Xem mẫu

  1. MỘT SỐ KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUA CÁC ĐỢT TRIỂN KHAI ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG PGS.TS. Trần Kiều, TS. Lương Việt Thái Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, 101 Trần Hưng Đạo, Hà Nội Email: Trankieu106@yahoo.com; thailv@vnies.edu.vn Mở đầu Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) là một trong những nhân tố quan trọng đảm bảo chất lượng giáo dục toàn diện của GDPT. Đổi mới chương trình giáo dục ở các giai đoạn thích hợp với phạm vi, mức độ, nội dung và cách thức thích hợp là cần thiết để giáo dục đáp ứng yêu cầu phát triển của con người, xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Cùng với sự hình thành và phát triển của nền giáo dục cách mạng ở nước ta trong hơn 75 năm qua (1945-2021), tính đến nay, chương trình GDPT đã có 5 lần thay đổi chính thức, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triên giáo dục của đất nước. Đồng thời qua các lần đổi mới cũng cho ta những bài học kinh nghiệm hữu ích cho công cuộc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông hiện nay ở nước ta. Kể từ khi thành lập vào năm 1961, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam luôn đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu, cung cấp những luận cứ khoa học, đề xuất các định hướng, giải pháp cũng như trực tiếp tham gia xây dựng chương trình, góp phần vào các đợt đổi mới GDPT. I. Một số kết quả đạt được qua các đợt đổi mới chương trình giáo dục phổ thông 1. Chương trình cải cách giáo dục (CCGD) năm 1950 Cải cách giáo dục năm 1950 ra đời trong bối cảnh đất nước đang có chiến tranh. Mục tiêu giáo dục đã nêu lên mô hình nhân cách của một thế hệ đáp ứng những yêu cầu cấp thiết của sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Chương trình GD giai đoạn này đã thể hiện được hệ tư tưởng của cải cách giáo dục. Kết quả đạt được của đợt cải cách này là: Đã xây dựng hệ thống trường phổ thông 9 năm gồm 3 cấp học (cấp I có 4 năm, cấp II có 3 năm, cấp III có 2 năm); ban hành kế hoạch giảng dạy mới, trong đó quy định: Biên chế năm học; số môn học, thời lượng dạy học của từng môn học trong mỗi tuần lễ, số tuần lễ dạy học ở từng cấp học; Biên soạn được sách giáo khoa (SGK) của một 37
  2. số môn học chủ chốt của cấp I và một số tài liệu giảng dạy của một số môn học của cấp II và cấp III như Lịch sử, chính trị, công dân giáo dục. Chương trình 1950 đã thể hiện mục tiêu, nội dung và cấu trúc nội dung, phương pháp, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Tuy nhiên, trừ phần nội dung các yếu tố khác mới chỉ được thể hiện ở mức sơ lược. 2. Chương trình CCGD năm 1956 Cuộc CCGD năm 1956 được thực hiện với mục tiêu quan trọng là “thống nhất hai hệ thống giáo dục của vùng tự do cũ và vùng mới giải phóng”. Mục tiêu GD đã xác định rõ mô hình nhân cách của con người đáp ứng đòi hỏi yêu cầu xã hội hiện tại – phát triển toàn diện đức – trí – thể - mĩ, đó là con người có tài, có đức để kiến thiết nước nhà tiến kịp các nước anh em. Phương châm, nguyên lí giáo dục mới là: phải liên hệ lí luận với thực tiễn, gắn nhà trường với đời sống xã hội; phương pháp giáo dục là tăng cường thực hành, lao động sản xuất. Hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm (cấp I có 4 năm, cấp II có 3 năm, cấp III có 3 năm) thay thế hệ thống giáo dục 9 năm đã góp phần nâng cao chất lượng GD. Cuộc đổi mới này cũng triển khai kế hoạch dạy học mới, ban hành Chương trình trường phổ thông 10 năm với nội dung giáo dục có tính chất toàn diện gồm 4 mặt: Đức, trí, thể, mỹ. Việc cải tiến phương pháp dạy học được chú trọng; thực hiện 5 bước lên lớp, gắn nội dung giáo dục với thực tiễn sản xuất và đấu tranh thống nhất đất nước. Cuộc vận động tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng trong các trường học đã thu được kết quả tốt đẹp: nhiều học sinh có kỷ luật hơn, thái độ cư xử tốt hơn, trong trường có trật tự hơn. Công tác hướng nghiệp cho học sinh được nhiều ngành, nhiều địa phương, các lực lượng xã hội nhiệt liệt hưởng ứng,... Tính chất kỹ thuật tổng hợp của nhà trường XHCN được chú ý nhiều hơn trong biên soạn chương trình, SGK cũng như trong dạy học. Trong đợt đổi mới chương trình này, chủ yếu thay đổi hệ thống, chưa có nhiều sự phát triển lý luận về chương trình. Chương trình chủ yếu tham khảo từ nước ngoài đã hạn chế về tính khả thi. 3. Chương trình CCGD năm 1981 Sau khi đất nước thống nhất, giáo dục đứng trước những yêu cầu đáp ứng yêu cầu phát triên đất nước trong giai đoạn mới, ngày 11 tháng 1 năm 1979 Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng CSVN đã công bố Nghị quyết số 14-NQ/TW về CCGD. Đợt cải cách này đã mang lại những thay đổi chủ yếu: Xác định hệ thống giáo dục mới của nước ta là “một thể thống nhất và hoàn chỉnh, bao gồm: giáo dục mầm 38
