Xem mẫu

Đào Thị Hồng Phượng

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

188(12/3): 17 - 20

MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CỦA GIẢNG VIÊN BỘ MÔN TIẾNG TRUNG QUỐC KHOA NGOẠI NGỮ- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Đào Thị Hồng Phượng*
Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên

TÓM TẮT
Nghiên cứu khoa học (NCKH) giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong giáo dục đại học vì nó không
những góp phần nâng cao chất lượng đào tạo mà còn tạo ra những tri thức mới, sản phẩm mới thúc
đẩy sự phát triển của nhân loại. Đối với giảng viên NCKH được xác định là nhiệm vụ trọng tâm
quan trọng bên cạnh nhiệm vụ giảng dạy. Bài viết nghiên cứu thực trạng NCKH của giảng viên bộ
môn tiếng Trung Quốc- Khoa Ngoại ngữ- Đại học Thái Nguyên. Từ việc phân tích thực trạng đề
xuất một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động NCKH phát triển mạnh hơn.
Từ khóa: đẩy mạnh, nghiên cứu khoa học, bộ môn tiếng Trung, thực trạng, giải pháp

GIỚI THIỆU**
Khoa Ngoại ngữ được thành lập theo quyết
định số 976/QĐ-TCCB ngày 31/12/2007 của
Giám đốc Đại học Thái Nguyên, là cơ sở giáo
dục đại học có nhiệm vụ đào tạo và cung cấp
nguồn nhân lực ngoại ngữ đáp ứng nhu cầu
cấp bách của xã hội trong xu thế hội nhập
quốc tế hiện nay, phục vụ đắc lực cho chiến
lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước
đặc biệt là khu vực trung du, miền núi phía
Bắc. Hiện nay Khoa Ngoại ngữ đào tạo các
ngành sư phạm và ngôn ngữ các thứ tiếng:
Anh, Trung, Pháp, Nga, Hàn.[1]
Bộ môn tiếng Trung Quốc là một trong năm
tổ bộ môn thuộc Khoa Ngoại ngữ. Hiện nay
bộ môn có 28 giảng viên (3 giảng viên làm công
tác kiêm nhiệm) trong đó có 8 giảng viên có
trình độ Tiến sĩ; 20 giảng viên có trình độ thạc
sĩ; 9 giảng viên đang học nghiên cứu sinh tại
các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NCKH CỦA
GIẢNG VIÊN BỘ MÔN TIẾNG TRUNG QUỐC
Thành tựu
Từ khi thành lập đến nay bộ môn tiếng Trung
luôn dẫn đầu trong toàn khoa về phong trào
NCKH và tự bồi dưỡng.[2] Có được thành
tựu như vậy một phần là do trình độ nguồn
nhân lực tham gia NCKH ngày càng được
nâng cao.
*

Tel: 0917 505898, Email: daohongphuong.sfl@tnu.edu.vn

Bảng 1. Trình độ biên chế các năm
2018
2016

Tổng số
2014

Cử nhân

2012

Thạc sỹ

2010

Tiến sỹ

2008
0

20

40

Dựa vào số liệu trên cho thấy. Từ khi thành
lập năm 2007 bộ môn chỉ có 5 giảng viên
trong đó mới chỉ có 2 giảng viên đạt trình độ
thạc sỹ. Đến nay số lượng giảng viên đã tăng
lên 28, trong đó 100% giảng viên có trình độ
Thạc sỹ, 8 giảng viên có trình độ Tiến sỹ,
chiếm 28.5%. So sánh với các tổ bộ môn khác
trong Khoa tỉ lệ này tương đối cao. Đây là
một thuận lợi lớn cho bộ môn trong việc đẩy
mạnh hoạt động NCKH.
Trong những năm vừa qua, lãnh đạo bộ môn
luôn ý thức được tầm quan trọng của việc
giao lưu, tiếp thu tiến bộ về kiến thức, kỹ
năng nghiên cứu của các cơ sở đào tạo có uy
tín ở trong và ngoài nước. Do đó bộ môn luôn
ủng hộ việc các giảng viên ra nước ngoài học
tập, nghiên cứu. Có thể là những khóa bồi
dưỡng ngắn hạn cho giảng viên, cũng có thể
là học tập dài hạn theo chương trình NCS tiến
17

Đào Thị Hồng Phượng

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

188(12/3): 17 - 20

sỹ... Cụ thể, từ năm 2008 đến nay bộ môn đã
cử 17 giảng viên tham gia thi tuyển và xét
tuyển đào tạo tiến sỹ tại trường Đại học Quốc
gia Hà Nội và các trường đại học có uy tín tại
Trung Quốc. Thông qua việc học tập giảng
viên không những có cơ hội tiếp cận sâu hơn
ngôn ngữ bản địa, nâng cao kiến thức chuyên
môn nghiệp vụ mà còn có cơ hội tiếp thu
thành tựu nghiên cứu và phương pháp nghiên
cứu tân tiến.

