- Trang Chủ
- Xã hội học
- Một số giải pháp tạo việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số tại Thành phố Hồ Chí Minh
Xem mẫu
- TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017
Một số giải pháp tạo việc làm cho thanh niên
dân tộc thiểu số tại Thành phố Hồ Chí Minh
Some employment solutions for ethnic youths in Ho Chi Minh City
TS. Trương Hoàng Trương,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP.HCM
Truong Hoang Truong, Ph.D.,
University of Social Science and Humanity - National University, Ho Chi Minh City
Vũ Ngọc Thành,
Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển
Vu Ngoc Thanh,
Center of Urban Studies and Development
Tóm tắt
Nội dung bài viết là một phần nghiên cứu của đề tài về việc làm của thanh niên dân tộc thiểu số tại
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn đến năm 2020. Trong nghiên cứu này chúng tôi lựa chọn
ra ba nhóm thanh niên người Hoa, người Chăm và người Khmer có độ tuổi từ 16 đến 30 hiện đang sinh
sống và làm việc tại TP. Hồ Chí Minh để khảo sát với 777 phiếu (366 thanh niên người Hoa, 186 thanh
niên Chăm, 225 thanh niên Khmer). Bằng phương pháp nghiên cứu xã hội học với mẫu khảo sát được
thực hiện theo nguyên tắc phi xác suất và thuận tiện, bài viết đưa ra những giải pháp cho việc định
hướng việc giải quyết việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn
tương lai.
Từ khóa: dân tộc thiểu số, thanh niên dân tộc, việc làm.
Abstract
The article is a part of the empirical research on employment of the ethnic youths in Ho Chi Minh City
at present and with a vision to 2020. In this research, three youth groups (16 to 30 years of age) of
Chinese, Cham and Khmer living and working in Ho Chi Minh City were selected for a survey with 777
questionnaires (366 Chinese youths, 186 Cham, 225 Khmer). With the sociological research method
under the principles of non-probability and convenience, solutions to employment issues are proposed
for the ethnic youths in Ho Chi Minh City at present and in the future.
Keywords: ethnic minority, ethnic youths, employment.
Theo số liệu tổng điều tra dân số và chiếm đa số với 6.699.124 người, chiếm tỷ
nhà ở Việt Nam năm 2009, cả nước có 54 lệ 93,5%. Các dân tộc còn lại đều là dân
dân tộc thì tại TP. Hồ Chí Minh hiện có tới tộc thiểu số. Trong đó có 3 dân tộc thiểu số
52 dân tộc cùng sinh sống, dân tộc Kinh chiếm khá đông đó là dân tộc Hoa 414.045
32
- TRƯƠNG HOÀNG TRƯƠNG - VŨ NGỌC THÀNH
người, chiếm 5,78%, dân tộc Khmer này cũng đồng thời phản ảnh chất lượng
24.268 người, chiếm 0,33% và dân tộc lao động của họ.
Chăm 7.819 người, chiếm 0,10% [7]. Có nhiều lý do để giải thích tỷ lệ
Thanh niên dân tộc thiểu số (DTTS), với không học nghề cao ở những thanh niên
những đặc điểm về nhân khẩu, phong tục DTTS đang có việc làm là: một số người
tập quán và tín ngưỡng, mạng lưới xã thanh niên DTTS làm những việc không
hội…, gặp những trở ngại trong cuộc cạnh cần phải được đào tạo qua các trường lớp
tranh của thị trường việc làm và không hay nơi sản xuất, như thanh niên người
phát huy hết năng lực của bản thân với tư Chăm chọn việc làm buôn bán, thanh niên
cách là lớp người trẻ tuổi, năng động, sáng người Hoa làm việc tại các cơ sở gia đình
tạo, tương lai của cộng đồng và xã hội. Căn có truyền thống cha mẹ truyền nghề cho
cứ kết quả nghiên cứu của công trình, con cái, hoặc nữ thanh niên Khmer thì
chúng tôi đưa ra một số đề nghị và giải thường làm công việc giúp việc nhà, không
pháp nhằm hoàn thiện hơn cho vấn đề việc cần đến học nghề.
làm của thanh niên DTTS tại TP.Hồ Chí Những trường hợp trên cùng với tỷ lệ
Minh, giúp cho lực lượng này phát huy không học nghề cao, nói lên tình trạng
phẩm chất của người thanh niên qua lao thanh niên DTTS không có quyết tâm cao
động, việc làm. Các đề nghị và giải pháp đối với việc học nghề, chưa nhận thức rõ
đưa ra được hướng tới nhiều đối tượng, về tính quyết định của việc học nghề đối
trong đó có chính thanh niên DTTS; cộng với việc phát huy nghề nghiệp và tăng chất
đồng DTTS; các cơ sở có sử dụng lao động lượng lao động, chưa thấy được con đường
là thanh niên DTTS; các cơ quan Nhà lâu dài nhưng bền vững mà năng lực
nước, các tổ chức, cá nhân thực hiện công chuyên môn đem đến như năng suất lao
tác dân tộc; chính quyền địa phương. động cao, uy tín trong lao động.