  3. non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp và giáo dục đại học”. Trường phổ thông gồm trường phổ thông cơ sở (PTCS) và trường phổ thông trung học (PTTH). Trường PTCS là một thể thống nhất từ lớp1 đến lớp 9 và là bậc học phổ cập bắt buộc\, trong đó có 5 năm cấp I và 4 năm cấp II. Trường PTTH, từ lớp 10 đến lớp 12, có nhiệm vụ nâng cao và hoàn chỉnh trình độ văn hóa phổ thông cho những học sinh đã tốt nghiệp bậc PTCS. Soạn thảo chương trình GDPT đã được Viện Khoa học Giáo dục chuẩn bị từ cuối những năm 60 của thế kỉ 20. Có môn học, chẳng hạn môn Toán đã chuẩn bị từ năm 1966 và đã công bố dự kiến cải cách chương trình môn Toán (từ lớp 1 đến lớp 12) từ năm 1974. Từ sau Đại hội Đảng lần thứ 3, từ năm 1966, 1967 đã có đề cương cải cách giáo dục (trong đó có cải cách chương trình, sách). Viện đã tổ chức xây dựng, đưa ra chương trình, khoảng năm 1974 có bản thảo ban đầu. Trong khoảng thời gian 1973, 1974 sau khi kí Hiệp định Paris, Viện cũng đã góp phần xây dựng chương trình, SGK cho các trường vùng giải phóng ở Miền Nam. Khi chính thức tổ chức soạn thảo chương trình GDPT (sau năm 1975), Bộ Giáo dục đã giao cho Viện KHGD chủ trì tổ chức soạn thảo chương trình các môn học xuyên suốt từ lớp 1 đến lớp 12. Bộ cũng đã tăng cường cho Viện những chuyên gia môn học có uy tín, đang làm việc tại các cơ quan của Bộ hoặc đang giảng dạy ở một số trường đại học sư phạm. Soạn thảo và triển khai chương trình GDPT có tính chất toàn diện và kỹ thuật tổng hợp, với những nội dung cơ bản, hiện đại đúng mức, gắn với thực tế Việt Nam. Kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), đây là bộ chương trình GDPT đầu tiên được áp dụng thống nhất trong phạm vi cả nước. Biên soạn sách giáo khoa (SGK), sách hướng dẫn giảng dạy theo chương trình CCGD của tất cả các môn học và tổ chức triển khai theo hình thức “cuốn chiếu” từ lớp 1 (năm học 1981-1982) đến lớp 12 (năm học 1993-1994). Chương trình CCGD (1981) đã góp phần quan trọng vào quá trình phổ cập và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của GDPT. Trong giai đoạn này, Viện cũng đã triển khai nghiên cứu vấn đề phân ban ở PTTH, đã xây dựng chương trình với 3 ban: Ban KHTN (ban A), Ban KHXH (ban C), và ban KHKT (ban B), SGK của từng ban và triên khai thí điểm ở 02 trường PTTH. Bộ chương trình và SGK có các ưu điểm chính như sau: Thực hiện giáo dục toàn diện (đức, trí, thể, mĩ), tập trung vào các kiến thức và kĩ năng cơ bản, cấu trúc có hệ thống; đảm bảo sự liên tục giữa các cấp học, giữa giáo dục phổ thông và giáo dục 39
  4. chuyên nghiệp; Góp phần tích cực vào phổ cập giáo dục (từ tiểu học rồi mở rộng dần đến trung học cơ sở); đáp ứng yêu cầu học tập tiếp tục của số đông học sinh; góp phần phát hiện và bồi dưỡng những tài năng tương lai của đất nước. Tuy nhiên cũng có một số hạn chế: Nội dung chương trình và SGK còn thiên về lý thuyết, ít các kiến thức ứng dụng và hoạt động thực hành; ít gắn bó với thực tiễn; khối lượng và mức độ nội dung ở một số phần của một số môn học còn nặng và cao, còn có sự trùng lặp giữa một số phân môn và giữa một số môn học. Đặc biệt chương trình và SGK được soạn thảo còn thiên về phương pháp truyền thụ một chiều tạo nên lối học thụ động, không thích hợp với cách dạy học tích cực để phát triển năng lực sáng tạo, năng lực tự học của học sinh và tạo điều kiện gắn bó học tập với các hoạt động thưc tế. Do không có điều kiện thử nghiệm và trưng cầu ý kiến rộng rãi, chưa coi trọng đúng mức tính pháp lí của chương trình giáo dục quốc gia, nên phải tiến hành điều chỉnh, chỉnh lí chương trình và một số SGK của một số môn học một số lần. 4. Đổi mới Chương trình giáo dục phổ thông năm 2002 Để chuẩn bị cho đất nước bước sang một thời kì mới, khắc phục những hạn chế, bất cập của Chương trình CCGD lần thứ 3 và hội nhập với xu thế giáo dục quốc tế, cần phải tiến hành đổi mới giáo dục. Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 40/2000/QH10, ngày 4/12/2000 về đổi mới chương trình GDPT. Nghị quyết 40 đã khẳng định mục tiêu của của đổi mới CTGDPT lần này là “xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, SGK phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu PTNNL phục vụ CNH, HĐH đất nước, phù hợp thực tiễn truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới”. Bộ đã thành lập Ban chỉ đạo đổi mới chương trình GDPT và các ban chỉ đạo xây dựng CT và SGK của từng cấp học. Chương trình cấp Tiểu học1, chương trình cấp THCS2 và cấp THPT3 đã được xây dựng và ban hành kèm theo các Quyết định của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT. Các chương trình này đã được áp dụng từ năm học 2002-2003. Thực hiện Luật Giáo dục năm 2005, Bộ đã tổ chức hoàn thiện chương trình GDPT trên cơ sở chương trình 3 cấp học. Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ký Quyết định 1 Quyết định số 43/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 09/11/2001 2 Quyết định số 03/2002/QĐ-BGD&ĐT ngày 24/01/2002 3 Quyết định số 04/2002/QĐ-BGD&ĐT ngày 08/3/2002 40
  5. ban hành chương trình GDPT từ lớp 1 đến lớp 12 4. Chương trình đổi mới đã phản ánh một sự đổi mới nhận thức về những vấn đề cơ bản của lý luận dạy học, thành tựu mới về lý luận CT và phương pháp, kĩ thuật xây dựng CT, từng bước cập nhật với trình độ thế giới. Điều đó được thể hiện ở những khía cạnh: Quan niệm mới về nội dung học vấn phổ thông, quan niệm về CT đầy đủ, chuẩn CT quốc gia, quan niệm mới về phương pháp dạy học cũng như đánh giá kết quả dạy học, vận dụng các phương pháp, kỹ thuật xây dựng CT hiện đại, ứng dụng quan niệm mới về phát triển CT, về tích hợp và dạy học phân hoá.5 + Lần đầu tiên trong lịch sử, bộ CTGD đã được xây dựng theo xu hướng quốc tế, với nhiều thành tố (mục tiêu giáo dục, chuẩn kiến thức và kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục, định hướng phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục). + CT đã chú ý giáo dục toàn diện các mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, các kĩ năng cơ bản và hướng nghiệp. + Đã xây dựng được chuẩn kiến thức, kĩ năng của cấp học, môn học làm căn cứ thống nhất trong công tác chỉ đạo và đánh giá kết quả giáo dục. Về cơ bản, mức độ yêu cầu của chuẩn phù hợp với năng lực nhận thức của học sinh. + Đã kế thừa và phát huy được những ưu điểm cơ bản của các CT trước đây. Nội dung đảm bảo được tính khoa học, cơ bản, hiện đại và tiếp cận trình độ giáo dục các nước phát triển trong khu vực. Đã chú ý đến sự liên thông trong môn học, giữa các môn học, trong cấp học, giữa các cấp học theo nguyên tắc kế thừa và phát triển. Bước đầu có sự tích hợp nhiều phân môn trong một môn học, một số môn học vào cùng lĩnh vực và những vấn đề toàn cầu (giáo dục dân số, giáo dục môi trường, giáo dục quyền trẻ em, phòng chống các tệ nạn xã hội và HIV – AIDS,…) vào các môn học. Chú ý đến sự phân hoá trình độ nhận thức thông qua hệ thống môn học bắt buộc và nội dung tự chọn, thông qua CT chuẩn và CT nâng cao.6 Tuy nhiên Chương trình cũng còn những hạn chế: + Việc đổi mới chương trình đào tạo ở các trường sư phạm chưa đồng bộ với đổi mới nội dung CT và phương pháp giáo dục phổ thông. + Việc chỉ đạo xây dựng chương trình chưa thực sự đảm bảo tính hệ thống, tính 1 Quyết định số 16/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 05/5/2006. 5 Dự thảo lần 12 Đề án Đổi mới CT, SGK GDPT sau năm 2015- Bộ GDDT 6 Dự thảo lần 12 Đề án Đổi mới CT, SGK giáo dục phổ thông sau năm 2015- Bộ GDDT 41
