Xem mẫu

  1. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOẠCH ĐỊNH CƠ CẤU VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TÓM TẮT: Hoạch định cơ cấu vốn (CCV) là một trong các nhiệm vụ tài chính quan trọng của các doanh   nghiệp niêm yết (DNNY) trên thị  trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam. Hoạt động này   không chỉ giúp doanh nghiệp quyết định nên huy động vốn từ đâu, mà còn xác định cách thức   phân bổ nguồn vốn đó như thế nào để đạt được mục tiêu tối thiểu hóa chi phí vốn và tối đa   hóa giá trị của doanh nghiệp. Trong phạm vi bài viết, tác giả  tập trung nghiên cứu, đề  xuất   một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động hoạch định CCV của các DNNY trên TTCK   Việt Nam hiện nay. Từ khóa: Cơ cấu vốn, doanh nghiệp niêm yết, thị trường chứng khoán. 1. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp niêm yết CCV của DNNY, hay còn gọi là đòn bẩy tài chính, là sự kết hợp giữa việc sử dụng vốn nợ  và vốn chủ sở hữu theo một tỉ lệ nhất định để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ  số đòn bẩy tài chính ở mức cao chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng nhiều nợ vay và ngược lại.   Một CCV hợp lí phải đảm bảo sự hài hòa giữa nợ vay và vốn chủ sở hữu, sao cho chi phí sử  dụng vốn thấp và rủi ro có thể  chấp nhận được, phù hợp với điều kiện kinh doanh cụ  thể  của doanh nghiệp. Các DNNY có thể thay đổi CCV hoặc tái cấu trúc lại nguồn vốn bằng nhiều cách thức khác   nhau, như: phát hành thêm các chứng khoán hoặc vay thêm từ bên ngoài, bổ sung thêm vốn từ  lợi nhuận thu được để  tăng vốn. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể  tái cấu trúc lại nguồn  vốn mà không làm thay đổi qui mô vốn của doanh nghiệp như  vay thêm nợ  để  mua lại cổ  phiếu, hoặc phát hành thêm cổ  phiếu để  hoàn trả  bớt nợ  vay. CCV của DNNY phải được  
  2. xây dựng trên cơ sở mục tiêu cơ bản là tối đa hóa giá trị tài sản cổ đông và cũng đồng thời là  tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp. Giá trị  của doanh nghiệp sẽ tối  ưu khi chi phí vốn bình  quân thấp nhất. Do vậy, mục tiêu cơ bản của quyết định CCV là xác định được cách thức tài   trợ có chi phí vốn thấp nhất, CCV tối  ưu là điểm mà tại đó chi phí vốn bình quân thấp nhất   và giá trị doanh nghiệp cao nhất. Khi điều chỉnh CCV các DNNY cần lưu ý các vấn đề sau: Thứ nhất, sự điều chỉnh CCV của  doanh nghiệp làm thay đổi chi phí vốn như thế nào? Thứ hai, tại điểm CCV nào chi phí vốn  của doanh nghiệp sẽ  tối thiểu và giá trị  doanh nghiệp tối  đa? Thứ  ba, giá trị  của doanh  nghiệp và giá cổ phiếu sẽ biến động như thế nào khi doanh nghiệp điều chỉnh CCV về mức   tối ưu?. CCV của DNNY phần lớn phụ thuộc vào các nhân tố  thuộc về doanh nghiệp, như: nguy cơ  phá sản, khả  năng sinh lời, chất lượng và cấu trúc tài sản, cơ  hội tăng trưởng... Ngoài các   yếu tố này, đặc trưng về ngành và đặc điểm môi trường kinh doanh còn là những yếu tố dẫn  đến sự  khác biệt về  CCV của các DNNY thuộc các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, hoạt   động ở các môi trường kinh doanh khác nhau. 2. Thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp niêm yết trên thị  trường chứng khoán Việt Nam   trong hoạch định cơ cấu vốn Hiện nay, bối cảnh kinh tế đất nước và xu hướng hội nhập đã và đang tạo nên những điều  kiện thuận lợi cho các DNNY trong việc hoạch định CCV. Cụ thể là: Thứ  nhất, hiện nay nền kinh tế  Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ, bình quân   khoảng 6%/năm trong 30 năm qua và được dự báo tiếp tục duy trì ở mức tăng trưởng cao đến   hết năm 2020; các chỉ tiêu về lạm phát, tỷ giá cũng sẽ theo chiều hướng ổn định. Đây là điều   kiện thuận lợi để các DNNY mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, qua đó thúc đẩy tăng  trưởng về mặt bằng giá cổ phiếu kéo theo mức tăng về vốn hóa thị trường. Thứ hai, tiến trình cổ phần hóa, thoái vốn tại doanh nghiệp nhà nước (DNNN) gắn với niêm  yết trên TTCK tiếp tục được Chính phủ  chú trọng đẩy mạnh trong thời gian tới. Trong giai  
  3. đoạn 2017 ­ 2020, sẽ có hơn 400 DNNN thực hiện thoái vốn trong giai đoạn này, qua đó tạo  tiền đề cho nguồn cung hàng hóa trên TTCK. Thứ  ba, việc tham gia và thực thi các FTA thế  hệ  mới như  EVFTA, CPTPP sẽ  giúp đẩy  mạnh hoạt động sản xuất ­ xuất khẩu của các DNNY; khi các cam kết này giúp gỡ bỏ  hàng  rào thuế quan đối với hàng hóa, làm tăng cơ hội giúp hàng hóa trong nước tiếp cận nhiều thị  trường quốc tế với các điều kiện ưu đãi hơn, giúp các doanh nghiệp kinh doanh mở rộng thị  trường, thúc đẩy xuất khẩu. Từ đó, cổ phiếu của những ngành này sẽ hấp dẫn hơn với nhà  đầu tư, tạo tiền đề cho sự tăng trưởng và đi lên tích cực của TTCK. Thứ tư, cam kết trong FTA thế hệ mới buộc các DNNY phải đổi mới, tái cấu trúc, áp dụng   các chuẩn mực và thông lệ  quốc tế về quản trị công ty, quản trị  rủi ro, công bố  thông tin…  để hoạt động có hiệu quả hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh. Bên cạnh đó, quá trình cổ phần  hóa DNNN, nhu cầu định giá doanh nghiệp, nhu cầu phát hành, tìm đối tác chiến lược, tìm thị  trường niêm yết (trong nước, nước ngoài) sẽ  là những yếu tố  tăng cầu đối với dịch vụ  của   các công ty chứng khoán. Thứ năm, các hiệp định FTA thế hệ mới được ký kết sẽ mở ra cơ hội cho Việt Nam về thu   hút đầu tư nước ngoài, bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài thông qua   TTCK. Với các yêu cầu cam kết có độ mở sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, quan hệ thương mại   và đầu tư giữa Việt Nam với các nước thành viên CPTPP hay các nước thành viên EU sẽ phát  triển mạnh mẽ, từ đó thúc đẩy dòng vốn đầu tư vào Việt Nam. Bên cạnh đó, các chính sách  mới như  Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Kinh doanh bất động sản… và sắp tới là   Luật Chứng khoán (sửa đổi), tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của nhà đầu tư  nước ngoài trên TTCK Việt Nam. Bên cạnh những mặt thuận lợi, vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề  bất cập gây nhiều khó khăn,  trở ngại cho các DNNY trong hoạch định CCV. Thứ  nhất, Nhà nước vẫn giữ  vai trò quản lý quan trọng đối với các DNNY. Hiện nay, có  khoảng 42% DNNY trên thị trường có tỷ lệ sở hữu của nhà nước trên 10%, trong đó 21% số  doanh nghiệp nhà nước nắm giữ  cổ  phần chi phối (trên 50%), 15% số  doanh nghiệp nhà  
  4. nước có  ảnh hưởng lớn (20%­50%) và 6% số  doanh nghiệp nhà nước giữ  vai trò quản lý  quan trọng (trên 10%). Nhiều DNNY nhà nước có cổ  phần chi phối vẫn hoạt động dựa trên  lợi thế doanh nghiệp nhà nước, được ưu tiên vay vốn dễ dàng hơn, vì thế không có động lực   đầu tư  vốn hiệu quả, tiết kiệm chi phí. Nhiều doanh nghiệp cổ  phần hóa vẫn áp dụng   phương thức, biện pháp và thói quen tổ  chức, quản lý như  trước vào điều hành để  quản trị  công ty mới. Thực tế đó ảnh hưởng không nhỏ đến công tác hoạch định chính sách tài