1. Nâng cao ý thức và quyết tâm cho Việc học nghề không phải là tâm điểm
thanh niên dân tộc thiểu số về tầm chú ý của thanh niên DTTS và thậm chí
quan trọng của việc học nghề và giá trị của của gia đình khi thanh niên chuẩn bị vào
việc làm để có được một công việc ổn định đời. TP. Hồ Chí Minh là nơi có nhiều cơ sở
Cần nâng cao ý thức về sự cần thiết dạy nghề, lại có Trung tâm Hướng nghiệp,
phải có một nghề chuyên môn và việc làm Dạy nghề và Giới thiệu việc làm Thanh
ổn định cho thanh niên DTTS. Kết quả Niên TP. Hồ Chí Minh (tên giao dịch là
điều tra cho thấy, chỉ có 25,5% trên tổng số Yes Center) rất năng động và hoạt động có
thanh niên DTTS đang làm việc là đã từng hiệu quả trong việc tư vấn, dạy nghề cho
được học nghề, số không học nghề chiếm thanh niên thành phố với nhiều hình thức
đến 74,5%. Xét trên khía cạnh giới, thì nữ linh động, với nhiều ngày hội hướng
thanh niên DTTS có học nghề ít hơn nam nghiệp, dạy nghề. Thanh niên DTTS có
thanh niên (22,4% - 77,6%), nhất là nữ tiếp cận, đến tìm hiểu nhưng cũng không
thanh niên Khmer có đến 87,9% không học mặn mà lắm với việc học nghề tại đây.
nghề. Đây là những tỷ lệ đáng báo động, có Thời gian học nghề đối với họ là quá dài,
đến ¾ thanh niên đang làm việc không dù có khóa chỉ kéo dài 3 hoặc 6 tháng. Nếu
được trang bị kỹ năng nghề cơ bản, điều học nghề, họ phải đóng học phí lại phải
33
- M T SỐ GIẢI PHÁP TẠO VI C LÀM CHO THANH NIÊN DÂN T C THIỂU SỐ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
mưu sinh. Với hai gánh nặng này, họ chọn định cho thanh niên DTTS đi vào có hiệu
con đường mưu sinh dễ dàng trong tầm tay. quả, cần có sự hỗ trợ các của các vị chức
Từ đó, họ ngại học nghề, hoặc bỏ dở dang sắc có tiếng nói trong mỗi cộng đồng dân
việc học nghề, đồng thời lại nôn nóng có tộc qua việc giải thích cho thanh niên trong
được thu nhập ngay với những công việc ít dân tộc mình hiểu rõ tầm quan trọng của
đòi hỏi có kỹ năng nghề. việc học nghề, trau dồi kỹ năng nghề, trau
Tâm lý không xem trọng việc học dồi kiến thức vì tương lai và sự nghiệp sau
nghề không phải chỉ riêng thanh niên này. Khuyến khích và cổ vũ thanh niên dân
DTTS mới có, mà đấy là khuynh hướng tộc mình tham gia vào các buổi giao lưu
chung của xã hội hiện nay. Việc trọng bằng văn hóa, hướng nghiệp tương lai… để họ
cấp, việc đào tạo mất cân đối nguồn nhân có thể cởi mở hơn và hòa nhập với nếp
lực với số sinh viên tốt nghiệp đại học sống đô thị trong thời kỳ đổi mới. Các
ngày một nhiều, trong khi công nhân có tay chức sắc trong mỗi dân tộc có vai trò quan
nghề, đáp ứng được yêu cầu của công việc trọng là cầu nối giữa Nhà nước, chính
thì luôn ít, thiếu. Thêm nữa, khuynh hướng quyền và thanh niên trong cộng đồng dân
tuyển dụng nhân sự có trình độ cao hơn tộc của họi.
nhu cầu công việc, đặc biệt trong khối các Ngoài ra, thành phố cần có chính sách
cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước đang diễn hỗ trợ, giúp đỡ thanh niên DTTS về kinh
ra khá phổ biến. Trong một bối cảnh như phí học nghề. Mặc dù ở thành phố có nhiều
thế, việc học nghề bị lu mờ và nằm ngoài trung tâm dạy nghề, trường dạy nghề,
đích đến của nhiều thanh niên. nhưng chưa thu hút được thanh niên DTTS.
Vì vậy, cần nâng cao ý thức, tinh thần Thành phố cũng chưa có chính sách riêng
của thanh niên DTTS trong việc tìm kiếm về dạy nghề cho người DTTS [3, tr.30]. Kết
cơ hội học nghề, quyết tâm học lấy một quả điều tra cho thấy, trên thực tế chỉ có ¼
nghề và nâng cao trình độ tay nghề để có số thanh niên DTTS có học nghề. Khó khăn
thể cạnh tranh trên thị trường lao động lớn nhất trong việc học nghề là kinh phí
ngày một mở rộng và quyết liệt. (bao gồm học phí và những chi phí phụ),
Mọi cố gắng giúp đỡ của chính quyền, chiếm tỷ lệ 31,8% ý kiến, cao hơn hẳn các
của người chung quanh đều không thể có ý kiến khác như thiếu định hướng nghề
hiệu quả nếu bản thân người thanh niên nghiệp (24,8%), xa nơi cư trú (16,7%),...