  6. chỉnh thể và tính liên thông giữa các cấp học. + CT vẫn được xây dựng theo hướng coi trọng việc trang bị kiến thức, kĩ năng cho học sinh, nên mặc dù đã đề cập đến một số năng lực như thực hành, giải quyết vấn đề,…, song hầu như mới chỉ dừng lại ở mục tiêu giáo dục. Việc chuẩn bị cho học sinh đi vào cuộc sống chưa thực sự được chú trọng, chưa hướng tới chuẩn bị năng lực học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. + Số môn học bắt buộc trong mỗi lớp học, cấp học còn nhiều. Còn có sự trùng lặp về nội dung và thiếu sự liên thông cần thiết trong một số môn học, giữa các môn học, và giữa các cấp học. Có sự thiếu cân đối giữa các nội dung, giữa lý thuyết và thực hành, giữa dung lượng và thời lượng trong chương trình một số môn học. Một số chủ đề còn nặng, khó. Việc tích hợp các nội dung giáo dục vừa thiếu, vừa chưa thực sự khoa học nên phải điều chỉnh và bổ sung nhiều trong quá trình triển khai (như giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng phòng chống các tệ nạn xã hội, kỹ năng xác định khuynh hướng nghề nghiệp,…). + CT chưa thực sự chú trọng đến tính liên thông giữa giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học để thực hiện phân luồng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Hình thức tổ chức “phân ban kết hợp với tự chọn” ở cấp THPT chưa đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng, khuynh hướng nghề nghiệp của học sinh và yêu cầu phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Lựa chọn ban và môn tự chọn chủ yếu tự phát theo cơ cấu môn thi, khối thi tuyển sinh đại học. + Vẫn còn có sự chưa phù hợp giữa CTGD với điều kiện cơ sở vật chất nhà trường và trình độ của một bộ phận giáo viên. Ở Trung học có tình trạng “quá tải” nội dung học tập do HS phải học nhiều môn trong điều kiện thời gian học tập ở trường còn hạn chế. Giáo dục kĩ năng sống; ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện CT các môn học còn hạn chế; chưa thực hiện tốt quan điểm tích hợp trong xây dựng CT.7 + Công tác đổi mới đánh giá kết quả GD của GDPT còn nhiều vấn đề về bước đi và kĩ thuật8. Phương thức đánh giá kết quả giáo dục (nhất là thi tốt nghiệp THPT) chưa được xác định rõ ràng trong CT. Hướng dẫn vận dụng CT vào từng vùng miền và từng loại đối tượng chưa cụ thể, rõ ràng.9 Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong đổi mới chương trình lần này. Viện đã có nhiều nghiên cứu từ những năm 90 về lí luận phát triển 7 Bộ GD& ĐT, Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết 40/2000/QH10 về Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, Hà Nội 5/2009 8 CTGD, Lý luận và thực tế- Bản thảo chuyên khảo- PGS. TS. Trần Kiều chủ biên 9 Dự thảo thứ 12 Đề án Đổi mới CT, SGK giáo dục phổ thông sau năm 2015- Bộ GDĐT 42
  7. chương trình, xây dựng chuẩn, về tích hợp, phân hóa, phân ban ở THPT, về đổi mới PPDH, biên soạn sách giáo khoa theo các định hướng đổi mới, làm cơ sở khoa học cho đổi mới chương trình ở từng cấp. Viện cũng đã đóng vai trò quan trọng trong tham gia các ban soạn thảo chương trình các môn học ở từng cấp; cũng như trong việc biên soạn chương trình tổng thể và chương trình ở từng cấp học trong đợt hoàn thiện chương trình. 5. Thực hiện đổi mới Chương trình GDPT 2018 – thực hiện Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Sau khi Nghị quyết 29 được ban hành, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 88/2014/QH13 (ngày 28/11/2014) về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Kết quả đạt được: Đối với việc xây dựng Chương trình: Bộ GDĐT đã ban hành Chương trình GDPT (Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018). Chương trình mới được xây dựng theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, bảo đảm yêu cầu giảm tải, giảm tính hàn lâm, gắn với thực tiễn, tăng cường hoạt động thực hành, trải nghiệm cho học sinh, tạo điều kiện thực hiện tốt phương pháp giáo dục tích cực, phù hợp với xu hướng giáo dục quốc tế theo yêu cầu của Nghị quyết 88. Quan điểm xây dựng chương trình giáo dục phổ thông mới được nêu rõ trong chương trình tổng thể là phải dựa trên quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; kế thừa và phát triển những ưu điểm của các chương trình giáo dục phổ thông đã có của Việt Nam, đồng thời tiếp thu thành tựu nghiên cứu về khoa học giáo dục và kinh nghiệm xây dựng chương trình theo mô hình phát triển năng lực của những nền giáo dục tiên tiến trên thế giới; gắn với nhu cầu phát triển của đất nước, những tiến bộ của thời