Xem mẫu

  1. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI MỘT SỐ HẠN CHẾ TRONG TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CƠ SỞ VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC PHẠM XUÂN THIÊN * Tóm tắt: Quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở nói riêng là một quá trình phức tạp. Do nhiều nguyên nhân, cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở ở nước ta thường mắc phải hạn chế như "bệnh kinh nghiệm", "bệnh giáo điều", thực chất là tách rời lý luận với thực tiễn, xa rời những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin dẫn đến những hạn chế, thậm chí là những sai lầm trong tư duy lý luận. Bài viết đề cập đến một số hạn chế trong tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở và đề xuất một số biện pháp khắc phục nhằm góp phần nhận diện, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 Khóa XII của Đảng. Từ khóa: Hạn chế, tư duy lý luận, cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở. N ghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII khẳng định: “sự suy thoái về tư tưởng chính Thực tiễn cho thấy, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đã và đang trở thành “hiện thực trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", nguy hiểm” và đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa " dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực trong nội bộ là nhiệm vụ cấp bách hiện nay. xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”(1). đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, nhất là ở cán bộ lãnh đạo, quản * Tiến sĩ, Trường Chính trị tỉnh Hải Dương. 1 - ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Sách do Văn phòng Trung ương Đảng ấn hành, Hà Nội, 2016, tr. 23. 28 TẠP CHÍ GIÁO DỤC LÝ LUẬN - SỐ 269+270 (QUÝ III+IV/2017)
  2. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI lý cơ sở hiện nay do nhiều nguyên nhân. Để Quá trình hình thành, phát triển và hoàn đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về thiện tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn quản lý nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, việc cơ sở nói riêng là một quá trình biện chứng, nhận thức những nguyên nhân dẫn đến sự phức tạp. Đặc biệt, phải trải qua hai quá suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối trình: một là, quá trình học tập lý luận, tri sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có ý thức khoa học; hai là, quá trình vận dụng rèn nghĩa rất quan trọng. Bài viết này đề cập đến luyện trong thực tiễn; không ngừng nâng cao những hạn chế trong tư duy lý luận của cán bản lĩnh, phương pháp luận, phong cách làm bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở như một trong việc,... Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ những nguyên nhân cơ bản dẫn đến "tự diễn sở ở nước ta hiện nay chủ yếu được trưởng biến", "tự chuyển hóa" nội bộ và đề xuất một thành từ thực tiễn công tác; ít được đào tạo số biện pháp khắc phục. và cập nhật kiến thức một cách cơ bản, Tư duy lý luận suy đến cùng là hình thức thường xuyên... nên thường mắc phải hạn phát triển cao nhất của tư duy; là quá trình chế là “bệnh kinh nghiệm” và “bệnh giáo phản ánh tích cực, chủ động và sáng tạo hiện điều”. Cả hai căn bệnh này thực chất là đã thực khách quan một cách gián tiếp, mang tách rời lý luận với thực tiễn; xa rời những tính trừu tượng và khái quát cao bằng các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, dẫn khái niệm, phạm trù, quy luật. Tư duy lý luận đến những hạn chế, thậm chí là sai lầm trong có vai trò hết sức to lớn trong nhận thức và tư duy lý luận. Hạn chế trong tư duy lý luận cải tạo thế giới. Ph.