DTTS không cố gắng trong việc học nghề, Ngoài kinh phí cho việc học nghề, thì người
tìm việc làm, làm việc. Việc nâng cao ý đi học cũng phải chi tiêu cho cuộc sống như
thức về sự cần thiết phải có một nghề ăn, mặc, ở… trong thời gian học. Chính vì
chuyên môn và việc làm ổn định là việc thế việc giúp đỡ cho người thanh niên
làm đòi hỏi sự quyết tâm, kiên trì không DTTS trong kinh phí học nghề sẽ tạo điều
chỉ của chính quyền, đoàn thể các cấp, nhất kiện cho họ dễ dàng trong việc tìm lấy một
là đoàn thể thanh niên, phụ nữ mà còn là sự nghề để mưu sinh. Ngoài việc tiếp tục thực
quyết tâm của chính bản thân người thanh hiện chính sách miễn học phí cho các dân
niên DTTS. tộc Chăm, Khmer từ cấp mầm non đến cấp
Để việc nâng cao ý thức về sự cần trung học phổ thông từ năm học 2013 -
thiết phải có một nghề, một việc làm ổn 2014 đến năm học 2019 - 2020 và chính
34
- TRƯƠNG HOÀNG TRƯƠNG - VŨ NGỌC THÀNH
sách Hỗ trợ chi phí học tập cho sinh viên là phù hợp với qui định của tôn giáo mà lại
người DTTS thuộc hộ nghèo, cận nghèo khó tìm được ở các quán ăn trên đường.
giai đoạn 2014 - 2020 [8, tr.16], thì cũng Để việc hướng nghiệp này đi vào hoạt
nên quan tâm đến việc học nghề cho thanh động có hiệu quả, cần phải thực hiện việc
niên DTTS. hướng nghiệp cho thanh niên DTTS ngay ở
2. Quan tâm đến việc hướng nghiệp, bậc học phổ thông, bằng cách tổ chức
chọn đúng nghề cần học, căn cứ vào thường xuyên các hoạt động “sinh hoạt
nhu cầu việc làm của địa phương, của hướng nghiệp”, trực tiếp tìm hiểu thế giới
cộng đồng, đồng thời phù hợp với nghề nghiệp, thị trường lao động, những
khả năng, điều kiện của bản thân lợi ích khi có nghề phù hợp, những thiệt
Đa số thanh niên DTTS đang cần sự thòi khi không có nghề nhất định. Các hoạt
giúp đỡ trong nghề nghiệp, việc làm thuộc động giáo dục khác như tham quan sản
diện nghèo, học vấn thấp, vì thế, bị hạn chế xuất, tìm hiểu nghề và các lĩnh vực kinh tế
hiểu biết về nhu cầu lao động của thành qua các phương tiện thông tin đại chúng,
phố, nhất là xu hướng sắp đến của các vấn qua tủ sách hướng nghiệp, sự hướng dẫn
đề này khi các hiệp định về kinh tế quốc tế của những người có trách nhiệm trong
mà Việt Nam tham gia có hiệu lực. Do đó, cộng đồng và các tổ chức xã hội.
họ rất cần sự giúp đỡ trong định hướng Thông qua hướng nghiệp, các thanh
nghề nghiệp để sau một thời gian học nghề, niên được làm quen với những nghề cơ bản
dài hay ngắn, có thể có được việc làm phù trong xã hội, những nghề phù hợp để phát
hợp với khả năng, có thu nhập khá và ổn triển ở ngay cộng đồng mình. Công việc
định. Cuộc điều tra định lượng của đề tài này được thể hiện trong suốt những năm
cho biết, trong các thanh niên có đi học còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhiệm vụ đó
nghề có 24,2% có ý kiến là gặp khó khăn giúp các thanh niên có điều kiện tìm hiểu
vì thiếu định hướng nghề nghiệp. Tức là, nghề trong xã hội. Từ sự làm quen này, sẽ
đã đi học nghề rồi, nhưng vẫn nhận định là giúp cho các thanh niên DTTS trả lời câu
thiếu định hướng nghề nghiệp nên gặp khó hỏi: Trong giai đoạn hiện nay, những nghề
khăn trong việc học. Khó khăn này chỉ nào đang cần phát triển nhất, thái độ đối
đứng sau khó khăn vì học phí thấp. với nghề như thế nào là đúng v.v... Đồng
Định hướng nghề cho thanh niên thời, các thanh niên còn phải biết những
DTTS để họ tự xác lập nghề nghiệp và đi yêu cầu tâm sinh lý mà nghề đặt ra, những
tới quyết định việc chọn lựa một cách có ý điều kiện vào học nghề v.v… Tóm lại,
thức nghề chuyên môn phù hợp với khả nhiệm vụ chính là hình thành ở thanh niên
năng của bản thân, yêu cầu của xã hội và một quá trình xác định đúng đắn về những
với sinh hoạt của cộng đồng với những đặc nghề cần phát triển đối với bản thân. Trong
điểm về văn hóa, tôn giáo. quá trình tìm hiểu nghề, ở học sinh sẽ xuất
Ví dụ như người Chăm Hồi giáo thì hiện và phát triển hứng thú nghề nghiệp.