đại về khoa học - công nghệ và xã hội; phù hợp với đặc điểm con người, văn hóa Việt Nam, các giá trị truyền thống của dân tộc và những giá trị chung của nhân loại cũng như các sáng kiến và định hướng phát triển chung của UNESCO về giáo dục; tạo cơ hội bình đẳng về quyền được bảo vệ, chăm sóc, học tập và phát triển, quyền được lắng nghe, tôn trọng và được tham gia của học sinh; đặt nền tảng cho một xã hội nhân văn, phát triển bền vững và phồn vinh. Chương trình giáo dục phổ thông thực hiện yêu cầu của Nghị quyết số 88/2014/QH13: “Chuyển nền giáo dục nặng về trang bị kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh”. Chương trình giáo dục phổ thông được chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn giáo dục cơ bản (gồm cấp tiểu học 05 năm và cấp trung học cơ sở 04 năm) bảo đảm trang bị cho 43
  8. học sinh tri thức phổ thông nền tảng, toàn diện và thực sự cần thiết; giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (cấp trung học phổ thông 3 năm) bảo đảm học sinh tiếp cận nghề nghiệp phù hợp với năng lực, nguyện vọng và chủ động chuẩn bị tốt cho giai đoạn giáo dục sau phổ thông. Chương trình đã xác định các năng lực cốt lõi (3 nhóm, 6 năng lực chung cốt lõi và 7 năng lực đặc thù) và 5 phẩm chất chủ yếu làm cơ sở cho xây dựng chương trình các môn học. Chương trình giáo dục phổ thông được thiết kế theo định hướng “tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên”. Chương trình giáo dục phổ thông mới thực hiện giáo dục phân hóa - cá thể hóa, đặc biệt là đối với cấp trung học phổ thông (giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp). Học sinh được chọn những nội dung học tập mà các em yêu thích, qua đó tự phát hiện năng lực của mình để rèn luyện và trưởng thành. Nhờ thực hiện các giải pháp trên, Chương trình giáo dục phổ thông mới đã giảm tải so với chương trình hiện hành, thể hiện ở các điểm sau: giảm số môn học, giảm số giờ học, chọn lọc nội dung giáo dục thiết thực, đổi mới phương pháp giáo dục, tạo điều kiện để học sinh được lựa chọn môn học, chủ đề học tập và tăng cường các hoạt động thực hành. Giáo dục hướng nghiệp được thực hiện ở nhiều môn học khác nhau: từ các môn khoa học tự nhiên - công nghệ đến khoa học xã hội, nghệ thuật và hoạt động trải nghiệm - hướng nghiệp, phù hợp với đặc thù của mỗi môn học. Mục đích là nhằm cung cấp tri thức về nghề nghiệp và thị trường lao động cho học sinh, giúp học sinh tự đánh giá sở trường, nguyện vọng, quan niệm về giá trị và điều kiện của bản thân, từ đó lựa chọn định hướng nghề nghiệp phù hợp và có ý thức chuẩn bị cho việc thực hiện sự lựa chọn đó. Ở Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp: Ngoài 5 môn học (Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ, Giáo dục thể chất, Giáo dục quốc phòng và an ninh) và 1 hoạt động giáo dục (Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp) bắt buộc, các môn học còn lại được chia thành ba nhóm môn (nhóm khoa học xã hội gồm Lịch sử, Địa lý, Giáo dục kinh tế và pháp luật; nhóm khoa học tự nhiên gồm Vật lý, Hóa học, Sinh học; nhóm công nghệ và nghệ thuật gồm Công nghệ, Tin học, Âm nhạc, Mỹ thuật). Học sinh được quyền lựa chọn 5 môn học từ 3 nhóm môn nói trên, mỗi nhóm chọn ít nhất 1 môn phù hợp với định hướng nghề nghiệp và nguyện vọng của bản thân cũng như khả năng đáp ứng của cơ sở giáo dục. 44
  9. Thực hiện yêu cầu của Nghị quyết số 88/2014/QH13 về tính mở của chương trình giáo dục phổ thông mới, chương trình giáo dục phổ thông tổng thể quy định: Chương trình giáo dục phổ thông bảo đảm định hướng thống nhất và những nội dung giáo dục cốt lõi, bắt buộc đối với học sinh toàn quốc, đồng thời trao quyền chủ động và trách nhiệm cho địa phương và nhà trường trong việc lựa chọn, bổ sung một số nội dung giáo dục và triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp với đối tượng giáo dục và điều kiện của địa phương, của cơ sở giáo dục, góp phần bảo đảm kết nối hoạt động của nhà trường với gia đình, chính quyền và xã hội. Trong năm học 2020-2021 - năm học đầu tiên triển khai chương trình, sách giáo khoa mới đối với lớp 1, đã cho thấy những kết quả tích cực của đổi mới chương trình GDPT. Trong giai đoạn khoảng 10 năm