- Trang Chủ
- Giáo dục học
- Một số giải pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Vật lí tại trường THPT chuyên Lê Hồng Phong tỉnh Nam Định
Xem mẫu
- HỘI NGHỊ GIẢNG DẠY VẬT LÍ TOÀN QUỐC Hà Nội, 06 – 11 – 2016
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI
MÔN VẬT LÍ TẠI TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ HỒNG PHONG TỈNH NAM ĐỊNH
Vũ Đức Thọ
Tổ Vật lí – Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong Nam Định
Mục tiêu quan trọng của trường chuyên là phát hiện những học sinh có tư chất thông
minh, đạt kết quả xuất sắc trong học tập và phát triển năng khiếu của các em về một số
môn học trên cơ sở đảm bảo giáo dục phổ thông toàn diện; giáo dục các em thành người
có lòng yêu nước, tinh thần vượt khó, tự hào, tự tôn dân tộc; có khả năng tự học, nghiên
cứu khoa học và sáng tạo; có sức khỏe tốt để tiếp tục đào tạo thành nhân tài đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước.
Trong những năm gần đây, nhận thức và xác định rõ vai trò công tác giảng dạy và bồi
dưỡng học sinh giỏi nên tổ Vật lí của trường THPT chuyên Lê Hồng Phong đã quan tâm
chú trọng đổi mới công tác giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi, từ khâu tuyển chọn, xây
dựng kế hoạch giảng dạy và bồi dưỡng đến thực hiện kế hoạch và cũng đã đạt được một số
kết quả đáng khích lệ. Chỉ tính trong 5 năm gần đây đã có 40/41 em học sinh dự thi HSG
Quốc gia đạt giải, trong đó có 6 giải Nhất; 19 giải Nhì; 12 giải Ba và 3 giải KK. Thi
Olympic vật lí Châu Á đạt 3 HC Bạc; 3 HC Đồng; 2 BK. Thi Olimpic vật lí Quốc tế đạt 2
HC Vàng; 4 HC Đồng
Trong bản báo cáo này chúng tôi xin nêu một số giải pháp trong tuyển chọn và bồi
dưỡng HSG bộ môn Vật lí hiện nay trường THPT chuyên Lê Hồng Phong đã và đang thực
hiện.
1. Công tác tuyển chọn học sinh đầu vào.
Trường chúng tôi tuyển sinh đầu vào theo quy chế của Bộ giáo dục nhưng có vận dụng
khéo léo một số điểm trong quy chế để có thể tuyển chọn được nhiều học sinh tốt nhất
như: Thi vào lớp 10 chuyên lí bằng 4 môn là Toán, Văn, Ngoại ngữ và Vật lí chuyên; xác
định được tầm quan trọng của tư duy toán của học sinh cấp 2 nên chúng tôi cho học sinh
thi bài thi môn toán cùng với các lớp chuyên toán chuyên hóa chuyên sinh gọi là bài thi
toán dành cho học sinh ban tự nhiên với mức độ đề toán khó hơn các lớp chuyên khác;
chúng tôi cũng áp dụng nhân hệ số 2 đối với môn toán bằng với hệ số 2 của bài thi vật lí
chuyên. Chúng tôi cũng đang suy nghĩ và tìm giải pháp tiếp tục có thể tuyển được học sinh
lớp chuyên toán (đã đỗ chuyên toán, thậm chí giỏi nhất đội tuyển toán) sang học đội tuyển
Vật lí.
2. Về việc tuyển chọn, tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi.
Trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi khâu đầu tiên là khâu phát hiện và tuyển chọn
học sinh. Việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi là quá trình đầu tư nhiều công sức, đòi
hỏi năng lực và tâm huyết của giáo viên. Với phương châm giảng dạy là “Phải làm cho
học sinh yêu thích môn học của mình, truyền ngọn lửa yêu thích môn học thì mới có hiệu
62
- HỘI NGHỊ GIẢNG DẠY VẬT LÍ TOÀN QUỐC Hà Nội, 06 – 11 – 2016
quả trong giảng dạy” vì vậy trong các bài giảng, bên cạnh việc cung cấp các kiến thức, tôi
còn dạy cho học sinh lối sống, kĩ năng và những ứng dụng của kiến thức được học vào
thực tế cuộc sống. Hiện tại, công tác tổ chức thi học sinh giỏi đã tạo ra động lực mạnh mẽ
thúc đẩy phong trào dạy và học của các địa phương. Qua các kì thi học sinh giỏi, chúng ta
đã chọn được những học sinh xuất sắc tham gia các Olympic khu vực và quốc tế, tạo
nguồn cho chiến lược đào tạo lao động chất lượng cao của đất nước.