thích những nghề tự do như nghề lái xe vì 3. Chủ động cung cấp thông tin
ngoài thu nhập khá, họ còn không bị gò bó tuyển dụng cho thanh niên dân tộc
trong giờ giấc (phù hợp đặc điểm dân tộc), thiểu số và kiên trì theo dõi
có thể dùng bữa mang theo những món ăn Thanh niên DTTS gặp khó khăn trong
35
- M T SỐ GIẢI PHÁP TẠO VI C LÀM CHO THANH NIÊN DÂN T C THIỂU SỐ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
việc tiếp cận với doanh nghiệp. Họ thiếu “Ngày hội hướng nghiệp việc làm” với quy
người giới thiệu cho các nơi thu nhận công mô lớn nhằm giúp thanh niên chưa có việc
nhân, thu nhận người lao động là thanh làm hoặc việc làm không ổn định có cơ hội
niên DTTS. Để giải quyết vấn đề này, cần giao lưu trực tiếp với các đơn vị tuyển
tăng cường hoạt động của các Trung tâm dụng, nộp hồ sơ, phỏng vấn xin việc...
giới thiệu việc làm vì cơ quan này dễ tiếp [5, tr.37].
cận với các doanh nghiệp hơn cá nhân 4. Nâng cao chất lượng nguồn lao động
người thanh niên DTTSii. thanh niên DTTS
Các Trung tâm dạy nghề, Thành Đoàn, Chất lượng lao động của thanh niên
Đoàn Thanh niên, Trung tâm giới thiệu DTTS mới chỉ dừng lại ở mức độ giản đơn,
việc làm và hướng nghiệp cần chủ động phần đông chưa qua đào tạo tay nghề. Do
hơn nữa trong việc cung cấp thông tin trực vậy, cần nâng cao năng lực lao động của
tiếp đến cho lao động là thanh niên DTTS, lực lượng này, để họ có tay nghề vững
bởi vì bản thân thanh niên DTTS có phần vàng, có chuyên môn - kỹ năng sâu nhằm
thụ động, nhất là những thanh niên nhập hội nhập vào thị trường lao động trong bối
cư, thanh niên người Chăm, nữ thanh niên cảnh hội nhập sâu rộng của một đô thị năng
người Khmer, thường thiếu thông tin về động, phân hóa sâu sắc như TP. Hồ Chí
việc làm, định hướng việc làm. Vì thế, Minh. Đào tạo, tái đào tạo tay nghề cho
ngoài việc chủ động tiếp cận, cần có tinh thanh niên DTTS không phải là vấn đề mới
thần kiên trì, theo dõi giải quyết mọi việc nhưng vẫn luôn là vấn đề cấp bách hiện
tới cùng, phòng ngừa tình trạng bỏ cuộc nay. Việc nâng cấp năng lực cần được tổ
nửa chừng vì nhiều lý do như ngại làm thủ chức thường xuyên và định kỳ với các
tục hành chính, thiếu những giấy tờ tùy khảo sát thống kê tình hình năng lực lao
thân, nhiễu thông tin… động của thanh niên DTTS, từ đó xây dựng
Các trung tâm Dịch vụ Việc làm, trung cơ sở dữ liệu để có những phương hướng
tâm Giới thiệu Việc làm ở các quận/ huyện cụ thể tương thích.
nên cử cán bộ đến các xã/phường, tham dự 5. Củng cố tính bền vững của các
các buổi sinh hoạt, cuộc họp của các đoàn việc làm phi chính thức, tăng cường
thể như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ… quản lý khu vực kinh tế phi chính thức ở
để thông báo tin tức tuyển dụng của các đô thị
doanh nghiệp tuyển dụng tại các khu công Một khi khu vực kinh tế phi chính thức
nghiệp, các cơ sở sản xuất đóng trên địa được giám sát và quản lý và nâng đỡ, thì
bàn quận/huyện (trước đó đã gửi đến người lao động trong đó có thanh niên
phòng Lao động hoặc Trung tâm dạy nghề DTTS sẽ được hưởng lợi trực tiếp hoặc
của quận/huyện) để tư vấn hướng nghiệp gián tiếp từ các việc kiểm soát hoạt động
về những ngành nghề nào phù hợp với đăng ký kinh doanh, minh bạch hóa các
thanh niên. Các tổ chức, đoàn thể làm cầu chế độ lương bổng và bảo hiểm lao động,
nối cho chính quyền đến với thanh niên có nâng cao tay nghề trong lao động giản đơn
nhu cầu tìm việc làm. Thông qua các tổ ở các cơ sở dịch vụ đô thị.