Ăngghen viết: “một dân của cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở hiện nay tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thường được biểu hiện cụ thể như sau: thì không thể không có tư duy lý luận”(2). Trong Thứ nhất, khuynh hướng “đơn giản hóa”, quá trình lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi thậm chí “tầm thường hóa” tư duy lý luận mới đất nước, ngay từ thời kỳ đầu, Tổng Bí Những biểu hiện của việc đơn giản hóa, thư Nguyễn Văn Linh đã khẳng định: “Muốn tầm thường hóa tư duy lý luận là ở chỗ, đổi mới tư duy và đổi mới xã hội trước hết phải người ta thường vận dụng rập khuôn, máy đổi mới tư duy lý luận”(3). “Nhưng tư duy lý móc những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng Lênin. Người ta thường cố gắng minh họa, năng lực của người ta có mà thôi. Năng lực ấy viện dẫn những luận điểm có sẵn mà không cần phải được phát triển hoàn thiện và muốn quan tâm xem xét đến những điều kiện, tình hoàn thiện nó thì cho đến nay, không còn một hình cụ thể. Trong nhiều trường hợp, người cách nào khác hơn nghiên cứu toàn bộ triết học ta đã “cắt xén” những tư tưởng; minh họa thời trước”(4). sai,... dẫn đến hiểu sai những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể thấy, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực 2 - C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị tư tưởng, lý luận cũng diễn ra vô cùng khó quốc gia Hà Nội, 1994, tr. 489. 3 - Nguyễn Văn Linh: Cách mạng tháng Mười và cách khăn, quyết liệt; việc kiên định và đấu tranh mạng Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, 1987, số 11, tr. 6. không khoan nhượng để bảo vệ những 4 - C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1994, tr. 487. TẠP CHÍ GIÁO DỤC LÝ LUẬN - SỐ 269+270 (QUÝ III+IV/2017) 29
  3. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin không khỏi hoang mang, dao động, hoặc chí là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, nhất là đối ít cũng “không phân biệt được” giữa đúng và với những người làm công tác lý luận trong sai. Một số lại có thể “bị choáng ngợp” trước giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, nếu chúng ta hiện thực của chủ nghĩa tư bản. tuyệt đối hóa những quan điểm, tư tưởng đó Giản đơn hóa lý luận về chủ nghĩa xã hội đến mức “không bàn cãi”, “bất khả xâm và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn phạm” đã xong xuôi hoàn chỉnh mà thực tiễn được biểu hiện ở việc đồng nhất những mối phải “khuôn theo”, hay chỉ một mực đi tìm quan hệ khác nhau; không thấy hết tính chất những tư liệu, những sự kiện mang tính khó khăn, lâu dài, phức tạp của thời kỳ quá “thuận chiều” hay ra sức “tô hồng” cho độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. những luận điểm đó bất chấp cả lôgic thông Thứ ba, tư duy lý luận còn mang nặng bệnh thường thì rất dễ dẫn đến những hành động “chủ quan duy ý chí” xa rời thực tiễn và những sai lầm. Trong thực tiễn, việc vận dụng rập quy luật khách quan khuôn, máy móc những nguyên lý của chủ Sức mạnh của tư duy lý luận là ở chỗ nó nghĩa Mác - Lênin rất có thể dẫn con người xuất phát từ cuộc sống và cùng với hiện thực đến những suy diễn chủ quan và kết luận phi cuộc sống nó không ngừng được bổ sung, lý, không có cơ sở khoa học. phát triển. Nhờ phản ánh được những quy Thứ hai, giản đơn trong lý luận về chủ nghĩa luật khách quan nên nó có thể chỉ đạo, soi xã hội và con đường đi lên của nghĩa xã hội ở đường cho thực tiễn phát triển. Tuy nhiên, Việt Nam tư duy lý luận trong cán bộ lãnh đạo, quản lý Thời kỳ trước đổi mới, một giai đoạn khá cơ sở ở nước ta hiện nay có những biểu hiện dài chúng ta đã nhận thức giản đơn về chủ xa rời, vi phạm, bất chấp quy luật khách nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa quan. Chính hạn chế này làm cho tư duy lý xã hội; không xác định được rõ, thậm chí lẫn luận thiếu tính khoa học, mang nặng tính lộn nhiệm vụ cụ thể trong các giai đoạn lịch chủ quan, thậm chí “ảo tưởng”. Về mặt lý sử cụ thể và không thấy được mối quan hệ luận, người ta luôn khẳng định phải xuất giữa các nhiệm vụ đó. phát từ thực tế “tôn trọng và hành động theo Giản đơn hóa trong tư duy lý luận biểu quy luật khách quan” nhưng trong thực tiễn hiện ở tư tưởng chủ quan, nóng vội, đốt cháy họ lại hành động theo sự “điều khiển” của ý giai đoạn. Người ta đã đem đồng nhất hoàn chí, nguyện vọng chủ quan, rơi vào “chủ toàn lý tưởng xã hội chủ nghĩa với chủ nghĩa quan duy ý chí”. xã hội hiện thực. Đồng thời, không thấy Những quy luật cơ bản trong sự phát triển được chủ nghĩa xã hội là một xã hội “cần của lịch sử xã hội loài người đôi khi đã không phải” và “có thể” (tôi xin nhấn mạnh từ có được nhận thức, hay được nhận thức một thể) được xây dựng trên thực tế. Chính việc cách nửa vời, không được vận dụng đúng lý tưởng hóa “chủ nghĩa xã hội hiện thực” đã đắn, kịp thời và làm đến nơi đến chốn đã dẫn làm cho không ít người, trong đó có cả cán đến sự ngộ nhận, đồng nhất hay không phân bộ, đảng viên khi đứng trước những hạn chế định được giữa đường lối chủ trương với của “chủ nghĩa xã hội hiện thực” và sự tuyên những quy luật khách quan của sự phát triển; truyền chống phá của các thế lực thù địch thì ngộ nhận những cái không phải là quy luật 30 TẠP CHÍ GIÁO DỤC LÝ LUẬN - SỐ 269+270 (QUÝ III+IV/2017)
  4. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI với quy luật. Tư duy lẫn lộn quy luật với cái thì chán nản, bi quan; khi bị phê bình thì làm không phải là quy luật thì nhất định không bừa, làm ẩu. thể là cơ sở khoa học cho việc hoạch định Thậm chí, có lúc người ta còn nâng tính đường lối và chính sách phát triển kinh tế - phiến diện ấy lên thành “một thứ lý luận” xã hội đúng đắn. nhằm biện minh cho những sai lầm, khuyết Xa rời quy luật cũng chính là xa rời cuộc điểm; rằng “cực đoan, phiến diện, một sống, không dám nhìn thẳng vào sự thật để chiều” là một hạn chế tất yếu, không thể tìm cách giải quyết mà thường né tránh quy tránh khỏi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa luật; lấy sai lầm thay thế cho sai lầm trước xã hội. đây,... Bên cạnh đó, những biểu hiện tiêu cực, Thứ năm, tư duy lý luận yếu tính phê phán tham nhũng, lãng phí cũng ngày càng làm và tính chiến đấu trầm trọng thêm những hạn chế; làm suy Bản chất khoa học và cách mạng của tư giảm lòng tin của quần chúng nhân dân. duy lý luận được thể hiện rõ nét ở tính phê Thứ tư, tư duy lý luận mang tính cực đoan, phán và tính chiến đấu. Có thể khẳng định, phiến diện, một chiều chính tính phê phán và tính chiến đấu đã Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội giúp cho tư duy lý luận có thể khắc phục với điểm xuất phát thấp từ một nước nông được và vượt lên khỏi sự khuôn mẫu, giáo nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến. Đội điều, xơ cứng. ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở hầu hết Thực tế, do nhiều nguyên nhân mà tư duy xuất thân từ giai cấp nông dân. Tâm lý của lý luận trong cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở ở người sản xuất tiểu nông đã in đậm suy nghĩ, nước ta thường có tính chất xuôi chiều, “nói tình cảm tư tưởng và tác động ảnh hưởng sao, nghe vậy”. Một số tư tưởng, quan điểm không nhỏ đến tư duy lý luận của cán bộ, đảng có tính phê phán và tính chiến đấu (ở đây viên. Vì vậy không tránh khỏi những hạn chế chỉ đề cập tới những tư tưởng, quan điểm có khi “tả”, khi “hữu” hay bốc đồng mà cũng dễ cơ sở khoa học) nhưng lại rất có thể bị “quy nản chí. Những hạn chế của tâm lý của người chụp” như là một sự suy thoái về tư tưởng sản xuất nhỏ cùng với sự non kém về lý luận chính trị, xét lại. Từ đó, không khỏi tạo ra làm cho tư duy lý luận của họ thường mang thói “lười suy nghĩ”, làm gì cũng lười suy tính cực đoan, phiến diện, một chiều. nghĩ. Từ đó, không ít kẻ xu thời, vụ lợi, lợi Tính cực đoan, phiến diện, một chiều làm dụng để tán dương. cho người ta không có thể và cũng không Hạn chế về tính phê phán và tính chiến muốn xem xét các sự vật, hiện tượng trong đấu có thể làm cho người ta