩm gốc hết hạn). Ngoài ra, các quy định của TPP còn kéo dài thời gian bảo hộ đối với thuốc bản quyền, từ đó sẽ hạn chế khả năng tiếp cận và sản xuất các loại thuốc mới của doanh nghiệp trong nước. Đây là một thách thức lớn với các doanh nghiệp ngành dược, bởi sản phẩm của các công ty trong nước đa phần là các loại thuốc phiên bản generic. Hơn nữa, các doanh nghiệp dược Việt Nam hiện nay chủ yếu là nhỏ và vừa lại không có sự gắn kết, trong khi các tập đoàn dược nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam, với kinh nghiệm và với nguồn vốn hơn hẳn các doanh nghiệp dược trong nước nên nguy cơ bị mất đi thị phần trong nước sẽ rất cao và tạo ra những áp lực không nhỏ cho các doanh nghiệp nội địa. Mặc dù vậy nhưng có thể lạc quan rằng khi TPP chính thức có hiệu lực, các doanh nghiệp dược trong nước sẽ được liên kết đầu tư nhiều hơn với doanh nghiệp nước ngoài, thậm chí, các nước không tham gia TPP như Trung Quốc cũng sẽ liên kết với Việt Nam trong các vấn đề về nhập nguyên liệu và đầu tư gia công… Đây có thể sẽ là cơ hội rất lớn cho ngành dược chủ động được nguồn nguyên liệu để không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu phục vụ thị trường nước ngoài. Ngành sản xuất ôtô của Việt Nam được dự báo là sẽ chịu ảnh hưởng không nhỏ từ TPP. Theo các cam kết chung, sản phẩm ô tô khi xuất khẩu vào các nước thành viên TPP, nếu đạt hàm lượng sản xuất tại các nước nội khối TPP theo thỏa thuận sẽ được hưởng các ưu đãi thuế quan. Hiện nay, bốn nước sản xuất ô tô lớn nhất trong TPP là Nhật Bản, Mỹ, Canada và Mexico. Trong đó, ngành sản xuất ô tô của Nhật Bản đang sử dụng các linh kiện, phụ tùng được sản xuất từ Thái Lan, vốn không phải là nước trong cộng đồng TPP. Do đó, các công ty Nhật Bản sẽ tìm nhà cung cấp linh kiện và thị trường để tận dụng cơ hội từ TPP. Với thực tế 12 nước tham gia TPP, có thể nhận thấy tia sáng cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam khi TPP chính thức có hiệu lực. Tuy nhiên, khi hàng rào thuế quan được dỡ bỏ sẽ tạo điều kiện cho các nhà sản xuất ôtô của Nhật xuất khẩu xe vào Việt Nam nhiều hơn. Điều này dẫn đến nền sản xuất ôtô trong nước có nguy cơ bị phá vỡ. Đối với ngành thép, tham gia TPP ngành thép có thể thu được những lợi ích nhất định. Khi TPP có hiệu lực, với mức thuế xuất khẩu giảm xuống 0%, thép 376
  11. Việt có nhiều cơ hội hơn để khai thác mạnh các thị trường lớn như Chile, New Zealand, Úc, Mexico,... Tuy nhiên, khi đó nguy cơ khó cạnh tranh với thép nhập khẩu gia tăng cũng tạo ra nhiều áp lực cho ngành thép. Ngành thép Việt Nam đang gặp những rào cản lớn về quy mô, năng lực nội tại, công nghệ sản xuất lạc hậu… là những vấn đề khó khăn mà ngành thép vấp phải hiện nay. Ngành xây dựng cũng có cơ hội nhận được cú hích lớn từ làn sóng đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, với nhu cầu lớn như khu công nghiệp làm cứ địa sản xuất, căn hộ cao cấp, biệt thự, nhà phố hiện đại để lưu trú, resort, văn phòng cho thuê… Nhìn chung, hầu hết nhu cầu xây dựng ở các phân khúc dự kiến sẽ tăng mạnh trong các năm tới bởi Việt Nam đang dần trở thành một công xưởng sản xuất ở châu Á. 2.2.5. Đối với các ngành dịch vụ Trong lĩnh vực dịch vụ, các ngành dịch vụ như vận tải và logistics, ngân hàng tài chính, dịch vụ tư vấn pháp lý, kinh doanh bất động sản sẽ đón nhận được nhiều cơ hội thuận lợi từ TPP. Khi TPP chính thức có hiệu lực, nhiều dòng thuế về 0% hứa hẹn sự phát triển sôi động của hoạt động xuất nhập khẩu tại Việt Nam trong thời gian tới. Đây được coi là cơ hội lớn cho các lĩnh vực vận tải và logistics phát triển và tham gia sâu hơn vào những trung tâm giao dịch vận tải của thế giới… Tuy nhiên, trong thời gian qua, các doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam chưa thực sự tìm được tiếng nói chung với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Đa phần doanh nghiệp dịch vụ logistics của Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ, vốn ít và thiếu cơ sở vật chất (như kho tàng, bến bãi, công nghệ thông tin, phương tiện vận chuyển...), năng lực tài chính và trình độ quản lý hạn chế, chỉ đáp ứng được 25% nhu cầu nội địa và chủ yếu chỉ hoạt động trong một phân khúc nhỏ trong chuỗi giá trị dịch vụ logistics như cung cấp dịch vụ vận tải hàng hóa, giao nhận hàng hóa, cho thuê kho bãi, làm thủ tục hải quan, gom hàng lẻ... Năng lực cạnh tranh cũng như hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp logistics Việt Nam hiện nay không cao. Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, thường tìm kiếm các gói dịch vụ logistics tích hợp không đơn thuần là vận chuyển hàng hóa mà còn đi kèm với nhiều dịch vụ giá trị gia tăng khác (thủ tục hải quan, lưu kho, đóng gói và phân phối sản phẩm). Các công ty điều phối logistics nước ngoài chỉ có khoảng 25 doanh nghiệp hoạt động nhưng lại chiếm 80% thị phần, còn lại gần 1.300 doanh nghiệp logistics nội địa của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 20% thị phần. Mặc dù đối mặt với sự cạnh tranh mạnh từ các đối thủ ngoại, nhưng triển vọng tương lai của các doanh nghiệp logistics nội địa là có thực trong bối cảnh dòng vốn FDI chảy mạnh vào ngành sản xuất Việt Nam khi TPP có hiệu lực. 377
  12. Tham gia TPP, hệ thống ngân hàng có thời cơ thuận lợi để phát triển, thoát khỏi tình trạng yếu kém hiện nay. Theo các cam kết chung, hệ thống ngân hàng sẽ được mở rộng hơn nữa. Các luồng vốn đầu tư vào Việt Nam tăng lên sẽ tạo thuận lợi cho hệ thống ngân hàng tăng cường thanh khoản, gia tăng cơ hội kinh doanh và tiếp cận với các nguồn vốn ủy thác trên thế giới với chi phí thấp hơn. Việc hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài sẽ giúp nâng cao năng lực quản trị và tài chính cho các ngân hàng trong nước. Ngoài ra, tăng trưởng thương mại của một số ngành trong nền kinh tế sẽ giúp các ngân hàng có điều kiện đồng hành, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu. Bên cạnh những cơ hội thuận lợi từ TPP, hệ thống ngân hàng trong nước cũng gặp phải không ít những khó khăn thách thức do những yếu kém nội tại của hệ thống như: khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng còn thấp, năng lực quản trị ở một số ngân hàng còn yếu kém. Hơn nữa, số lượng đáng kể các khoản nợ xấu còn tồn tại sẽ tiếp tục đe dọa khả năng phục hồi và phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng và cản trở những sự chuẩn bị cần thiết để đương đầu với cạnh tranh từ các ngân hàng nước ngoài. Khi các điều kiện tiếp cận thị trường bị xóa bỏ, các ngân hàng trong nước không chỉ tạo phải đối mặt với áp lực cạnh tranh mà còn có nguy cơ bị chi phối, thậm chí bị thâu tóm bởi các nhà đầu tư nước ngoài. Dịch vụ tư vấn pháp lý cũng nhận được nhiều cơ hội phát triển từ TPP. Cần lưu ý rằng TPP sẽ không giúp loại bỏ các biện pháp chống bán phá giá/chống trợ cấp mà Hoa Kỳ hiện đang áp dụng. Hoa Kỳ sẽ tiếp tục áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại này cho nền kinh tế phi thị trường đối với Việt Nam trong các vụ kiện chống bán phá giá cho tới khi Việt Nam đạt được tiêu chuẩn nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, số lượng các tranh chấp sẽ gia tăng với tính chất ngày càng phức tạp, chẳng hạn những tranh chấp giữa người lao động với các chủ sử dụng lao động ở khu vực tư nhân và nước ngoài có thể gắn với hệ quả phá sản, tái cơ cấu doanh nghiệp hoặc vi phạm điều kiện hợp đồng lao động và điều kiện lao động… Tuân thủ pháp luật để tránh bị điều tra, bị kiện và bị phạt, cũng như nắm vững các quy tắc trong cạnh tranh của các doanh nghiệp và lao động sẽ giúp các doanh nghiệp tư vấn pháp lý ngày càng phát triển. Đối với dịch vụ kinh doanh bất động sản, TPP cũng sẽ mang lại những tác động tích cực. Khi hiệp định TPP có hiệu lực, hàng loạt các điều khoản vốn được coi là rào cản trước đây về thủ tục, hồ sơ cho doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam cũng như các nhà đầu tư bất động sản ngoại quốc sẽ trở nên thông thoáng hơn rất nhiều. Vì vậy, các công ty nước ngoài ở nhiều lĩnh vực khác nhau có thể đầu tư nhiều hơn vào Việt Nam sẽ làm tăng nhu cầu về văn phòng cho thuê, đặc biệt là các văn phòng tiêu chuẩn quốc tế, căn hộ cho thuê và căn hộ để 378