chức này thông tin về việc làm đến được Việc giám sát khu vực kinh tế phi
với thanh niên. Thường xuyên tổ chức chính thức nhằm thúc đẩy tính bền vững
36
- TRƯƠNG HOÀNG TRƯƠNG - VŨ NGỌC THÀNH
cho việc làm của lực lượng lao động là một rất lớn trong công việc không chỉ cho bản
điều không thể thực hiện ngày một ngày thân mỗi thanh niên dân tộc mà còn gây
hai và cũng không phải chỉ bởi một số cơ khó khăn cho cả những người sử dụng lao
quan Nhà nước, nhưng hiện nay đang gặp động là các cơ quan, doanh nghiệp, cơ sở
thuận lợi vì Việt Nam đã hợp tác với tổ sản xuất... Người Khmer mỗi năm thường
chức ILO tiến hành chương trình hợp tác có 4 lễ hội truyền thống như lễ hội Chol
quốc gia ILO - Việt Nam về việc làm bền Chnam Thmây, lễ hội Ok Om Bok, Dolta,
vững năm 2006 - 2010 và hiện nay đang lễ hội đua bò Bảy Núi An Giang... thu hút
thực hiện Chương trình tiếp theo, giai đoạn đông đảo người Khmer xa quê trở về cùng
2012 - 2016. Ban chỉ đạo của Chương trình tham gia vào đời sống văn hóa cộng đồng.
này, gọi là Ban chỉ đạo Quốc gia về Việc Những lễ hội này rất thiêng liêng đối với
làm Bền vững đã được thành lập vào tháng người Khmer, thường kéo dài nhiều ngày.
5/2012, do Bộ trưởng Bộ Lao động - Nhiều thanh niên dân tộc Khmer ở thành
Thương binh - Xã hội (LĐTBXH) làm chủ phố cũng kéo nhau về quê tham gia vào
tịch. Chương trình có mục tiêu thúc đẩy sinh hoạt cộng đồng ảnh hưởng đến việc
công tác bảo trợ xã hội, giải quyết nhu cầu sản xuất ở những nơi có sử dụng lao động
việc làm bền vững cho nhóm lao động thiệt nói trên.
thòi và dễ bị tổn thương và có nhiều dự án Đối với người Chăm, giáo lý trong
để thực hiện mục tiêu của Chương trình kinh Qur’an của người Chăm Islam bắt
như Dự án hỗ trợ phát triển việc làm cho buộc mỗi ngày họ phải hành lễ 5 lần, trong
lao động trẻ nông thôn ở 4 quốc gia (trong năm sẽ có tháng Ramadan để các tín đồ
đó có Việt Nam), Dự án Tăng cường nhịn chay. Việc nhịn chay mỗi năm một
Quyền và Cơ hội cho Người Khuyết tật - tháng là bắt buộc và nó mang đến cho
Bình đẳng thông qua pháp chế thực hiện người Chăm rất nhiều lợi ích, xét về mặt
trong năm 2012 - 2013. Các nhóm DTTS tín ngưỡng, nhịn chay giúp cho mọi người
và người nghèo thuộc vào đối tượng cần đồng cảm với những người có cuộc sống
được hỗ trợ của Chương trình này. Vì thế, khó khăn, kém may mắn, không có cái ăn
đây là một cơ hội có thể gắn kết vấn đề cái mặc, xét về mặt y học nhịn chay giúp
việc làm bền vững của người DTTS nghèo con người thanh lọc cơ thể, tránh được
vào Chương trình quốc gia này [9]. bệnh tật. Đây cũng là một lý do khiến
6. Những chủ trương, chính sách người Chăm ở thành phố thường chọn các
trong công tác dân tộc, đặc biệt là về công việc có tính chất linh hoạt về mặt thời
phát triển việc làm cho thanh niên gian. Nhưng, các nơi sử dụng lao động đều
dân tộc thiểu số cần chú ý đến sự có kỷ luật lao động, đều có những quy định
chi phối của yếu tố văn hóa, phong tục cụ thể về giờ giấc làm việc mà nhân viên
tập quán của từng cộng đồng dân tộc của họ phải tuân thủ, không thể người lao
thiểu số đối với việc làm. động nghỉ làm đến 1 tháng trong năm. Việc
Thực tế cho thấy, những yếu tố văn này gây khó khăn cho thanh niên người
hóa, phong tục tập quán của cộng đồng Chăm, buộc họ phải lựa chọn giữa việc làm
DTTS mà chủ yếu là của người Khmer và và tín ngưỡng. Và kết quả là hoặc họ
người Chăm đang gây ra những khó khăn không gắn bó với công việc hoặc nơi sử
37
- M T SỐ GIẢI PHÁP TẠO VI C LÀM CHO THANH NIÊN DÂN T C THIỂU SỐ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
dụng lao động cho họ nghỉ việciii. Vì thế, phương Tây rất ưa chuộng vì tính thẩm mỹ
những chủ trương, chính sách về công tác và độ lạ của sản phẩmiv.