thấy “đúng” mối liên hệ phổ biến và trong sự vận động không thể, không muốn và cũng không dám,... phát triển không ngừng. Tư duy cực đoan, khẳng định, bênh vực, bảo vệ... Đồng thời, thấy phiến diện chỉ thấy một mặt; chỉ căn cứ vào “sai” cũng không thể, không muốn, không một mặt nào đó của hiện thực mà “thổi dám đấu tranh. Chính sự “mất dân chủ trong phồng”, cường điệu hóa” nên dẫn đến tình lý luận” này từng bước, từng bước có thể bóp trạng chuyển từ “cực” này sang “cực” kia; khi chết tư duy lý luận và năng lực sáng tạo. thành công thì say sưa, ảo tưởng; khi thất bại Những hạn chế tư duy lý luận của cán TẠP CHÍ GIÁO DỤC LÝ LUẬN - SỐ 269+270 (QUÝ III+IV/2017) 31
  5. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở nêu trên có thể Hai là, mỗi cán bộ, đảng viên cần thường làm cho nhiều người không hiểu hết bản xuyên rèn luyện tính trung thực khoa học của chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên quyết đấu tranh Mác - Lênin. Có thể người ta đã “rất tin với những biểu hiện chống phá, xuyên tạc,... tưởng” và mong muốn “đi nhanh” đến chủ của các thế lực thù địch nghĩa xã hội, nhưng đó chỉ là niền tin và “Linh hồn” của học thuyết Mác - Lênin khát vọng “cảm tính” chứ không phải là là phương pháp tư duy biện chứng khoa niền tin dựa trên sự hiểu biết khoa học. học. Tính cách mạng và khoa học của học Đồng thời, sự hạn chế về lý luận khoa học thuyết Mác - Lênin luôn đòi hỏi mỗi cán cùng với tính bảo thủ, trì trệ; tâm lý tiêu bộ, đảng viên phải thường xuyên học tập, cực, bất mãn,... đã đẩy nhanh và làm trầm rèn luyện phương pháp tư duy khoa học để trọng hơn sự suy thoái về tư tưởng chính phân tích, khái quát thực tiễn, xây dựng trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự những quan điểm lý luận mới phù hợp với chuyển hóa" trong nội bộ hiện nay. thực tiễn Việt Nam hiện nay. Việc thường Để khắc phục những hạn chế trong tư xuyên tổng kết thực tiễn, rút ra lý luận là duy, lý luận; góp phần đấu tranh ngăn một yêu cầu khách quan để không ngừng chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính bổ sung, phát triển và làm phong phú thêm trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. chuyển hóa" trong nội bộ hiện nay chúng Ba là, cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở cần ta cần quan tâm một số biện pháp cơ bản vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư sau đây: tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách, Một là, các cấp ủy Đảng ở cơ sở cần thực pháp luật của Đảng và nhà nước phù hợp với hiện tốt dân chủ hóa trong hoạt động lý luận thực tiễn địa phương Dân chủ hóa trong hoạt động lý luận có Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu ý nghĩa rất quan trọng đến khắc phục vực có nhiều biến động nhanh chóng, phức những hạn chế trong tư duy lý luận. Bản tạp khó lường, việc nghiên cứu, vận dụng thân sự phát triển của tư duy lý luận luôn sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng đòi hỏi phải có không gian sáng tạo và thực Hồ Chí Minh vào thực tiễn có ý nghĩa đặc hành dân chủ. Mọi lý luận chỉ trở thành biệt quan trọng. Có thể khẳng định, việc khoa học thực sự khi nó phù hợp với hiện kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa thực khách quan và được thực tiễn kiểm Mác - Lênin là nhân tố bảo đảm chắc chắn nghiệm. Vì vậy, tuyệt đối không thể giải nhất để cách mạng giành thắng lợi. Vì vậy, quyết được những vấn đề lý luận và thực nếu cán bộ lãnh đạo quản lý xa rời lý luận tiễn theo cách áp đặt, chủ quan duy ý chí. khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, coi Dân chủ hóa trong hoạt động lý luận sẽ thường hoặc giáo điều, rập khuôn, máy có tác dụng mở rộng không gian cho sự tìm móc thì trong mỗi lĩnh vực và vị trí công tòi, sáng tạo. Tuy nhiên, dân chủ hóa ở đây tác nhất định sẽ khó tránh khỏi những sai phải được chế định bằng những nguyên lầm và phải trả giá. tắc, luật pháp và các chuẩn mực,... trong Đặc biệt, đối với cán bộ lãnh đạo, quản hoạt động lý luận. lý cơ sở cần khắc phục một số hạn chế: 32 TẠP CHÍ GIÁO DỤC LÝ LUẬN - SỐ 269+270 (QUÝ III+IV/2017)
