- Trang Chủ
- Giáo dục học
- Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Xem mẫu
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ | 11/2019
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
PHẠM THỊ KIM LIÊN
Trường Đại học Hùng Vương
Email: kimlien.hvu@gmail.com
Tóm tắt: Nâng cao chất lượng đào tạo luôn là vấn đề bức thiết, đòi hỏi một trách
nhiệm nặng nề và sự vào cuộc của cả xã hội. Bài viết này tập trung phân tích và đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo giáo dục Đại học trong quá
trình đào tạo theo học chế tín chỉ nhằm thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 đang diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng, góp phần tạo nên những thế hệ con người
mới có đủ phẩm chất, trí tuệ, năng động, sáng tạo để xây dựng đất nước trong giai
đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Từ khóa: Chất lượng đào tạo, cách mạng công nghiệp 4.0, giáo dục đại học.
1. MỞ ĐẦU
Chất lượng đào tạo là một nội dung cơ bản, thể hiện uy tín và quyết định sự tồn tại, phát
triển của một nền giáo dục và của các cơ sở đào tạo. Nhằm phát triển hơn nữa chất lượng của
nền giáo dục Việt Nam, phục vụ tốt cho quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế, ngày 2/11/2015, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 14/2005/NQ về Đổi mới cơ bản và
toàn diện giáo dục Đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020. Thực hiện Nghị quyết của Chính
phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành “Quy chế đào tạo Đại học và Cao đẳng hệ chính quy
theo hệ thống tín chỉ” kèm theo Quyết định số 43/2007-QĐ-BGD ĐT ngày 15/8/2007 của Bộ
trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo.
Từ năm học 2008-2009 đào tạo theo hệ thống tín chỉ được triển khai thực hiện trên tất cả
các trường Đại học và Cao đẳng trên toàn quốc. Việc thực hiện đào tạo theo hệ thống tín chỉ
đối với giáo dục Đại học Việt Nam hiện nay là một yêu cầu tất yếu. Tuy nhiên, quá trình chuyển
từ đào tạo Đại học theo niên chế chuyển sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ đòi hỏi sự nỗ lực
đổi mới không ngừng của bản thân các trường Đại học, Cao đẳng và đội ngũ giảng viên, sinh
viên, nhất là vấn đề đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo.
Hơn nữa, với sự diễn ra mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trên tất cả các lĩnh
vực ở phạm vi toàn thế giới, Chính phủ các nước , trong đó có Việt Nam đang hết sức quan tâm
và đã chủ động ban hành các chiến lược phát triển 4.0 cho riêng mình. Tiêu biểu trong số đó là
Đức với chiến lược Industry 4.0, Mỹ với Liên minh Internet công nghiệp, Hàn Quốc với iKorea
4.0 và Trung Quốc với Made in China 2025... Cuộc cách mạng này sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến
nền kinh tế, xã hội toàn cầu, trong đó có những vấn đề cấp bách đặt ra cho nền giáo dục. Nếu
coi giáo dục (đặc biệt là giáo dục đại học) là bước chuẩn bị hành trang cần thiết cho người học
tự tin bước vào cuộc sống, thì nhà trường cần trang bị một cách đầy đủ những kiến thức và kỹ
năng cần thiết cho họ, không chỉ cho hiện tại mà còn cả tương lai. Việc tiếp nhận, thay đổi để
đáp ứng và theo kịp tác động của cuộc cách mạng 4.0 đang đặt ra cho ngành giáo dục nói chung,
và giáo dục đại học nói riêng những vấn đề mang tính tất yếu và cấp thiết.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp thu thập, tổng hợp, xử lý thông tin
Bài báo sử dụng kết quả của việc thu thập tài liệu từ các tài liệu được ban hành của Bộ
giáo dục và Đào tạo, các số liệu thống kê kết quả giảng dạy đại học theo học chế tín chỉ từ các
183
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HTKH 2019
chuyên gia đầu ngành, các nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu giáo dục; từ
chính thực tiễn giáo dục đại học theo học chế tín chỉ được thực hiện ở một số trường Đại học
và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Trên cơ sở đó, tác giả đã tiến hành tổng hợp, xử lý những
thông tin thô ban đầu, phân tích những thông tin quan trọng để cho ra những kết luận cần thiết
cho quá trình nghiên cứu của mình.