trước khi ban hành chương trình giáo dục phổ thông 2018, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam đã xây dựng, thực hiện các nghiên cứu chuẩn bị cho đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo định hướng phát triển năng lực. Viện đã triển khai nhiều hoạt động nghiên cứu góp phần đổi mới chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn vừa qua. Cụ thể: Các nghiên cứu về kinh nghiệm quốc tế và trong nước trong việc xây dựng và triển khai chương trình giáo dục phổ thông; Nghiên cứu đánh giá chương trình giáo dục phổ thông hiện hành; Nghiên cứu các lí luận hiện đại về phát triển chương trình (phát triển năng lực, xây dựng chuẩn giáo dục phổ thông, quan điểm dạy học tích hợp, dạy học phân hoá, xây dựng tiêu chí đánh giá chương trình, …). Thực hiện yêu cầu của Bộ GD&ĐT, Viện KHGDVN đã chủ động tổ chức khởi thảo Đề án Đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau 2015, tổ chức các hội thảo góp ý cho văn bản Dự thảo. Sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo thành lập Ban chỉ đạo Đổi mới Chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông, Viện đã chuyển dự thảo Đề án cho Ban chỉ đạo. Các kết quả nghiên cứu cũng đã được phổ biến, chuyển giao dưới nhiều hình thức khác. Các nghiên cứu đã đóng góp cơ sở khoa học quan trọng cho những định hướng đổi mới của CTGDPT 2018. Nhiều cán bộ của Viện tham gia trong các ban soạn thảo, hội đồng thẩm định chương trình. Đánh giá chung Qua các lần thay đổi chương trình GDPT vừa qua đều đem lại nhận thức mới, chất lượng mới, bước tiến mới cả về lí luận và thực tiễn trong phát triển chương trình GDPT; góp phần đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những nhu cầu phát triển của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Cụ thể là: 45
  10. - Nhận thức về chương trình GDPT ngày càng đầy đủ, cập nhật với quan điểm hiện đại về CTGD. Các văn bản chương trình GDPT trước đây thường có nội dung và cấu trúc đơn giản, như trên đã nói, chủ yếu là bản danh mục các nội dung dạy học của mỗi môn học (đề mục và thời lượng), thiếu một số thành tố như chuẩn chương trình, định hướng về phương pháp – phương tiện dạy học, kiểm tra đánh giá... Cho đến chương trình GDPT 2006 lần đầu tiên Việt Nam có một bộ chương trình GDPT với đầy đủ các thành tố được ghi trong Luật Giáo dục, bao gồm: Mục tiêu GDPT; Chuẩn kiến thức, kĩ năng; Phạm vi và cấu trúc nội dung Giáo dục; Phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục; Cách thức đánh giá kết quả Giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp và mỗi cấp học. Trong mỗi thành tố cũng cho thấy sự phát triển lí luận. - Cập nhật được các cách tiếp cận xây dựng chương trình: Việc nghiên cứu chương trình GDPT đòi hỏi phải cập nhật được các xu thế tiếp cận mới nhằm phát triển và hội nhập. Các chương trình GDPT trước đây của Việt Nam chủ yếu được tiếp cận theo hướng lấy nội dung kiến thức (dạy và học cái gì?) làm trọng tâm, dần dần chú ý thêm kĩ năng, thái độ; hướng tới kết quả đầu ra và Chương trình GDPT 2018 đã xây dựng theo định hướng phát triển năng lực, phù hợp với xu hướng quan trọng của chương trình GDPT của nhiều nền giáo dục tiên tiến, hiện đại. - Đề cao tính pháp lý của chương trình: Năm 2005 Luật Giáo dục chính thức nêu nội dung khái niệm về Chương trình giáo dục phổ thông. Việc chính thức hóa nội dung khái niệm chương trình GDPT vào Luật Giáo dục là một bước tiến trong nhận thức cũng như trong nghiên cứu về chương trình và phát triển chương trình GDPT ở Việt Nam. - Quy trình phát triển chương trình giáo dục phổ thông ngày càng hoàn thiện Cũng như nhận thức về chương trình GDPT, trong việc thiết kế và phát triển chương trình, cho đến lần đổi mới chương trình GDPT sau 2000, lí luận về quy trình xây dựng và phát triển chương trình của Việt Nam tuy vẫn còn một số hạn chế nhưng Việt Nam đã nghiên cứu và đề xuất được một quy trình hợp lí; tiếp cận được với quy trình thiết kế và phát triển chương trình GDPT của quốc tế. - Vấn đề chuẩn bị các điều kiện thực hiện cũng ngày càng được quan tâm hơn. - Công tác quản lý thực hiện chương trình giáo dục cũng đã có sự tiến bộ, thể hiện qua việc xây dựng các văn bản quản lí, chỉ đạo, trong tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá phù hợp quy trình quản lí chương trình. 46