chính   tại các DNNY. Thứ  hai, hiện nay các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn chiếm trên 50% thị  phần tín  dụng, dòng vốn tín dụng phần lớn chảy vào các doanh nghiệp lớn, dành nhiều ưu tiên cho các  doanh nghiệp có mối quan hệ  tốt với ngân hàng, sản phẩm tín dụng chưa đa dạng. Trong  khi thị  trường tài chính còn yếu kém, sự phát triển kinh tế của nước ta chủ yếu dựa vào hệ  thống ngân hàng, việc phân bổ tín dụng chưa họp lý của hệ  thống ngân hàng có ảnh hưởng   không nhỏ tới chính sách tài trợ vốn của các DNNY. Thứ ba, vai trò của các nhà đầu tư tổ chức trên TTCK còn rất hạn chế, tham gia chủ yếu là   các nhà đầu tư cá nhân. Sự hiện diện của các nhà đầu tư  tổ chức với chiến lược đầu tư  dài  hạn đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn. Chiến lược   tự do hóa tài chính đã được thực thi thông qua các chính sách thu hút sự tham gia của nhà đầu   tư nước ngoài trên TTCK. Tuy nhiên, hiện nay thị trường vẫn còn rất thiếu vắng những nhà  đầu tư tổ chức quan trọng như các công ty bảo hiểm nhân thọ, các quỹ hưu trí, quỹ đầu tư ...   Vì thế, việc phân bổ  nguồn vốn trong nền kinh tế chủ yếu tập trung vào nguồn vốn ngắn   hạn, huy động nguồn vốn dài hạn là vấn đề khó khăn trong điều kiện hiện nay. Thứ tư, hành lang pháp lý chưa đầy đủ và vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, gây nên những khó   khăn, vướng mắc trong hoạt động huy động vốn. Một số quy định liên quan của Luật Doanh  nghiệp chưa tạo thuận lợi cho cổ đông, thành viên công ty thực hiện quyền khởi kiện người   quản lý trong trường họp cần thiết; chưa có quy định đầy đủ, cụ thể và hợp lý về  chào bán  cổ  phần riêng lẻ  đối với công ty cổ  phần, gây khó khăn, thậm chí cản trở  việc huy động   thêm vốn, mở  rộng kinh doanh của không ít doanh nghiệp. Các quy định về  mệnh giá cổ 
  5. phiếu của Luật Chứng khoán hiện nay còn gây khó khăn cho hoạt động phát hành của các  DNNY có giá cổ phiếu dưới mệnh giá… Thứ  năm, sự  thiếu tính chuẩn tắc trong quản trị  tài chính tại các DNNY  ảnh hưởng đến   quyết định CCV. Công tác quản trị tài chính trong các doanh nghiệp thường bị xem nhẹ, việc   lựa chọn nguồn vốn đáp  ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh được hình thành một cách tự  phát, không dựa trên những nguyên lý cơ bản của một chiến lược quản trị tài chính hiện đại,   hoạt động đầu tư tràn lan kém hiệu quả vào các lĩnh vực không đứng sở trường và chức năng  hoạt động cốt lõi của doanh nghiệp như  chứng khoán, bất động sản trở  nên rất phổ  biến.  Trên thực tế, những bất cập thuộc về nội bộ doanh nghiệp là nguyên nhân chủ yếu và quan   trọng gây nên những khó khăn, thách thức trong công tác hoạch định CCV. 3. Giải pháp hoạch định cơ cấu vốn của doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán  Việt Nam hiện nay Một là, các DNNY cần chủ động thành lập bộ phận chuyên trách quản trị nguồn vốn. Quản trị nguồn vốn là hoạt động vô cùng quan trọng đối với các DNNY trong quá trình truớc   và sau khi xây dựng được CCV mục tiêu. Tuy nhiên, phần lớn các DNNY hiện nay chưa  thành lập một bộ phận chuyên trách về lĩnh vực này; trách nhiệm hoạch định CCV của doanh   nghiệp thường được giao luôn cho ban giám đốc. Sau khi CCV được đề ra không có bộ phận   nào chịu trách nhiệm theo dõi và đánh giá, để kịp thời có những thay đổi phù hợp. Vì vậy, để  có thể xây dựng và quản lý một CCV hiệu quả, DNNY nên đặt ra một bộ phận chuyên trách  để  quản trị nguồn