Việc sử dụng phương pháp thu thập, tổng hợp và xử lý thông tin đã giúp tác giả thu được
những thông tin hữu ích, trong đó những vấn đề bức thiết cần đổi mới của giáo dục đại học theo
học chế tín chỉ khi bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã được thể hiện rõ ràng, đầy đủ.
2.2. Phương pháp quan sát
Tác giả đã thực hiện quan sát quá trình dạy học theo học chế tín chỉ trong một số trường
đại học. Qua đó, đã thu được những hiểu biết thực tế về nội dung dạy học, các hình thức tổ chức
dạy học, các phương pháp, phương tiện và kỹ thuật dạy học, những mong muốn và nhu cầu học
tập chính đáng của sinh viên khi học theo học chế tín chỉ. Đồng thời, cũng thấy được những
yêu cầu bức thiết cần phải nâng cao chất lượng đào tạo Đại học, sự cần thiết phải đẩy mạnh quá
trình rèn luyện, tự học tập và nghiên cứu của sinh viên và những đòi hỏi đối với đội ngũ giảng
viên về công tác giảng dạy nhằm đào tạo ra những “công dân toàn cầu” thích ứng với cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra hiện nay.
2.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm là phương pháp mà người nghiên cứu xem xét lại
những thành quả của hoạt động thực tiễn đã diễn ra để có những kết luận phục vụ cho quá trình
nghiên cứu. Khi tiến hành tổng kết kinh nghiệm cần chú ý đến việc đi sâu vào các diễn biến,
nguyên nhân của các hiện tượng và các giải pháp thực tiễn đã được áp dụng thành công.
Thông qua tổng kết kinh nghiệm, những ưu điểm nổi bật cũng như những hạn chế của
quá trình chuyển từ đào tạo Đại học theo niên chế sang quá trình đào tạo theo học chế tín chỉ,
yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra với những thế hệ nhân lực, người lao động
tương lai của đất nước đã được làm rõ. Trên cơ sở đó, tác giả đã thấy rõ được những đòi hỏi,
những yêu cầu của cuộc cách mạng 4.0 đang đặt ra đối với nền giáo dục. Nếu không muốn bị
tụt lùi, lạc hậu ở phía sau thì đổi mới giáo dục nói chung và giáo dục Đại học nói riêng phải có
bước đột phá ở tất cả các mặt, cần sự chung tay vào cuộc của cả hệ thống giáo dục và xã hội.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Những điểm mới của đào tạo Đại học theo học chế tín chỉ
Học theo học chế tín chỉ là một khái niệm khác hẳn với học theo niên chế trước đây. Tín
chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một người học bình thường để
học một môn học cụ thể, bao gồm: thời gian lên lớp; thời gian học ở trong phòng thí nghiệm,
thực tập hoặc các phần việc khác đã được quy định ở thời khóa biểu và thời gian dành cho đọc
sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc làm bài… Đào tạo theo tín chỉ không tổ chức
theo năm học mà theo các kỳ. Một năm có thể tổ chức đào tạo từ 2 đến 3 học kỳ, mỗi chương
trình đào tạo của một ngành học nhất định không tính theo năm mà tính theo sự tích lũy
kiến thức của sinh viên, sinh viên tích lũy đủ số tín chỉ theo quy định thì được cấp bằng tốt
nghiệp và ra trường.
Từ đào tạo theo niên chế chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ là cả một quá trình
phức tạp, cần có thời gian nhất định. Quá trình này đòi hỏi hàng loạt nội dung cần phải đổi mới
và đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ. Đó là:
184
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ | 11/2019
- Đổi mới mô hình quản lý đào tạo;
- Đổi mới chương trình đào tạo;
- Đổi mới giáo trình ở tất cả các môn học;
- Đổi mới hướng dẫn kiểm tra, thi kết thúc học phần; đánh giá việc tự học, tự nghiên cứu
và kết quả học tập của sinh viên;
- Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ cho tổ chức đào tạo.