  13. bán, mặt bằng cho thuê, đặc biệt là các khu công nghiệp, nhà máy, kho bãi… Do đó, TPP được kỳ vọng sẽ mở ra một chu kỳ tăng trưởng mới cho bất động sản Việt Nam. 3. Một số khuyến nghị Để tận dụng những cơ hội to lớn và vượt qua những thách thức do TPP mang lại, Việt Nam cần khẩn trương hoàn thiện môi trường chính sách, nâng cao năng lực thực thi pháp luật, nâng cao năng lực phân tích dự báo thị trường, nâng cao khả năng vận dụng cam kết và các biện pháp áp dụng. Việt Nam cần xây dựng chính sách phát triển các ngành công nghiệp có tiềm năng, lợi thế từ TPP và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào các chuỗi cung ứng trong khu vực. Các chính sách cần tập trung vào nâng cấp năng lực, công nghệ, đa dạng hóa và đổi mới sản phẩm, thúc đẩy tăng hàm lượng giá trị gia tăng trong các ngành, tăng cường hợp tác dài hạn với các đối tác tiềm năng trong lĩnh vực tương ứng. Bên cạnh đó, nếu không có một chiến lược phát triển công nghiệp hỗ trợ phù hợp và được triển khai có hiệu quả thì nền kinh tế sẽ chỉ an phận ở mức gia công lắp ráp và sẽ chịu nhiều thua thiệt. Chính phủ cần cải cách môi trường pháp lý, thực hiện các cam kết giúp môi trường đầu tư thông thoáng tạo cơ hội thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư. Mặc dù những điều chỉnh này là một quá trình khó khăn và phát sinh chi phí đáng kể và bắt buộc phải thực hiện theo đúng lộ trình đã cam kết nhưng đây là những điều kiện cần thiết để tạo đà cho những nỗ lực trong nước hướng đến môi trường thể chế minh bạch, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Việt Nam cần nâng cao khả năng vận dụng cam kết và các biện pháp áp dụng. Cùng với việc dần dỡ bỏ các hàng rào thuế quan theo lộ trình thực hiện các cam kết, Việt Nam cần tập trung, tăng cường hơn nữa những hàng rào phi thuế quan, đặc biệt là những hàng rào kỹ thuật để giảm thiểu những tác động tiêu cực từ mở cửa thị trường và sức ép cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Chính vì vậy, cần có sự phối hợp giữa nhà nước với doanh nghiệp để giải quyết khâu khó khăn, trở ngại liên quan các hàng rào phi thuế quan và đặc biệt giúp doanh tiếp cận thị trường bền vững, tránh được những tranh chấp thương mại và các vụ kiện thương mại. Chính phủ và các cơ quan nhà nước cần sớm công bố rộng rãi những kiến thức cơ bản và các quy định của TPP cho người dân và các doanh nghiệp trong nước, tuyên truyền sâu rộng những thuận lợi, thách thức, lộ trình giảm thuế, mở cửa thị trường. Đồng thời, phải hướng dẫn, cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận những thị trường mới (như những thông 379
  14. tin mang tính đặc thù liên quan đến văn hóa, tập quán, những yếu tố thị trường) và cả những thông tin về chính sách vĩ mô để các doanh nghiệp có thể chủ động, linh hoạt tiếp cận thị trường bền vững, tránh được các tranh chấp và những vụ kiện thương mại. Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước cần triển khai các hoạt động nghiên cứu, đánh giá tác động của TPP đối với các lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ, đầu tư… để có cơ sở xây dựng và điều chỉnh chính sách phù hợp. Đồng thời các cơ quan nhà nước cần nâng cao năng lực phân tích, dự báo thị trường để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực từ những biến động trên thị trường thế giới, có thể giảm thiểu những tác động tiêu cực từ mở cửa thị trường tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất và xuất khẩu. Các doanh nghiệp và đội ngũ sản xuất tại nông thôn Việt Nam cần tích cực, chủ động tìm hiểu các thông tin liên quan về TPP để có thể nắm bắt thông tin về hiệp định, về các cam kết cụ thể trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của mình, từ đó có thể tận dụng các cơ hội do TPP mang lại. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần củng cố, đào tạo, nâng cao trình độ và tay nghề đội ngũ nhân lực, đề ra các mục tiêu và phương thức hướng hoạt động của doanh nghiệp phù hợp với các đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần tận dụng cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài nhằm tranh thủ lợi thế về vốn, nhân lực và kỹ thuật của các đối tác. Trong dài hạn, các doanh nghiệp trong nước cần bám sát lộ trình và các quy định về mở cửa thị trường của Hiệp định TPP nhằm xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, tận dụng được cơ hội tham gia chuỗi cung ứng trong khu vực. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/tpp-co- hoi-va-thach-thuc-doi-voi-viet-nam-68758.html 2. http://www.nhandan.com.vn/kinhte/hoi-nhap/item/27675702-tpp-co-hoi- va-thach-thuc-doi-voi-viet-nam.html 3. http://www.nhandan.com.vn/kinhte/tin-tuc/item/27622002-co-hoi-va- thach-thuc-khi-viet-nam-gia-nhap-tpp.html 380
nguon tai.lieu . vn