dân tộc cần chú ý đến yếu tố văn hóa, Chợ Bến Thành là nơi đến của nhiều
phong tục tập quán của từng cộng đồng, có người Hồi giáo du lịch. Những du khách
biện pháp khắc phục được những hạn chế này tạm trú rất đông xung quanh khu vực
nêu trên. Thực tế, có những cơ sở sản xuất này và đã có một số người Chăm đến để
đã khá linh hoạt về thời gian lao động đối giao dịch buôn bán. Họ cần có cửa hàng
với những công nhân Chăm Islam. Vào hoặc kiot nhỏ lẻ ở đó để buôn bán, nhưng
tháng Ramadan, họ chấp thuận cho thanh giá thuê rất cao, họ đặt vấn đề vay mượn
niên Chăm lấy ngày phép năm để nghỉ (10- vốn, nhưng vay nhiều thì không thể. Vì
12 ngày), những ngày còn lại thì được nghỉ vậy, cần có đề xuất hỗ trợ cho người Chăm
không ăn lương. Sự thỏa thuận này làm cho khuếch trương lợi thế này ở nơi đây, qua
công nhân gắn bó với việc làm và với cơ sở đó tạo được việc làm không những cho
sử dụng lao động. thanh niên Chăm mà còn làm phát triển
7. Phát huy lợi thế của đặc thù nghề dệt Chăm.
văn hóa để tạo việc làm cho thanh niên Tục chỉ ăn các loại thịt ăn được phải
dân tộc thiểu số do chính người Hồi giáo chế biến cũng là
Những đặc thù trong văn hóa của một điểm đáng lưu ý và là điều kiện giúp
người DTTS mang đến cho thanh niên cho người Chăm ở thành phố có thể tìm
DTTS một số bất lợi trong việc làm, nhưng kiếm việc làm. Hiện nay, ở TP. Hồ Chí
nếu biết khai thác, thì những đặc thù này sẽ Minh có nhiều công ty xuất khẩu gạo, nước
là những lợi thế. Người Hoa có thế mạnh uống, mì, cà phê cho các nước Hồi giáo
về sản xuất thủ công nghiệp và thương Trung Đông, nếu tiếp nhận thanh niên
mại, dịch vụ với loại hình kinh doanh chủ người Chăm (đa số theo Hồi giáo) vào làm,
yếu là hộ gia đình. Do đó, thành phố cần có sẽ đáp ứng phần nào yêu cầu về ẩm thực
cơ chế và giải pháp nhằm hỗ trợ, khuyến của người Hồi giáo qua việc xác nhận sản
khích tạo điều kiện cho việc thành lập và phẩm làm ra là do chính người Islam
phát triển cả về số lượng, quy mô, hình sản xuất.
thức của các doanh nghiệp hộ gia đình Bên cạnh đó, các nhà hàng ăn uống
thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi về dành cho du khách người Hồi giáo ở
mặt thủ tục thành lập và các thủ tục hành TP. Hồ Chí Minh có thể sử dụng lao động
chính khác, qua đó góp phần tạo việc làm là thanh niên người Chăm Islam để chế
cho thanh niên dân tộc ngay trong chính hộ biến thức ăn, phục vụ thực khách, đáp
gia đình, trong cộng đồng đang sinh sống. ứng mọi yêu cầu trong ăn uống của người
Tương tự như vậy, người Chăm cũng có Hồi giáo theo đúng những qui định của
thế mạnh trong buôn bán nhỏ lẻ, đặc biệt tôn giáov.
có sản phẩm dệt thổ cẩm Chăm nổi tiếng Các cơ quan thực hiện công tác dân
mà nhiều người Hồi giáo Đông Nam Á ưa tộc, các cơ sở giới thiệu việc làm, các đề án
thích sử dụng. Nổi bật nhất trong sản phẩm hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm
dệt Chăm là loại lụa được dệt bằng kỹ thuật có thể tham khảo đề xuất này, bổ sung vào
Ikat công phu và nghệ thuật mà hiện nay chương trình hành động của mình, nhằm
38
- TRƯƠNG HOÀNG TRƯƠNG - VŨ NGỌC THÀNH
tạo nhiều hơn nữa cơ hội việc làm cho các sử dụng internet để thông báo nhu cầu tìm
thanh niên DTTS. nhân lực và chính bản thân người lao động
8. Huy động sự tham gia của cũng tìm việc làm qua mạng. Kết quả điều
cộng đồng dân tộc thiểu số theo hình thức tra cho biết, có 36/198 ý kiến cho biết là
xã hội hóa về giáo dục, đào tạo nghề - tìm được việc làm qua mạng internet.
hướng nghiệp cho thanh niên dân tộc Những động thái ấy chỉ mới là bước đầu
thiểu số đơn giản trong hệ thống kết nối mà chúng
Theo đó, Nhà nước và cộng đồng tôi muốn đề cập. Hệ thống kết nối thông
DTTS (theo cơ chế Nhà nước và nhân dân minh giữa các tác nhân liên quan sẽ tích
cùng làm) cùng phối hợp nghiên cứu, xây hợp các thông tin chi tiết và cụ thể hơn,
dựng cơ sở dạy nghề (Trường dạy nghề, hướng đến phát triển trong tương lai, đều
trung tâm dạy nghề) một cách chuyên được kết nối qua mạng vô tuyến và hữu
nghiệp, chính quy và có quy mô và chất tuyến vào mạng Internet, từ đó phát triển
lượng cao có sức thu hút thanh niên DTTS “mạng lưới kết nối mọi thứ”. Việc thiết lập
theo học. Đặc biệt đào tạo tay nghề đáp hệ thống kết nối thông minh này không đòi
ứng nhu cầu của xã hội, chú trọng về kỹ hỏi kinh phí, mà chỉ cần một cơ quan nào
năng nghề, tác phong và kỷ luật lao động. đó có sử dụng trang mạng thì có thể tích
Mở rộng dạy học song ngữ. Mở lớp dạy hợp vào để vận hành.