Hơn nữa, để nâng cao chất lượng đào tạo, phù hợp với xu hướng giáo dục hiện đại, đồng
thời cần phải tiến hành:
- Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy người học làm trung tâm;
- Xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy có chất lượng cao;
-Xây dựng cơ sở vật chất theo hướng hiện đại trong đó các phương tiện hiện đại phục vụ
giảng dạy và học tập được chú trọng và mang vai trò quan trọng.
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đào tạo Đại học theo học chế tín
chỉ thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Giải pháp thứ nhất: Cải tiến phương pháp giảng dạy và học tập theo hướng hiện đại
Giảng dạy theo hướng phát huy tối đa tính tích cực, sáng tạo và độc lập của sinh viên
Có thể nói, các phương pháp giảng dạy hiện đại ở bậc đại học hiện nay đang được thực
hiện theo xu hướng: phát huy tính tích cực của quá trình nhận thức; cụ thể hóa và công nghệ
hóa các phương pháp giảng dạy. Các phương pháp này không chỉ đòi hỏi giảng viên truyền thụ
tri thức cho sinh viên mà còn giảng dạy cho sinh viên biết cách sáng tạo, tự tìm ra tri thức mới.
Giảng viên không phải là người cung cấp thông tin đơn thuần mà là người vận dụng các phương
pháp và công nghệ hiện đại để hướng dẫn tích cực cho sinh viên tự chủ động học tập, nghiên
cứu qua sách vở, tài liệu và các vấn đề trong cuộc sống. Giảng viên chỉ giữ vai trò như một
nhà “cố vấn khoa học”.
Giảng dạy theo hệ học chế tín chỉ cần phải được thực hiện theo hướng phát huy tối đa
tính tích cực, sáng tạo và độc lập của sinh viên. Trong quá trình giảng dạy, giảng viên cần phải
chú trọng, hỗ trợ sinh viên phát huy các chức năng tâm lý, khả năng tư duy độc lập, sáng tạo
không ngừng thông qua việc tạo điều kiện cho sinh viên được thảo luận, trình bày các quan
điểm, tư duy về các vấn đề chính trị, kinh tế và xã hội. Đồng thời, giảng viên cần phải biết phối
hợp các phương pháp giảng dạy khác nhau một cách hợp lý, linh hoạt trong từng điều kiện và
nội dung học tập cụ thể [3].
Trong quá trình học tập, giảng viên cũng cần hướng dẫn, giải thích cho sinh viên hiểu rõ
quy trình tái tạo tri thức cũng như phương pháp giảng dạy của giảng viên, từ đó định hướng cho
sinh viên tự vận dụng trong quá trình học tập và nghiên cứu của mình để đáp ứng yêu cầu của
quá trình học tập.
Đổi mới phương pháp học tập của sinh viên
Đào tạo theo học chế tín chỉ không những đòi hỏi mỗi giảng viên phải có kiến thức sâu
rộng, vững vàng và nắm chắc nội dung bài giảng ở từng chương, từng phần và toàn bộ môn học
mà nó còn đòi hỏi chính bản thân sinh viên phải không ngừng đổi mới phương pháp học tập
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo.
Theo hướng đó, mỗi sinh viên phải tự đổi mới phương pháp học tập của mình theo hướng
đổi mới phương pháp, từ nghe thuyết trình, ghi chép bài trên lớp như trước đây bằng cách tổ
185
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HTKH 2019
chức các hình thức học tập khác nhau: học nhóm trao đổi, tự nghiên cứu trước nội dung bài
giảng lúc ở nhà; thảo luận bài tập trên lớp; thực hiện học tập trên mạng Internet với phương
pháp truy cập mạng mang nội dung hữu ích thiết thực cho bài học; chủ động tiếp cận cái mới,
thể hiện năng lực tư duy logic các vấn đề.