  11. II. Bài học kinh nghiệm Nghiên cứu bối cảnh, tính cấp thiết và những thay đổi của mỗi lần thay đổi chương trình GDPT, thực tiễn thành công cũng như những hạn chế, yếu kém qua các lần đổi mới có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết cho đổi mới chương trình GDPT đang triển khai. Dưới đây là một số bài học chủ yếu: - Phải thường xuyên quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước; tuân thủ Luật Giáo dục; tiếp thu những thành tựu của chương trình trước đó và cập nhật xu hướng của thế giới trong quá trình xây dựng và triển khai chương trình. - Luôn tôn trọng quan điểm tiếp cận hệ thống khi xem xét, giải quyết các vấn đề của chương trình, sách giáo khoa. Trong đó có những vấn đề như nhất quán, xuyên suốt giữa các cấp học; tính liên thông giữa giáo dục phổ thông với giáo dục mầm non và nhất là với giáo dục nghề nghiệp sau phổ thông; sự đồng bộ, nhất quán giữa các chương trình môn học, giữa các thành tố trong chương trình môn học trong việc quán triệt mục tiêu giáo dục; giữa yêu cầu chương trình với việc thi, kiểm tra, đánh giá… ; với điều kiện về giáo viên, cơ sở vật chất, thời lượng; giữa đổi mới đào tạo sư phạm và phổ thông; sự phối hợp gia đình, nhà trường và xã hội; … - Trong quá trình xây dựng và triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới, cần kiên định với mục tiêu đổi mới, đồng thời cần đánh giá, xác định đúng, kịp thời những khó khăn, thách thức để có những giải pháp sáng tạo, bước đi phù hợp để giải quyết. Tránh những quan điểm cực đoan, cứng nhắc, duy ý chí. - Phải luôn hướng tới mục tiêu giáo dục phổ thông bằng việc tôn trọng và giải quyết hài hoà giữa tính phổ biến và tính đặc thù của chương trình giáo dục, của các địa phương, cơ sở giáo dục. Cần giải quyết hài hoà giữa yêu cầu và điều kiện chung của toàn quốc với yêu cầu và điều kiện riêng của mỗi địa phương, nhà trường; giữa mục tiêu chung của chương trình mà mỗi môn học, hoạt động giáo dục phải tuân thủ với đặc thù riêng về mục tiêu, phương pháp thực hiện của chương trình từng môn học, hoạt động giáo dục; giữa giáo dục toàn diện cho mọi học sinh với việc phát triển năng lực, sở trường riêng của mỗi học sinh. Chú trọng phát huy sự tự chủ, tính năng động, sáng tạo của các địa phương, cơ sở giáo dục. - Thay đổi chương trình GDPT cần phải căn cứ vào: Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước (trong đó có chiến lược giáo dục), quan điểm và chính sách giáo dục của Đảng, Quốc hội, Chính phủ trong một giai đoạn cụ thể. Đánh giá ưu, nhược và 47
  12. những bài học kinh nghiệm của thực tế triển khai chương trình GDPT trong những giai đoạn đã qua, những kết quả nghiên cứu để chuẩn bị cho thay đổi chương trình trong giai đoạn sắp tới. Đánh giá những ưu, nhược của chương trình hiện hành và các điều kiện triển khai chương trình để phát huy những ưu điểm, đồng thời phát hiện kịp thời những “tồn tại” và thực hiện những thay đổi, bổ sung ở các mức độ thích hợp. Xu thế, kinh nghiệm phát triển chương trình GDPT của các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời cần phát huy tính độc lập, tự chủ, gìn giữ những giá trị Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế về chương trình GDPT. - Phát triển chương trình là quá trình liên tục, thể hiện ở các khía cạnh khác nhau trong đó có việc thay đổi chương trình quốc gia cho phù hợp hơn với thực tiễn, đáp ứng tốt hơn với yêu cầu phát triển. Có các mức độ thay đổi chương trình khác nhau, từ những thay đổi căn bản toàn bộ chương trình GDPT, thường liên quan tới đổi mới mục tiêu, hệ thống giáo dục; đến mức độ thấp hơn: chỉ thay đổi chương trình của một hoặc một số môn học; hay chỉ là những điều chỉnh, bổ sung một số nội dung giáo dục ở một số môn học; … Cần chú ý xác định một cách phù hợp mức độ, cũng như tạo sự đồng thuận, thống nhất trong thực hiện. - Phát triển chương trình cần phải có cơ sở khoa học đúng đắn cùng với một hệ tiêu chí đầy đủ, đảm bảo độ giá trị và độ tin cậy. Vì vậy cần coi trọng hoạt động nghiên cứu về chương trình. - Cần xây dựng những chính sách hợp lí để huy