Đối với trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, công tác tuyển chọn và bồi dưỡng HSG
qua 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1: từ sau khi thi xong HSGQG năm trước (khoảng giữa tháng 1) và kết thúc
vào cuối tháng 4, khi thi Olympics các trường vùng Duyên Hải và ĐBBB.
Trong giai đoạn này, mỗi lớp chuyên 10, 11 chọn ra từ 10 đến 15 HS có khả năng học
tốt ở môn chuyên, tổ chức bồi dưỡng 02 buổi chiều /tuần. Đến khi thi cụm sẽ rút 03 HS tốt
nhất để thi.
Sau khi thi cụm xong, các GV sẽ làm việc độc lập với các HS, giao nhiệm vụ và chủ
yếu cho HS tự học. Mỗi tuần sẽ bố trí 01 buổi để HS trả bài.
Giai đoạn 2: Từ khoảng đầu tháng 8 đến khi thi chọn HS vào các đội tuyển của tỉnh dự
thi HSGQG (giữa tháng 10)
Trong giai đoạn này chủ yếu tập trung hoàn chỉnh nội dung kiến thức cơ bản đáp ứng
cho kì thi HSGQG.
Giai đoạn 3: Giai đoạn tập huấn cho các đội tuyển HSG để chuẩn bị thi QG
Tập trung cho việc mở rộng, nâng cao và rèn kĩ năng cho HS.
Giai đoạn 4: Tập huấn cho HS thi vòng 2 chọn đội tuyển, kéo dài từ sau khi có kết quả
thi HSGQG đến khi Bộ GD&ĐT gọi HS tập huấn:
Tập trung hoàn thiện những nội dung kiến thức nâng cao mà chưa có trong kì thi QG.
Tiếp tục hướng dẫn để HS tự nghiên cứu.
Trong những năm học trước, việc chọn đội tuyển dự thi HSGQG của tỉnh Nam Định
chỉ có HS LHP tham dự, các trường ngoài không tham gia, nhưng bắt đầu từ năm học
2014- 2015, GĐ sở GD&ĐT Nam Định đã yêu cầu 5 trường trọng điểm chất lượng cao
của tỉnh cùng tham gia chọn đội tuyển, tuy nhiên kết quả thi chọn đội tuyển thì 100% HS
trong các đội tuyển là của LHP. Trừ Môn Sử, Địa có HS đứng thứ 13, 14. Còn các môn
KHTN thì HS của các trường ngoài đứng rất sâu. Như vậy phần nào khẳng định kế hoạch
và kết quả bồi dưỡng HSG của LHP đến nay vẫn còn phù hợp.
3. Nội dung chương trình, tài liệu cho giảng dạy, phương pháp dạy học.
Căn cứ vào hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, căn cứ nội dung các kì thi nhà trường chỉ đạo
cho các tổ chuyên môn xây dựng khung chương trình cho các khối lớp chuyên và các khối
lớp. Riêng chương trình cho các lớp chuyên và các đội tuyển được xây dựng hết sức tỉ mỉ
và cẩn thận, tránh sự trùng lặp giữa các GV khi dạy trên lớp cũng như khi bồi dưỡng.
Hàng năm nhà trường thường chia làm 3 đợt, mỗi đợt 3 ngày cử Tổ trưởng, lãnh đội và
63
- HỘI NGHỊ GIẢNG DẠY VẬT LÍ TOÀN QUỐC Hà Nội, 06 – 11 – 2016
GV có kinh nghiệm để chỉnh sửa, đắp dần thịt vào khung chương trình. Đến nay chương
trình giảng dạy là tương đối hoàn chỉnh.
Về tài liệu cho giảng dạy: Ngoài các chuyên đề ở một số môn các giảng viên và chuyên
gia viết phục vụ cho chương trình chuyên tài liệu chúng tôi dung chủ yếu là giáo trình của
các trường đại học danh tiếng, các đề thi Olympic của các nước và các chuyên đề, tiểu
luận, luận văn của các tác giả nước ngoài viết.
Trong quá trình giảng dạy, chúng tôi đã khơi gợi để học sinh tự khám phá, bộc lộ cách
tiếp cận vấn đề mới, từ đó mới đánh giá được tư chất và năng lực của học sinh. Một số
biểu hiện thường thấy ở những học sinh có tư chất thông minh là:
+ Năng lực tư duy mô hình hóa, sơ đồ hóa các khái niệm, các mối quan hệ; kĩ năng
thao tác giải quyết vấn đề và sáng tạo cái mới; kĩ năng thực hành, tổ chức sắp xếp công
việc.