vốn. Hoạt động của bộ  phận quản trị  vốn phải liên hệ  chặt chẽ  với các   bộ  phận trực tiếp sản xuất, kinh doanh để  có thể  nắm bắt được đặc điểm tình hình hoạt  động của doanh nghiệp trong hiện tại và định hướng phát triển tiếp theo. Sau khi đã nắm  vững nhu cầu vốn và cân nhắc tình hình hiện tại của doanh nghiệp, bộ phận quản trị nguồn   vốn sẽ  tính toán các nguồn huy động vốn mà doanh nghiệp có thể  sử  dụng và chi phí huy   động của các nguồn đó. Bộ  phận quản trị  nguồn vốn phải có trách nhiệm kiến nghị  những   đề xuất thay đổi đối với các kế hoạch hoạt động nếu có sự không đồng nhất hay mâu thuẫn  
  6. giữa khả năng huy động vốn và kế hoạch, chiến lược phát triển của doanh nghiệp; đảm bảo  tính khả thi của chiến lược và khả  năng tài chính trong tương lai của doanh nghiệp. Sau khi  CCV của doanh nghiệp trong thời kỳ đã được thông qua, bộ phận quản trị vốn phải thường   xuyên giám sát tình hình thực hiện theo CCV của doanh nghiệp, kịp thời có những điều chỉnh  để  duy trì CCV khi có những thay đổi bất thường về kinh tế vĩ mô và trong hoạt động sản   xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hai là, đa dạng hóa các hình thức huy động vốn. Một trong những hình thức huy động vốn quan trọng mà DNNY nên khai thác sử dụng chính  là trái phiếu doanh nghiệp. Đây là hình thức vay vốn cực kỳ phổ biến, tuy nhiên, tốc độ tăng   trưởng và số tiền huy động được từ trái phiếu của DNNY hầu như là không đáng kể. Trong   thời gian tới, các DNNY, đặc biệt là những doanh nghiệp lớn thực sự nên cân nhắc đến việc   huy động vốn bằng phát hành trái phiếu. Việc phát hành trái phiếu của các DNNY nên được   tiến hành một cách rộng rãi công khai, không nên chỉ  giới hạn trong số một vài nhà đầu tư  thông thường. Thông tin về các loại trái phiếu được phát hành như  mệnh giá, thời hạn, các   điều kiện liên quan cần được công bố  trên các phương tiện để  mọi nhà đầu tư  quan tâm có  thể  tìm hiểu. Đặc biệt, các DNNY nên chú ý giới thiệu trái phiếu đến các nhà đầu tư  nước  ngoài. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài, nhất là những nhà đầu tư  lớn, chịu được rủi ro, rất ưa   thích trái phiếu doanh nghiệp của các quốc gia đang phát triển như  Việt Nam vì tiềm năng  tăng trưởng vẫn khá cao, trong khi lãi suất cũng hấp dẫn hơn so với các quốc gia phát triển. Đối với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, khó có thể phát hành trái phiếu, có thể cân nhắc   tìm đến những quỹ đầu tư hoặc các công ty đầu tư  mạo hiểm vì đây là những trung gian tài   chính sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm  đầu tư  vào các doanh nghiệp nhỏ  hoặc các doanh  nghiệp mới thành lập nếu các dự  án của doanh nghiệp đủ  hấp dẫn. Điều này giúp doanh   nghiệp đa dạng hóa cơ cấu tài trợ, hạn chế rủi ro và giảm chi phí tài trợ. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, cần tận dụng những hình thức tài trợ thương mại  quốc tế đang được nhiều ngân hàng trong nước áp dụng như: chiết khấu thương phiếu, cầm   cố giấy tờ có giá, các loại thư tín dụng (L/C), bao thanh toán... Đây là những phương tiện vô 