động, thu hút các nhà khoa học, nhà sư phạm tham gia xây dựng, biên soạn, thẩm định chương trình, sách giáo khoa. Cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ chuyên gia am hiểu và hoạt động thường xuyên về lĩnh vực phát triển chương trình giáo dục phổ thông. - Chú trọng tới vai trò của đội ngũ CBQL, giáo viên ở các cơ sở giáo dục. Có các giải pháp về tạo động lực, sự sẵn sàng đổi mới cũng như phát triển chuyên môn cho đội ngũ để thực hiện thành công đổi mới. - Chú trọng đến công tác tuyên truyền để tạo sự hiểu biết, đồng thuận của xã hội, sự ủng hộ và phối hợp của các cấp, các ngành, các địa phương... - Cần phải nhận thức đầy đủ về nội dung và ý nghĩa của xã hội hoá giáo dục, tăng cường thực hiện xã hội hoá giáo dục. Kết luận 1. Chương trình GDPT đã qua các lần đổi mới đã hoàn thành được vai trò quan trọng của chúng trong việc đảm bảo thực hiện mục tiêu giáo dục đối với từng giai 48
  13. đoạn, đáp ứng yêu cầu phát triển của các đối tượng HS, đáp ứng yêu cầu mới về đào tạo nguồn nhân lực ở từng giai đoạn phát triển mới của đất nước; tiếp cận với những xu thế tiến bộ trong phát triển chương trình giáo dục ở khu vực và quốc tế. Qua các lần thay đổi chương trình, nhận thức về chương trình, vị trí của chương trình GDPT trong quá trình giáo dục ở nước ta ngày càng đầy đủ, rõ ràng, tiến bộ hơn. Lý luận về chương trình giáo dục ở Việt Nam được hình thành và phát triển. Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam luôn đóng vai trò quan trọng, tích cực, chủ động trong nghiên cứu, đề xuất các định hướng, giải pháp đổi mới CT cũng như trực tiếp tham gia xây dựng chương trình. 2. Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là một công việc phức tạp, có tác động lớn tới xã hội, liên quan nhiều đối tượng, tới mọi gia đình; và đòi hỏi chi phí, có sự chuẩn bị một cách đồng bộ. Đổi mới chương trình phải thay đổi quan điểm, thay đổi cách làm, … Hiện nay đang ở giai đoạn đầu của triển khai chương trình GDPT mới (Chương trình GDPT 2018), cần quan tâm đúc rút kinh nghiệm, kiên định với mục tiêu đổi mới, đồng thời cần đánh giá, xác định đúng, kịp thời những khó khăn, thách thức để có những giải pháp sáng tạo, bước đi phù hợp. Cần tiếp tục có những nghiên cứu song hành cùng với quá trình triển khai CTGDPT 2018 để góp phần thực hiện thành công công cuộc đổi mới. Đồng thời có những cơ chế, cách thức để các nghiên cứu có thể đóng góp thiết thực, hiệu quả cho công tác chỉ đạo, triển khai trong thực tiễn. Cần quan tâm phát triển đội ngũ nghiên cứu về phát triển chương trình. Một số vấn đề cần tiếp tục quan tâm nghiên cứu như: Xây dựng chuẩn đánh giá năng lực (Bộ đã giao cho Viện thực hiện Chương trình nghiên cứu cấp Bộ về vấn đề này); Cách thức triển khai dạy học phân hóa ở THPT, dạy một số môn tích hợp phù hợp thực tiễn đa dạng các địa phương, nhà trường; Sự thể hiện, cách thức thực hiện, đánh giá các năng lực cốt lõi trong môi trường số, bối cảnh CM 4.0, … TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Tuyên giáo Trung ương – Bộ GD&ĐT (2020). Công tác tuyên giáo với đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019). Báo cáo Một số kết quả về đổi mới giáo dục và đào tạo trong 6 tháng đầu năm 2019 nhằm tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn 49
  14. diện giáo dục và đào tạo. 3. Phan Văn Kha – Nguyễn Lộc (2011). Khoa học giáo dục Việt Nam từ đổi mới đến nay. Nhà Xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội. 4. Đỗ Đình Hoan (2011). Một số bài học kinh nghiệm từ bốn lần thay đổi chương trình giáo dục phổ thông. 5. Trần Kiều (2019). Nhìn lại quá trình gần 60 năm phát triển chương trình giáo dục phổ thông từ sau cách mạng tháng 8. 6. Hoàng Đức Nhuận (1992). Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam – Trưởng thành qua 30 năm phục vụ sự nghiệp phát triển giáo dục. Tạp chí Thông tin Khoa học giáo dục, số 30. 7. Trần Kiều (CB) (2012). Tổng kết nghiên cứu về chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam từ năm 2015 đến nay. Báo cáo Nhiệm vụ nghiên cứu cấp Bộ. 8. Trần Kiều (2019). Nhìn lại quá trình gần 60 năm phát triển chương trình giáo dục phổ thông từ sau cách mạng tháng 8. 50
nguon tai.lieu . vn