nghề cho người dân tộc thiểu số. Đào tạo 10. Đẩy mạnh chương trình xuất khẩu
những ngành nghề phù hợp với thế mạnh lao động, mở rộng thị trường xuất khẩu
từng cộng đồng DTTS, phù hợp với truyền lao động, trong đó cần chú trọng đến các
thống, tập quán của họ để họ phát huy hơn thị trường có hiệu quả kinh tế cao và có
năng lực của bản thân. yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực
9. Tạo lập một hệ thống kết nối phù hợp với điều kiện thực tế của
thông minh giữa các tác nhân liên quan: lao động thanh niên dân tộc thiểu số.
Nơi sử dụng lao động + trung tâm Thành phố cần thực hiện các chương
hướng nghiệp + cơ sở dạy nghề + cơ sở trình nghiên cứu và xác định những ngành
giới thiệu việc làm + thanh niên và nghề và quốc gia xuất khẩu lao động phù
cộng đồng dân tộc thiểu số + cơ quan hợp với thanh niên DTTS trên địa bàn, đặc
công tác dân tộc biệt là lao động ở Malaysia, Indonesia và
Cần phải có sự phối hợp giữa nhiều cơ các nước ở khu vực Trung Đông (Các Tiểu
quan liên quan đến việc làm như các cơ sở Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Ả-rập Xê-
sản xuất, cơ quan ban ngành, các cơ sở đào út) nơi có nhiều người Hồi giáo sinh sống
tạo nghề, giới thiệu việc làm, các trung tâm rất dễ tiếp cận đối với thanh niên người
hướng nghiệp, các trường trung học nghề, Chăm… hoặc các nước như Đài Loan,
cao đẳng, đại học trong thành phố để cung Singapore, Malaysia cũng là những thị
và cầu lao động hiểu rõ nhau, để đào tạo trường lao động truyền thống đối với thanh
nghề phù hợp với xu hướng tuyển dụng, niên người Hoa do cùng chung ngôn ngữ
người học nghề, người dự tuyển nắm được và những yếu tố về văn hóa, phong tục tập
các yêu cầu cụ thể. Hiện nay các cơ sở dạy quán có nhiều điểm tương đồng.
nghề, cơ quan cần tuyển dụng nhân lực đều Để việc thực hiện chương trình xuất
39
- M T SỐ GIẢI PHÁP TẠO VI C LÀM CHO THANH NIÊN DÂN T C THIỂU SỐ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
khẩu lao động thanh niên DTTS trở nên có Chú thích
hiệu quả, thành phố cần thực hiện một cách i
Ý kiến của Haji Y Sa Umơ trong hội thảo
đồng bộ các giải pháp sau đây nhằm góp “Việc làm của thanh niên người dân tộc thiểu
phần giải quyết việc làm cho thanh niên số tại TP. Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn
DTTS: đến năm 2020 - trường hợp người Hoa, người
- Khuyến khích các doanh nghiệp và Chăm và người Khmer”, Trung tâm Nghiên
các tổ chức kinh tế tham gia xuất khẩu lao cứu Đô thị và Phát triển tổ chức tại TP. Hồ
động, tích cực tìm kiếm thị trường lao động Chí Minh, tháng 11/2015.
ii
mới phù hợp với lao động thanh DTTS để Ý kiến của Arafat trong hội thảo “Việc làm
của thanh niên người DTTS số tại TP. Hồ Chí
giảm áp lực việc làm trong nước đồng thời
Minh hiện nay và tầm nhìn đến năm 2020 -
tạo điều kiện cho thanh niên DTTS có cơ trường hợp người Hoa, người Chăm và người
hội tham gia vào thị trường xuất khẩu Khmer”, Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và
lao động. Phát triển tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh, tháng
- Hỗ trợ kinh phí cho thanh niên DTTS 11/2015.
iii
trong việc xuất khẩu lao động, chủ yếu là Ý kiến của Haji Y Sa Umơ trong hội thảo
tiền đặt cọc, thế chân, tiền chi phí đào tạo “Việc làm của thanh niên người dân tộc thiểu
số tại TP. Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn
học ngoại ngữ, pháp luật... để được ra nước
đến năm 2020 - trường hợp người Hoa, người
ngoài lao động. Đây vốn là những khó Chăm và người Khmer”, Trung tâm Nghiên
khăn chung của đa số lao động Việt Nam cứu Đô thị và Phát triển tổ chức tại TP. Hồ
khi tham gia vào thị trường xuất khẩu lao Chí Minh, tháng 11/2015.