Việc học chủ động hình thành khi sinh viên được tham gia nhiều hơn vào việc thao tác,
vận dụng và đánh giá ý tưởng. Việc học chủ động trong các môn thiên về lý thuyết có thể bao
gồm những khoảng thời gian dành cho sinh viên suy xét, thảo luận theo nhóm và phản hồi tức
thời về những vấn đề đang được học. Việc học chủ động trở thành kinh nghiệm thực tế khi sinh
viên đảm nhiệm vai trò chủ thể của quá trình dạy học. Sự nhấn mạnh vào việc sử dụng rộng
rãi phương pháp học tập chủ động và học trải nghiệm nhằm giúp sinh viên phát triển sâu
hơn về nền tảng kiến thức chuyên môn.
Để thời gian học tập của sinh viên đạt hiệu quả và hiệu suất cao, đòi hỏi sinh viên phải có
kinh nghiệm học tập tích hợp. Học tập tích hợp bao gồm kinh nghiệm học dẫn đến nắm vững
kiến thức chuyên môn kết hợp với kỹ năng cá nhân và giao tiếp., được hình thành qua các hoạt
động như: thảo luận theo nhóm, tiểu luận, thuyết trình, bài tập cá nhân… đồng thời sinh viên
phải biết cách phân bổ thời gian tự học hợp lý, tránh sử dụng lãng phí vào những việc vô bổ.
Chú trọng công tác rèn nghề và rèn kỹ năng cho sinh viên
Thực tế yêu cầu xã hội hiện nay không chỉ yêu cầu sinh viên nắm vững các tri thức căn
bản, hiện đại mà còn phải có các kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, có tư duy, có sự say mê tìm tòi
sáng tạo trong lĩnh vực nghề nghiệp của mình. Để giúp sinh viên có thể tham gia tích cực và
thực hiện thành công quá trình đào tạo Đại học theo học chế tín chỉ, chuẩn bị hành trang cần
thiết tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 chúng ta không chỉ tập trung vào các vấn đề
chính là nội dung và phương pháp đào tạo, sử dụng thiết bị hiện đại và đổi mới phương pháp
kiểm tra đánh giá mà còn phải chú trọng vấn đề hình thành và bồi dưỡng cho sinh viên các kỹ
năng cần thiết, đáp ứng tốt yêu cầu của xã hội, đó là:
1) Kỹ năng tự học và tự nghiên cứu:
Tự học và tự nghiên cứu không phải là một năng lực có sẵn mà nó được hình thành và
được bồi dưỡng trong suốt quá trình học tập ở các cấp học. Đây là vấn đề có ý nghĩa mấu chốt
trong đào tạo theo học chế tín chỉ, khi thời gian học tập trên lớp giảm đi, thời gian dành cho các
hoạt động độc lập của sinh viên tăng lên. Nếu sinh viên không tự học, tự nghiên cứu thì không
thể đáp ứng được yêu cầu của quá trình đào tạo.Tuy nhiên, để việc tự học và tự nghiên cứu
đạt kết quả cao, bản thân sinh viên cần được cung cấp hệ thống học liệu và bồi dưỡng
phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Để hình thành và phát triển tốt các kỹ năng này, người
giảng viên cần chú ý các vấn đề sau:
- Cần tạo được động cơ nhận thức phát hiện và nêu vấn đề, dựa vào mâu thuẫn nhận thức,
nêu rõ các vấn đề thực tế đòi hỏi sinh viên phải tự nghiên cứu, tìm hiểu để giải quyết vấn đề đó;
- Chỉ ra con đường nhận thức (các hướng suy nghĩ giải quyết vấn đề), cách tư duy khoa
học để tự chiếm lĩnh kiến thức mới;
- Hướng dẫn sinh viên tìm kiếm nguồn thông tin cần thiết: ở bài giảng, tài liệu, giáo trình,
Internet…;
- Lựa chọn hình thức nghiên cứu, xử lý nguồn thông tin đã thu nhận được;
- Trao đổi, thảo luận, làm rõ các tri thức mới (qua bạnhọc, thầy cô…);
- Để làm tốt việc vấn đề tự học, sinh viên cần phải biết áp dụng linh hoạt các bước, các
phương pháp trên thùy thuộc vào năng lực của bản thân và yêu cầu học tập.