  7. cùng thuận lợi và hữu ích đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, giúp hạn chế  rủi ro   trong giao dịch và thanh toán quốc tế, đồng thời giúp cho doanh nghiệp chủ động tránh khỏi   những thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động trong quá trình hoạt động kinh doanh. Vì vậy, các  doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam nên chủ  động tìm hiểu về những hình thức tài   trợ thương mại quốc tế này và lựa chọn hình thức phù hợp cho mình, cần lưu ý rằng với quy  mô phát triển của ngành xuất nhập khẩu tại Việt Nam và tốc độ toàn cầu hóa trong lĩnh vực   xuất nhập khẩu nói chung, việc sử dụng những phương tiện tài trợ  này sẽ là một xu hướng  tất yếu không tránh khỏi. Vì vậy, các doanh nghiệp nên chủ  động làm quen và sử  dụng để  tránh lâm vào thế bị động khi tham gia vào các hoạt động thương mại quốc tế sau này. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, khai thác, xây dựng… có nhu   cầu lớn về đầu tư tài sản cố định thì thuê tài sản sẽ là một lựa chọn phù hợp. Về bản chất,   thuê tài sản cũng là một hình thức tín dụng giống các ngân hàng, nhưng là hình thức tín dụng  bằng tài sản. Chuyên môn của các công ty cho thuê tài sản trong lĩnh vực đầu tư  tài sản sẽ  giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và cả  chi phí khi muốn vay vốn để  tăng tài   sản cố định. Bên cạnh đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, DNNY cần xây dựng mạng   lưới quan hệ tín dụng vững chắc. Để tạo dựng mạng lưới quan hệ tín dụng tốt, có thể đề cử  thành viên hội đồng quản trị  tham gia vào các tổ  chức đoàn thể, các hiệp hội kinh doanh.  Ngoài ra, doanh nghiệp nên tích cực, chủ  động tham gia các diễn đàn, các hoạt động xã hội   để tăng thêm cơ hội mở rộng quan hệ kinh doanh. Ba là, hoàn thiện công tác kế toán, lập báo cáo tài chính và hoạt động công bổ thông tin của   doanh nghiệp niêm yết. Để  nâng cao khả  năng tiếp cận với các nguồn vốn bên ngoài, DNNY cần phải có các biện   pháp hoàn thiện công tác kế toán, qui trình lập báo cáo tài chính, công bố thông tin báo cáo tài   chính, đảm bảo thông tin đến được với nhà đầu tư  một cách kịp thời và có độ  tin cậy cao.   Theo đó, DNNY cần xây dụng bộ  máy kế  toán phù hợp với cơ  cấu quản lý, đồng thời ứng   dụng công nghệ  thông tin trong quản lý, sử  dụng phần mềm kế  toán để  cập nhật dữ  liệu   hàng ngày. Ngoài các thông tin trên báo cáo tài chính theo mẫu quy định của Bộ  Tài chính,  
  8. DNNY nên công bố  đầy đủ  hơn một số  chỉ  tiêu “nhạy cảm” trên thuyết minh báo cáo tài  chính. Thuyết minh báo cáo tài chính là 1 trong 4 báo cáo tài chính mà DNNY phải thực hiện   công bố. Đây thực chất là một bản giải trình của doanh nghiệp, gồm những thông tin bổ sung  với mục đích làm rõ và chi tiết hơn các thông tin và dữ liệu kế toán đã bị bỏ qua trong các báo   cáo tài chính như Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh. Qua thông tin bổ sung   trên thuyết minh báo cáo tài chính, DNNY sẽ đáp  ứng đầy đủ  hơn tính minh bạch về  thông   tin trên báo cáo tài chính, giúp nhà đầu tư có thêm nhiều thông tin hữu ích trong việc đưa ra   các quyết định của mình. Bên cạnh đó, các DNNY cần bố trí người công bố thông tin chuyên  trách hay bộ phận thư ký công ty, chịu trách nhiệm kiểm tra theo dõi việc công bố  thông tin  của doanh nghiệp, hạn chế tình trạng người công bố thông tin là người kiêm nhiệm các chức  danh như kế toán trưởng, giám đốc tài chính, thành viên hội đồng quản trị. Bốn là, nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp. Quản trị  tốt góp phần vào phát triển bền vững, cải thiện được hoạt động và nâng cao khả  năng tiếp cận các nguồn vốn từ  bên ngoài của các DNNY. Để  hoàn thiện công tác quản trị  tại các DNNY, cần nâng cao hơn nữa nhận thức về tầm quan trọng của các thông lệ quản