động, những khó khăn này còn cao hơn iv
Ikat là phương pháp tạo hoa văn trên lụa bằng
nhiều đối với thanh niên DTTS vì họ là kỹ thuật “chống nhuộm”. Hoa văn của sản
những người yếu thế hơn về mọi mặt. phẩm này không phải được hình thành thông
- Đảm bảo nguồn lao động cung ứng thường từ cách dệt các sợi chỉ có nhiều màu
theo những mô hình khác nhau, mà được hình
cho thị trường xuất khẩu lao động cả về
thành từ khoảng trống không nhuộm màu của
chất lượng cũng như số lượng. Để làm từng sợi chỉ.
được điều này, các doanh nghiệp, tổ chức v
Ý kiến của Phú Văn Hẳn trong hội thảo “Việc
xuất khẩu lao động cần liên kết với Sở Lao làm của thanh niên người dân tộc thiểu số tại
động - Thương binh và Xã hội, các trung TP. Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn đến
tâm dịch vụ việc làm thực hiện tốt công tác năm 2020 - trường hợp người Hoa, người
đào tạo nghề, ngoại ngữ, tin học, kiến thức Chăm và người Khmer”, Trung tâm Nghiên
cứu Đô thị và Phát triển tổ chức tại TP. Hồ
pháp luật nhằm nâng cao chất lượng nguồn
Chí Minh, tháng 11/2015.
lao động đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển
dụng. Đối với những lao động thanh niên TÀI LIỆU THAM KHẢO
DTTS đa số chưa có trình độ tay nghề -
1. Thái Văn Chải, Trần Thanh Pôn (đồng chủ
học vấn thấp, vẫn có thể tham gia vào thị
nhiệm) (1998), Người Khmer tại TP. Hồ Chí
trường xuất khẩu lao động bằng những Minh và mối quan hệ với bên ngoài, đề tài của
công việc giản đơn như lao động phổ Sở Khoa học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh.
thông, giúp việc nhà, trông trẻ... giúp họ có 2. Phan Văn Dốp, Vương Hoàng Trù (2011),
việc làm và có một số vốn nhất định để làm Người Chăm ở Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh,
ăn sau khi về nước. Nxb Văn hóa - Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
40
- TRƯƠNG HOÀNG TRƯƠNG - VŨ NGỌC THÀNH
3. Lê Thanh Hải (chủ nhiệm) (2014), Đào tạo Trung ương (2010), Tổng điều tra dân số và
nghề cho người dân tộc thiểu số trên địa bàn nhà ở Việt Nam năm 2009: kết quả toàn bộ,
TP. Hồ Chí Minh, đề tài của Viện Nghiên cứu Nxb Thống kê, Hà Nội.
Phát triển TP. Hồ Chí Minh. 8. Ban dân tộc TP. Hồ Chí Minh (2015), “Thực
4. Trần Hồi Sinh (chủ nhiệm) (2008), Quan hệ trạng việc làm của thanh niên người dân tộc
kinh tế giữa người Hoa ở TP. Hồ Chí Minh thiểu số tại TP. Hồ Chí Minh” trong Kỷ yếu
với người Hoa ở Đông Nam Á, đề tài của Sở hội thảo Việc làm của thanh niên người DTTS
Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh. tại TP. Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn đến
5. Vũ Ngọc Thành (2014), “Vấn đề hướng năm 2020 - trường hợp người Hoa, người
nghiệp dạy nghề cho thanh niên vùng đô thị Chăm và người Khmer, Trung tâm Nghiên
hóa TP. Hồ Chí Minh nhìn từ phía chính cứu Đô thị và Phát triển tổ chức, TP. Hồ Chí
quyền huyện Nhà Bè” trong Kỷ yếu hội thảo Minh ngày 27/11/2015.
Biến động việc làm ở TP. Hồ Chí Minh - thực 9. ILO (2012), “Chương trình hợp tác Quốc gia
trạng và những vấn đề đặt ra, Viện Nghiên ILO – Việt Nam về việc làm bền vững giai
cứu Phát triển TP. Hồ Chí Minh tổ chức ngày đoạn 2012-2016”, truy cập từ
20/8/2014. http://www.ilo.org/hanoi/Whatwedo/Instructio
6. Trương Hoàng Trương (chủ nhiệm) (2016), nmaterials/WCMS_434273/lang--
Việc làm của thanh niên dân tộc thiểu số tại vi/index.htm.
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn 10. Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển
đến năm 2020 (trường hợp người Hoa, người (2015), Kỷ yếu hội thảo Việc làm của thanh
Chăm và người Khmer), đề tài do Trung tâm niên người dân tộc thiểu số tại TP. Hồ Chí
Nghiên cứu Đô thị và Phát triển chủ trì, dưới Minh hiện nay và tầm nhìn đến năm 2020 -
sự quản lý của Sở Khoa học và Công nghệ trường hợp người Hoa, người Chăm và
TP. Hồ Chí Minh. người Khmer, TP. Hồ Chí Minh, ngày
7. Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở 27/11/2015.
Ngày nhận bài: 07/4/2017 Biên tập xong: 15/8/2017 Duyệt đăng: 20/8/2017
41
nguon tai.lieu . vn