186
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ | 11/2019
2) Kỹ năng khai thác và sử dụng công nghệ thông tin:
Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy và học được áp dụng rộng
rãi ở tất cả các cấp học. Việc làm này đã giúp thay đổi căn bản phương pháp dạy, phương pháp
học, kích thích hứng thú học tập ở sinh viên, gợi sự hăng say sáng tạo, qua đó góp phần nâng
cao hiệu quả đào tạo. Tuy nhiên, hiện nay ở một bộ phận sinh viên vẫn chưa biết cách khai thác
các thông tin, tri thức trên Internet và vận dụng các tri thức đó vào quá trình học tập của mình.
Do vậy, trong quá trình đào tạo đại học theo học chế tín chỉ giảng viên cần hướng dẫn cho sinh
viên biết và vận dụng thành thạo những kỹ năng sau:
- Sử dụng một số phần mềm hỗ trợ thiết kế bài giảng: PowerPoint, Word, Excel; các phần
mềm hỗ trợ xử lý ảnh, phim, vẽ các dụng cụ thí nghiệm,…
- Sử dụng các phần mềm máy tính mô phỏng các thí nghiệm, các hiện tượng khoa học
(sinh học, vật lý, hóa học…);
- Tìm kiếm, khai thác tốt các nguồn tài nguyên trên Internet để phục vụ cho nhu cầu học
tập, nghiên cứu của mình.
Để nâng cao hơn nữa kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cho sinh viên, cần thường
xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, các diễn đàn trao đổi kinh nghiệm… từ đó góp phần thúc đẩy
và nâng cao hiệu quả việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
3) Kỹ năng hợp tác trong quá trình học tập:
Học hợp tác hiện nay là một quan điểm học tập khá phổ biến ở các nước phát triển và
đem lại hiệu quả giáo dục cao. Tuy nhiên, hiện nay việc học hợp tác theo nhóm ở sinh viên mặc
dù đã được áp dụng rộng rãi nhưng hiệu quả học tập lại chưa thật sự như mong muốn. Trở ngại
lớn nhất trong quá trình làm việc tập thể và hợp tác trong dạy học hiện nay chính là kỹ năng
giao tiếp, vốn là điểm yếu của đa số sinh viên Việt Nam. Trong quá trình giảng dạy của mình
hoặc qua các giờ sinh hoạt ngoại khóa, giảng viên có thể hướng dẫn cho sinh viên cách thức
giao tiếp hiệu quả:
- Biết cách diễn đạt ý tưởng của mình bằng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết;
- Có kỹ năng đặt câu hỏi, câu hỏi cần ngắn gọn, súc tích, đúng trọng tâm giúp người nghe
có thể tìm hiểu tiếp cận được đúng bản chất của vấn đề;
- Có kỹ năng lắng nghe, lắng nghe để hiểu đúng, hiểu đủ ý kiến của người khác.
Ngoài 3 kỹ năng trên, trong quá trình học tập của mình sinh viên cũng cần rèn luyện thêm
một số các kỹ năng quan trọng khác như kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng giải quyết vấn đề...
Giải pháp thứ hai: Đặt ra những yêu cầu đối với đội ngũ giảng viên Đại học
* Nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ giảng viên
Có thể khẳng định rằng chất lượng chuyên môn của đội ngũ giảng viên đóng vai trò quan
trọng quyết định đến chất lượng đào tạo của nhà trường. Đội ngũ giảng viên ở các trường Đại học
và cao đẳng hiện nay tuy đã tăng nhanh về số lượng nhưng nhìn chung vẫn còn thiếu, đặc biệt là
những giảng viên có năng lực và trình độ cao. Việc xây dựng được một đội ngũ giảng viên có
chất lượng cao là cả một quá trình lâu dài và phức tạp. Để nâng cao trình độ chuyên môn, năng
lực giảng dạy và nghiên cứu của giảng viên, chúng ta có thể thực hiện các giải pháp sau:
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, tự đào tạo và đào tạo lại đối với đội ngũ giảng
viên hiện có nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên về cả kiến thức chuyên môn và
nghiệp vụ sư phạm;
187
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HTKH 2019
- Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học. Gắn hoạt động nghiên cứu khoa học với
công tác giảng dạy, nâng cao năng lực nghiên cứu cho đội ngũ giảng viên, nhất là các giảng
viên trẻ;
- Định kỳ tổ chức các kỳ sát hạch giảng viên, đánh giá năng lực để có hướng bồi dưỡng,
đào tạo và sử dụng hợp lý;
- Tạo cơ chế và các chính sách thu hút để các chuyên gia, những người có trình độ chuyên
môn cao tham gia giảng dạy. Bên cạnh đó, cần có các chế độ đãi ngộ thích hợp để giảng viên
yên tâm công tác và gắn bó lâu dài với nhà trường, nhất là ở các trường đại học địa phương.