trị  tốt, chú trọng hơn đến vấn đề  bảo vệ  quyền của cổ  đông và các bên liên quan, tăng cường   công khai minh bạch, bảo đảm trách nhiệm của hội đồng quản trị trong giám sát rủi ro. Thiết  lập một chuẩn mực quản trị và điều hành phù hợp với chuẩn mực quốc tế, nếu cần thiết có  thể nhờ sự giúp đỡ của các công ty tư vấn, các chuyên gia trong lĩnh vực này. Tăng cường vai trò của ban kiểm soát và bộ phận kiểm toán nội bộ, đây là công cụ giúp phát   hiện và cải tiến những điểm yếu trong hệ thống quản lý của doanh nghiệp. Các thành viên  của ban kiểm soát phải là thành viên độc lập có các phẩm chất phù hợp. Cần tăng cuờng sự  phối hợp giữa hội đồng quản trị, ban kiểm soát, giám đốc tài chính và bộ phận kế toán trong  việc ra các quyết định tài chính nói chung, quyết định CCV nói riêng. Tăng cường vai trò của   giám đốc tài chính (CFO) trong quản trị doanh nghiệp. CFO cần phải đưa ra những kiến nghị  mang tính chiến lược cho hội đồng quản trị dựa trên các phân tích và dự báo tài chính. Muốn  làm được như  vậy, đòi hỏi bộ  phận kế  toán phải cung cấp hệ  thống thông tin tích hợp để 
  9. lưu trữ, theo dõi, báo cáo hiệu quả  hoạt động và tình hình tài chính, hệ  thống kiểm soát nội   bộ đảm bảo thực hiện tuân thủ và quản trị hiệu quả và hạn chế gian lận.   TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Vũ Chí Dũng (2017), Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới ­ Các vấn đề đặt ra   đối với chính sách quản lý và giám sát thị  trường chứng khoán Việt Nam, Đề  tài   nghiên cứu khoa học của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. 2. Đàm Văn Huệ  (2005), “Bàn về  điều kiện thiết lập cơ  cấu vốn mục tiêu của doanh   nghiệp Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Kinh tế phát triển, số 10. 3. Lưu Thị  Hương, Vũ Duy Hào (2007), Tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản Đại học   Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 4. Nguyễn Hải Sản (2005), Quản trị tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản Tài chính. 5. Trần Hùng Sơn và Trần Viết Hoàng (2008), “Cơ  cấu vốn và hiệu quả  hoạt động của   doanh nghiệp của các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán thành phố  Hồ   Chí Minh”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 12(218)/2008. 6. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (2018), Báo cáo tình hình hoạt động của thị  trường   chứng khoán từ  năm 2000 đến nay và các giải pháp, kiến nghị  gửi Tổ  tư  vấn kinh tế   của Thủ tướng, tháng 12/2018, Hà Nội.   SOME SOLUTIONS TO PLANNING CAPITAL STRUCTURE OF ENTERPRISES LISTED  ON VIETNAM'S STOCK MARKET Master. NGUYEN THI THANH VINH University of Economics and Business Administration, Thai Nguyen University ABSTRACT: Capital   structure   planning   is   one   of   the   important   financial   tasks   of   listed   companies   in  Vietnam's   stock   market.   This   activity   does   not   only   help   businesses   decide   where   to   raise 
  10. capital, but it also determines how to allocate that capital to achieve the goal of minimizing  capital costs and maximizing the value of the business. Within the scope of the article, the  author   focuses   on   researching,   proposing   a   number   of   solutions   to   well   implement   capital  structure planning activities of listed companies on Vietnam's stock market today. Keywords: Capital structure, listed enterprises, stock market.
nguon tai.lieu . vn