+ Năng lực phản biện: Trước mỗi tình huống, học sinh có khả năng phản biện hay
không? Có biết thay đổi giả thiết, thay đổi hoàn cảnh để tạo ra tình huống mới hay không?
+ Học sinh có tinh thần vượt khó và bản lĩnh trước tình huống khó khăn: Có khả năng
tìm tòi phương hướng giải quyết vấn đề khó, biết tự bổ sung kiến thức, phương tiện để
thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ. Có sự nhạy cảm đón bắt ý tưởng từ những người xung
quanh, biết lắng nghe, có khả năng tiếp thu, chọn lọc, tổng hợp ý kiến từ những người
xung quanh.
4. Tuyển chọn và bồi dưỡng giáo viên
a. Tuyển chọn giáo viên
Hàng năm, nhà trường căn cứ vào các văn bản pháp quy của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
căn cứ nội dung, kế hoạch giáo dục và thực trạng đội ngũ giáo viên tìm ra những điểm
mạnh, những điểm yếu, những thuận lợi, những khó khăn… từ đó lập kế hoạch, quy trình
tuyển chọn trình Sở GD&ĐT, UBND tỉnh để ra quyết định tuyển chọn giáo viên về
trường, có thể là các sinh viên giỏi mới ra trường hoặc là các giáo viên giỏi của các trường
phổ thông có tâm huyết trong việc dạy học sinh giỏi.
Hiện nay ở trường THPT chuyên Lê Hồng Phong thực hiện tuyển chọn gồm 2 bước:
- Bước 1: Tổ chức thi tuyển giáo viên vào trường theo các nội dung:
+ Phương pháp giảng dạy: soạn giảng theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh,
hướng dẫn học sinh tự học, nghiên cứu khoa học.
+ Làm bài thi chuyên môn trong thời gian 180 phút : yêu cầu giáo viên phải nắm được
những khía niệm cơ bản trong chương trình phổ thông và giải quyết được những nội dung
thuộc chương trình thi HSG cấp tỉnh, cấp QG.
+ Thi ứng dụng CNTT trong dạy học (60 phút): yêu cầu thiết kế bài giảng, khai thác và
sử dụng mạng internet, sử dụng từ 1-2 phần mềm ứng dụng cho bộ môn.
+ Thi ngoại ngữ chuyên ngành (60 phút) : dịch thuật tài liệu chuyên môn.
64
- HỘI NGHỊ GIẢNG DẠY VẬT LÍ TOÀN QUỐC Hà Nội, 06 – 11 – 2016
+ Trả lời phỏng vấn trước Hội đồng trường : mục đích tìm hiểu về tính cách, về độ tự
tin, khả năng thuyết trình và những khả năng khác ngoài chuyên môn.
- Bước 2: Thử việc
Thực tế chúng tôi thấy rằng không thể thiếu bước thử việc với người đã trúng tuyển,
bởi vì khi thử việc họ được đánh giá trong thời gian dài, bằng nhiều nguồn thông tin như
đồng nghiệp, học sinh, phụ huynh, qua giáo án, các sinh hoạt, giao tiếp... như vậy sẽ chính
xác hơn trong việc tuyển dụng. Chính vì thế các GV trúng tuyển cần phải thử việc 09
tháng, nếu đáp ứng được yêu cầu về phẩm chất đạo đức; kiến thức trình độ chuyên môn, kĩ
năng sư phạm thì Hiệu trưởng nhà trường thành lập hội đồng hết tập sự và đề nghị Sở
Giáo dục và Đào tạo ra quyết định công nhận tuyển dụng chính thức về trường.
b. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng bằng nhiều hình thức khác nhau
Đào tạo, bồi dưỡng về trình độ chuyên môn, kĩ năng sư phạm
Đào tạo thông qua việc xây dựng nội dung chương trình, viết bài giảng, xây dựng ngâm
hàng đề thi và tổ chức nghiên cứu khoa học trong giáo viên
Đào tạo thông qua sinh hoạt tổ chuyên môn.
Tổ chức tốt hội thi GVDG cấp trường.
Bồi dưỡng, đào tạo giáo viên thông qua các buổi hội thảo, hội học và các hoạt động
giáo dục của nhà trường.