Bên cạnh đó, mỗi giảng viên cần có ý thức trao dồi, tích lũy kiến thức qua việc tự học, tự
nghiên cứu, làm giàu tri thức phục vụ chuyên môn giảng dạy; đồng thời, thường xuyên cập nhật
thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua thực tế tìm hiểu của bàn thân… điều này
đóng vai trò hết sức quan trọng, giúp giảng viên có thể trang bị nhiều kiến thức phong phú cho
bản thân và quá trình giảng dạy của mình [1].
Thực hiện tốt việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên
Hiện nay, việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên theo học chế tín chỉ được đánh giá
theo thang điểm chữ A, B, C, D; gồm các bài kiểm tra thường xuyên; kiểm tra giữa kỳ; kiểm
tra cuối kỳ với các trọng số khác nhau giúp đánh giá toàn diện hơn quá trình học tập của sinh
viên cả ở lớp và ở nhà. Có thể thấy đây là hệ thống thang điểm rất khoa học, được các trường
đại học hàng đầu thế giới áp dụng và đây cũng là tiêu chí để đánh giá quá trình đào tạo theo học
chế tín chỉ có triệt để hay không. Hệ thống thang điểm này nói lên bản chất của học chế tín chỉ
là đánh giá cả quá trình học tập của sinh viên chứ không chỉ dựa vào bài thi kết thúc học phần
như trước đây.
Việc kiểm tra và đánh giá năng lực của sinh viên đại học rất có ý nghĩa và quan trọng,
cần phải khách quan, đảm bảo hiệu quả về giáo dục, giảng dạy và học tập, phát triển tương lai
của sinh viên nhưng đồng thời quá trình kiểm tra đánh giá phải kích thích được sự tự đánh giá
kết quả học tập của mình. Như vậy, chúng ta mới đạt được mục tiêu của quá trình đào tạo thành
quá trình tự đào tạo [3].
Nhà trường phải đánh giá kết quả học tập của sinh viên dựa trên việc nắm chắc kiến thức
cơ sở; kiến thức chuyên ngành và kỹ năng thực hành thành thạo trong nghề nghiệp của sinh
viên. Qua quá trình giảng dạy, mỗi giảng viên phải đánh giá được kỹ năng nghề nghiệp và sự
sáng tạo của sinh viên, từ đó có những định hướng cần thiết đối với việc học của họ. Có sự hợp
lý giữa kiểm tra thường xuyên; kiểm tra định kỳ, làm bài tập ở nhà, viết tiểu luận, thi vấn đáp,
thi trắc nghiệm…
Xây dựng hệ thống tiêu chí đáng giá hiệu quả chất lượng dạy của đội ngũ giảng viên
Chất lượng giảng dạy của giảng viên không những là cơ sở để đánh giá việc hoàn thành
nhiệm vụ mà đồng thời nó còn là yếu tố quan trọng đánh giá vai trò và năng lực của người giảng
viên trong toàn bộ hệ thống đào tạo. Chất lượng giảng dạy chính là sự thể hiện uy tín của giảng
viên đó trước sinh viên, trước đồng nghiệp và xã hội.