  6. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI “bệnh kinh nghiệm”, “bệnh giáo điều” và điểm của một bộ phận cán bộ, đảng viên “bệnh chủ quan duy ý chí”,... Đây là những có chức, có quyền nhằm khoét sâu mâu hạn chế cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở thuẫn nội bộ, đẩy nhanh sự suy thoái về thường rất hay mắc phải và là kẻ thù của tư chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, “tự duy lý luận khoa học. diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Chính vì vậy, Bốn là, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả tự khắc phục những hạn chế trong tư duy lý phê bình và phê bình trong hoạt động của các luận của cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở rất cấp uỷ Đảng, chính quyền; trong cán bộ, công cần phải kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu chức ở cơ sở tranh làm thất bại những âm mưu, thủ Trong tự phê bình và phê bình phải đoạn thúc đẩy sự suy thoái về chính trị tư khách quan, trung thực, tránh nể nang, né tưởng, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự tránh, ngại va chạm. Đặc biệt, khi đã có chuyển hoá” của các thế lực thù địch. những biểu hiện sai lầm, hạn chế về tư Tư duy lý luận khoa học có thể được coi tưởng, lý luận; “tự diễn biến”, “tự chuyển là nền tảng cho việc hình thành bản lĩnh, hóa” phải đấu tranh kiên quyết; trong đấu năng lực, phẩm chất và nhân cách của tranh cần vận dụng linh hoạt các biện pháp người cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung, giải quyết cho phù hợp. Đồng thời, có biện cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở nói riêng. pháp, cơ chế cụ thể nhằm động viên, Trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH,HĐH và khuyến khích và bảo vệ những người trung hội nhập quốc tế, những yêu cầu của việc thực, thẳng thắn, dám đấu tranh. rèn luyện và phát triển tư duy lý luận ở đội Năm là, kết hợp chặt chẽ việc khắc phục ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là cán những hạn chế trong tư duy lý luận với đấu bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở ngày càng cao. tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về chính Tuy nhiên, những hạn chế trong tư duy lý trị tư tưởng, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự luận của cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở đã chuyển hóa” nội bộ cán bộ, đảng viên ở cơ sở và đang là những cản trở lớn đến việc phát Từ lâu, các thế lực thù địch, chống phá huy vai trò của cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ cách mạng Việt Nam đã ra sức thúc đẩy sự sở. Đồng thời, kìm hãm sự phát triển kinh suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức lối tế - xã hội ở nhiều địa phương hiện nay. sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” nội Sự hình thành và phát triển của tư duy lý bộ ta như là một trong những nội dung luận khoa học phải được gắn với sự phát trọng yếu của chiến lược diễn biến hòa triển của tri thức và kinh nghiệm thực tiễn. bình. Để thực hiện mưu đồ đó, chúng Vì vậy, cùng với việc nắm vững lý luận khoa không ngừng đầu cơ, tích lũy, thổi phồng học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, những sai lầm, khuyết điểm, nhất là những mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở cần sai lầm, khuyết điểm lớn và kéo dài về chủ không ngừng học tập, trau dồi đạo đức cách trương, chính sách; sai lầm có tính chiến mạng, vận dụng sáng tạo lý luận để đề ra lược về chỉ đạo và tổ chức thực hiện,... của những nhiệm vụ và giải pháp phù hợp với Đảng ta, cũng như những sai lầm khuyết tình hình cụ thể của địa phương.‡ TẠP CHÍ GIÁO DỤC LÝ LUẬN - SỐ 269+270 (QUÝ III+IV/2017) 33
nguon tai.lieu . vn