Bồi dưỡng về ngoại ngữ, tin học cho CB, BV
5. Nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học là con đường hiệu quả và bền vững để nâng cao chất lượng đào
tạo tại trường phổ thông, đồng thời tạo nền tảng để các em học sinh có khả năng tự học
suốt đời. Điều này đã được xác định rõ trong thông tư số 38/2012/TT-BGDĐT, ngày
02/11/2012 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT. NCKH phải được tiến hành thường xuyên, trở
thành một nội dung tất yếu, bắt buộc trong việc học của học sinh và hoạt động chuyên
môn của giáo viên.
a. Đối với việc tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học trong học sinh
Chúng tôi cũng đã xác định NCKH là một hoạt động giáo dục quan trọng trong nhà
trường nhằm rèn luyện tư duy, tác phong làm việc khoa học của HS, gắn liền kiến thức
nhà trường với thực tiễn đời sống, cũng là một phương pháp đánh giá kết quả học tập
mới, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trung học theo định hướng phát triển
năng lực của học sinh.
Đặc biệt với đòi hỏi cao về năng lực tự học, tự nghiên cứu của HS trường chuyên,
việc học tập các bộ môn của các em học sinh tại trường chuyên LHP không bao giờ tách
rời việc NCKH. Các hình thức tổ chức NCKH cho HS được nhà trường chúng tôi triển
khai thường xuyên khá đa dạng, diễn ra trong suốt cả năm học.
65
- HỘI NGHỊ GIẢNG DẠY VẬT LÍ TOÀN QUỐC Hà Nội, 06 – 11 – 2016
+ Giao các nội dung ở các bộ môn và hướng dẫn HS các lớp chuyên tự nghiên cứu và
viết chuyên đề sau đó báo cáo trước tập thể lớp (điều này diễn ra trong các giờ học và cả
giờ sinh hoạt lớp và do các GV bộ môn phụ trách)
+ Tổ chức hội thảo môn chuyên ở các khối lớp chuyên: thường diễn ra tập trung vào
02 đợt là 20/11 và 26/3. Do các GV bộ môn chuyên hướng dẫn và tổ chuyên môn chủ trì
hội thảo.
+ Thi sáng tạo KHKT cấp trường: diễn ra hàng năm vào khoảng cuối tháng 10 và do
hội đồng KH của nhà trường chủ trì.
+ Thi Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn: diễn ra
vào hai đợt: đầu năm học và cuối năm học và do Đoàn trường chủ trì.
+ Tổ chức cho các em, đặc biệt là HS các đội tuyển giao lưu với các nhà nghiên cứu.
+ Viết báo cáo thu hoạch sau mỗi đợt đi trải nghiệm sáng tạo
+ Hàng tuần nhà trường bố trí 01 buổi chiều cho các lớp tự học, tự nghiên cứu và
dưới sự kiểm tra, giám sát của BCH Đoàn trường. Đồng thời nhà trường cũng yêu cầu ở
bộ môn chuyên mỗi học kì phải có ít nhất 01 điểm hệ số 2 là kết quả của việc chấm đề tài
cho các em.
Sản phẩm của các hoạt động này đều được nghiệm thu bởi giáo viên hướng dẫn,
được lựa chọn để trình bày trước tập thể lớp và tổ chuyên môn, được phản biện và rút kinh
nghiệm. Đây thực sự là phong trào, là nhu cầu của các em học sinh ở các khối lớp, bởi từ
quá trình nghiên cứu này, các em đã hiểu sâu và rộng hơn về kiến thức mình quan tâm,
trưởng thành về phương pháp tư duy, cách làm việc khoa học và nâng cao được kĩ năng
sống.
Kết quả chúng tôi đã đạt được: 100% học sinh lớp chuyên có sản phẩm chuyên đề -
trong đó nhiều đề tài có chất lượng tốt được tập hợp và in thành kỉ yếu, 100% lớp chuyên
tổ chức hội thảo môn chuyên; Mỗi lớp hàng năm đều có từ 1-2 đề tài tham gia thi sáng tạo
KHKT cấp trường. Trong 3 năm trở lại đây, chúng tôi có 2 giải Ba, 1 giải Khuyến khích
chung cuộc trong kì thi Sáng tạo KHKT toàn quốc; 1 giải Nhì, 1 giải Ba, 1 giải Khuyến
khích chung cuộc trong cuộc thi Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống
thực tiễn cấp quốc gia dành cho học sinh trung học.
NCKH đối với HS THPT rất mới, cần phải có sự hướng dẫn tỉ mỉ. Muốn vậy, cả GV và
HS cần có kế hoạch cụ thể đối với từng bước, từng giai đoạn nghiên cứu. Bên cạnh việc
xác định các yếu tố về nhận thức, tâm lí, hứng thú của HS, mức độ đề tài, thời gian nghiên
cứu, kinh phí thực hiện…, thì việc tổ chức hướng dẫn các em nghiên cứu là một trong các
yếu tố quan trọng nhất.
b. Đối với việc tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học của giáo viên
Bên cạnh việc định hướng dạy học phát triển năng lực của HS, việc triển khai hoạt động
NCKH còn tạo động lực thúc đẩy GV phổ thông nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi, bồi dưỡng
kiến thức để đáp ứng nhiệm vụ hướng dẫn học sinh NCKH, từ đó góp phần nâng cao năng
lực, phẩm chất của người dạy – yếu tố then chốt để nâng cao chất lượng đào tạo.