Để làm được điều đó và tạo ra sự công bằng dân chủ trong việc đánh giá hiệu quả, chất
lượng giảng dạy, cần phải xây dựng được hệ thống các tiêu chí đánh giá hiệu quả chất lượng
giảng dạy của đội ngũ giảng viên. Có thể đánh giá thông qua các hình thức khác nhau như: sự
tiến bộ và kết quả học tập của sinh viên; cuối mỗi học kỳ có thể đưa ra phiếu nhận xét phản hồi
của sinh viên về chất lượng giảng dạy của giảng viên; số bài báo và các đề tài nghiên cứu khoa
học đã thực hiện và công bố trên các tạp chí khoa học chuyên ngành ở trong và ngoài nước…
188
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ | 11/2019
Giải pháp 3: Nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học
Trong bối cảnh giao lưu và hội nhập của nước ta hiện nay, khi cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 đang diễn ra một cách sâu rộng, để khoa học và công nghệ đáp ứng được nhu cầu
phát triển của xã hội, các nhà nghiên cứu, những người làm công tác khoa học, nhất là những
giảng viên tại các trường đại học và cao đẳng phải là lực lượng nòng cốt trong việc nghiên cứu
và ứng dụng các lĩnh vực nghiên cứu đó vào mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Sở dĩ nói những
giảng viên đại học là lực lượng nòng cốt bởi vì ở bậc đại học, người thầy phải đồng thời thực
hiện hai nhiệm vụ: giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Như vậy, nghiên cứu khoa học là một
nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu của mỗi giảng viên, nhất là với mục tiêu “mỗi trường đại
học là một viện nghiên cứu” [4].
Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên trong các
trường đại học, cao đẳng đã có những đóng góp đáng kể vào thành tích chung của ngành giáo
dục và nền khoa học nước nhà, tuy nhiên vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và chất lượng đạt
được chưa cao.
Để phát huy tiềm năng của đội ngũ cán bộ, giảng viên và nâng cao chất lượng hiệu quả
hoạt động nghiên cứu khoa học, bài viết xin đưa ra một số giải pháp sau:
- Tăng cường cơ sở vật chất và kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Đây là việc
làm cần thiết và cần có các chính sách cụ thể của các cấp có thẩm quyển như: tăng ngân sách cho
hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường đại học, đặc biệt là ở các trường đại học địa phương;
tăng kinh phí cho các đề tài nghiên cứu; đầu tư thêm các phòng thí nghiệm phục vụ nghiên cứu…
Như vậy mới khuyến khích được tinh thần hăng say tìm tòi, nghiên cứu khoa học;
- Tạo điều kiện cho giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học có cơ hội tiếp xúc, tham gia
các hoạt động nghiên cứu, các hội thảo, hội nghị ở các địa phương trong nước và ở các nước có
nền khoa học và giáo dục phát triển tiên tiến trên thế giới;
- Có sự kết hợp chặt chẽ giữa các trường đại học với các viện nghiên cứu để sử dụng, phổ
biến các kết quả nghiên cứu có kết quả tốt vào giảng dạy và học hỏi thêm kinh nghiệm nghiên
cứu khoa học;
- Có các cơ chế và biện pháp phối hợp, trao đổi nghiên cứu giữa các trường đại học ở các
địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Các trường cùng khối ngành và nhóm ngành có thể
phối hợp tổ chức các Hội thảo khoa học, tạo cơ hội cho các giảng viên cùng tiến hành các đề
tài nghiên cứu, các sáng tạo khoa học… để phát huy được thế mạnh của mỗi trường, tránh sự
trùng lặp, chồng chéo các hướng nghiên cứu, tránh lãng phí thời gian và tiền bạc.
Giải pháp 4: Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện giảng dạy hiện đại; đẩy
mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin
Cơ sở vật chất, phương tiện giảng dạy hiện đại giữ vai trò rất quan trọng trong việc cải
tiến, nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại học. Phương tiện giảng dạy hiện đại nếu
được giảng viên sử dụng hợp lý, linh hoạt sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
Nhà trường cần có kế hoạch đầu tư và sử dụng hiệu quả các cơ sở vật chất, phương tiện,
tài liệu không chỉ dành cho giảng dạy và nghiên cứu khoa học và học tập mà cho cả các hoạt
động thể chất của giảng viên và sinh viên.
Thư viện ở các trường Đại học và cao đẳng cần được đổi mới dần theo hướng thư viện
điện tử, có phòng khai thác Internet, phòng đọc mở, tra cứu tài liệu… tạo điều kiện tốt nhất cho
giảng viên, sinh viên khai thác thông tin phục vụ tốt cho nghiên cứu, giảng dạy và học tập.
189
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HTKH 2019
Tăng cường và mở rộng sự hợp tác giữa nhà trường với các cơ sở sản xuất, các viện
nghiên cứu, các trường đại học, các tổ chức chính trị - xã hội, các cá nhân trong và ngoài nước
để tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận động, ứng dụng và sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất, kỹ
thuật, công nghệ mới, hiện đại.
Trong việc ứng dụng công nghệ thông tin, Nhà trường nên đầu tư các phòng học, giảng
đường có sức chứa lớn, các phòng học trang bị máy tính, máy chiếu, có kết nối mạng Internet.
Điều này giúp cho giảng viên khi đề cập đến những vấn đề thực tiễn hoặc minh họa cho những
nội dung bài giảng có thể ứng dụng công nghệ thông tin nhanh chóng và hữu hiệu, qua đó cũng
giúp sinh viên biết cách khai thác và sử dụng Internet vào quá trình học tập và nghiên cứu của
mình [2].
3. KẾT LUẬN
Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo Đại học là một yêu cầu bức thiết của xã hội
trong giai đoạn hiện nay của nước ta, đặc biệt trong yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực khi
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra ngày càng sâu rộng và thâm nhập vào mọi mặt
của đời sống xã hội.
Để nâng cao chất lượng đào tạo và giáo dục đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân
lực đáp ứng được các điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cần phải có một sự đánh
giá nghiêm túc, một cái nhìn toàn diện, một sự điều chỉnh đồng bộ ở tất cả các khâu của quá
trình tổ chức và giảng dạy ở các cơ sở đào tạo, trong đó chú trọng vào công tác cải tiến phương
pháp dạy và học theo hướng hiện đại; nâng cao năng lực giảng viên; đầu tư cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại nhằm hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, lấy người học
làm trung tâm và sản phẩm của quá trình đào tạo đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Thanh Ái (2014). Cần phải làm gì để phát triển năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục,
Tạp chí Dạy và Học ngày nay, số 1/2014, tr.21.
[2] Đặng Bá Lãm (2015). Chương trình giáo dục hướng tới phát triển năng lực người học, Tạp chí
Quản lý Giáo dục (Học viện Quản lý giáo dục), số đặc biệt, tháng 4/2015, tr.14.
[3] Nguyễn Thanh Hoàn (2006). Những phẩm chất và năng lực của người giáo viên từ các cách
tiếp cận khác nhau, Kỷ yếu hội thảo 60 năm ngành Sư phạm Việt Nam, ĐHSP Hà Nội, ngày
14/10/2006.
[4] Tài liệu phục vụ Hội thảo “Cách mạng công nghiệp 4.0 với Giáo dục” do Hiệp hội các trường
Đại học và Cao đẳng Việt Nam phối hợp với tập đoàn Công nghiệp Phoenix Contact, Đức tổ
chức tại Hà Nội và Quảng Ninh từ ngày 21-23/10/2016.
Title: SOME SOLUTIONS TO ADVANCE THE QUALITY OF TERTIARY EDUCATION
MEETING THE REQUIREMENTS OF THE INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0
Abstract: Advancing education quality which requires burdened responsibilites and is joined hands by
entire community is always an emergent issue. This article concentrates on analysing and proposing
some resolutions to ameliorate the university training and education quality with the process of orienting
credit education with a view to suiting 4.0 industrial revolution happening commonly and strongly as
well as contributing to producing the innovative people generations who are sufficient in characteristic,
intelligence, activeness, creation to build our country in industrialization, modernization, international
intergration period.
Keywords: Education quality, 4.0 industrial revolution, university education.
190
nguon tai.lieu . vn