66
- HỘI NGHỊ GIẢNG DẠY VẬT LÍ TOÀN QUỐC Hà Nội, 06 – 11 – 2016
Đối với giáo viên trường THPT chuyên, NCKH là nhiệm vụ sống còn để duy trì và
nâng cao chất lượng học sinh giỏi. Hoạt động này được chúng tôi tiến hành dưới nhiều
hình thức như: Viết SKKN, Hướng dẫn học sinh viết chuyên đề, Hướng dẫn HS triển khai
đề tài sáng tạo khoa học kĩ thuật, Thi Giáo viên sáng tạo trên nền tảng CNTT, Thi Dạy học
tích hợp theo chủ đề cấp trường. Sản phẩm của các hoạt động đó đều phải được trình bày
và phản biện qua các tổ, nhóm chuyên môn; lựa chọn các đề tài hay để báo cáo và phản
biện cấp trường. Đối với GV tham gia bồi dưỡng HSG, lãnh đội các đội tuyển, yêu cầu bắt
buộc hàng năm là phải Viết các chuyên đề bồi dưỡng HSG, Tự nghiên cứu các tài liệu
tiếng Anh để biên soạn bài giảng các môn KHTN bằng Tiếng Anh. Xác định NCKH là
nhiệm vụ, là yêu cầu, đồng thời cũng là một tiêu chí để đánh giá, xếp loại thi đua, nên hầu
hết các GV trong đơn vị chúng tôi luôn thực hiện với tinh thần nghiêm túc, tự giác, sáng
tạo.
Kiến nghị:
1- Cần ra văn bản hướng dẫn chi tiết về nội dung, chương trình, giảng dạy bộ môn
chuyên, đảm bảo tính cập nhật, hiện đại và hội nhập.
2- Chương trình tổng thể của tất cả các môn học ở trường chuyên cần xây dựng riêng
biệt, đồng bộ, khoa học, hoặc có một cơ chế mở cho các trường chuyên chủ động chương
trình giảng dạy các môn văn hóa (chương trình hiện tại vừa thừa vừa thiếu thời lượng: đối
với các môn học theo chương trình phổ thông, lượng kiến thức học trong 1h là hơi ít, trong
đó lượng kiến thức cho bộ môn chuyên trong 1h học lại quá nhiều)
3- Phối hợp với các trường ĐHSP, thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng giáo viên
phổ thông sử dụng các thiết bị thí nghiệm, đặc biệt là các thiết bị thí nghiệm hiện đại:
Hiện nay, tại các trường phổ thông, trang thiết bị thí nghiệm phục vụ các môn học là
tương đối đầy đủ, tuy nhiên giáo viên chuyên trách thí nghiệm là không có, phòng thí
nghiệm cũng thiếu nên không thể triển khai các thí nghiệm, đặc biệt là các thí nghiệm hiện
đại.
4- Các trường ĐHSP cần quan tâm hơn nữa đến việc đào tạo cho sinh viên kĩ năng
thực hành, kĩ năng làm thí nghiệm, phương pháp nghiên cứu khoa học và đặc biệt cần chú
trọng hơn việc học tin học và ngoại ngữ của sinh viên. Đảm bảo sinh viên khi ra trường có
thể sử dụng tốt trong giảng dạy.
5- Trường ĐHSP, Bộ GD & ĐT cần đưa các công trình nghiên cứu, các luận văn Ths,
TS lên trang thông tin để các giáo viên giảng dạy tại các trường chuyên và các học sinh có
tư liệu nghiên cứu học tập. Đồng thời giúp các GV có định hướng đúng đắn cho công tác
giảng dạy của mình.
Trên đây chỉ là một số ý kiến ban đầu về công tác chuyên môn trong trường chuyên.
Chúng tôi mong muốn Bộ GD-ĐT tiếp tục tổ chức các hội nghị chuyên đề và triển khai
thu thập ý kiến sớm hơn nữa để cơ sở chúng tôi có điều kiện nghiên cứu, đóng góp ý kiến
được sâu sắc hơn.
Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn Ban tổ chức, cảm ơn những ý kiến đóng góp khác.
67
nguon tai.lieu . vn