nghe, nói, đọc, viết; thiết kế các phần mềm hỗ
trợ học tập tiếng Trung giai đoạn sơ cấp;
nghiên cứu và biên soạn giáo trình các môn
học dự án theo hướng tiếp cận phát triển…

Ngoài việc tham gia các khóa học dài hạn,
một số giảng viên của bộ môn còn thường
xuyên tham gia và báo cáo tại các hội nghị,
hội thảo chuyên ngành quốc gia và quốc tế.
Việc tham gia hội thảo chuyên ngành đã đem
lại một diện mạo mới cho môi trường giao
lưu, học tập, nghiên cứu của bộ môn. Khi các
giảng viên ra nước ngoài tiếp cận với những
phương pháp nghiên cứu mới, tiếp thu gợi ý
quý báu của các chuyên gia, trao đổi, học hỏi
từ những người bạn đồng nghiệp thì kiến
thức, kỹ năng về nghiên cứu của giảng viên
được cải thiện, nâng cao rõ rệt. Trong năm
2016 bộ môn đã tổ chức một hội thảo chuyên
ngành có sự tham gia của các chuyên gia
ngôn ngữ trong và ngoài nước.
Số lượng các công trình khoa học có thể ứng
dụng vào giảng dạy tương đối nhiều. Giai
đoạn đầu khi mới thành lập, các đề tài
KH&CN mới chỉ dừng lại ở các nghiên cứu
mang tính chất lý thuyết như nghiên cứu các
hiện tượng ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp cơ
bản. Từ năm 2011 trở lại đây khi các giảng
viên đã tích lũy được lượng kiến thức khoa
học và kinh nghiệm giảng dạy nhất định, các
giảng viên đã mạnh dạn đề xuất các đề tài
KH&CN sang hướng ứng dụng vào thực tế
giảng dạy như: ứng dụng các phương pháp
giảng dạy tiên tiến vào giảng dạy các kỹ năng

Tồn tại, hạn chế

Đối với các đề tài khoa học và công nghệ
(KH&CN) cấp Đại học, cấp cơ sở hầu hết
giảng viên trong bộ môn luôn tự giác, nhiệt
tình tham gia. Từ khi thành lập đến thời điểm
tháng 7 năm 2018 bộ môn đã đạt được một số
kết quả về NCKH như ở bảng 2.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công
tác NCKH của bộ môn vẫn còn một số tồn tại,
hạn chế như sau:
Chất lượng một số đề tài chưa cao, thiếu hàm
lượng khoa học và công nghệ. Có một số thời
điểm do một trong những tiêu chí đánh giá viên
chức là phải có công trình khoa học nên các
giảng viên ồ ạt tham gia nghiên cứu đề tài
NCKH cấp cơ sở và cấp bộ môn. Điều này dẫn
đến chất lượng đề tài không được đảm bảo.
Chiến lược hoạt động khoa học và công nghệ
còn dàn trải, chưa có định hướng chủ đạo và
những nghiên cứu mang tính chiến lược. Số
lượng các bài báo khoa học, đề tài NCKH
tương đối nhiều song nội dung và mục tiêu
nghiên cứu không tập trung giải quyết các vấn
đề cấp thiết phát sinh trong quá trình dạy học.
Nguyên nhân
Do đội ngũ giảng viên tương đối trẻ, chưa có
nhiều kinh nghiệm về nghiên cứu và giảng
dạy. Việc này dẫn đến đa phần giảng viên đều
lựa chọn các đề tài nghiên cứu mang tính an
toàn như các đề tài nghiên cứu lý thuyết cơ
bản; so sánh, đối chiếu giữa hai ngôn ngữ
Trung- Việt; thông qua ngôn ngữ Hán tìm
hiểu văn hóa Trung Quốc…

Bảng 2. Số lượng công trình khoa học
STT
1
2
3
4
5
6

18

CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
Sách, giáo trình, tài liệu tham khảo
Đề tài KH&CN cấp Đại học
Đề tài KH&CN cấp cơ sở
Bài đăng tạp chí nước ngoài
Bài đăng tạp chí trong nước
Bài đăng kỷ yếu hội nghị, hội thảo

SỐ LƯỢNG
05
05
37
14
32
52

GHI CHÚ

Đào Thị Hồng Phượng

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

188(12/3): 17 - 20

Bảng 3. Tỷ lệ độ tuổi
STT
1
2
3

ĐỘ TUỔI
Trên 40
Từ 30-39
Từ 20-29

SỐ LƯỢNG
2
23
03

Trong quá trình công tác một số ít giảng viên
không có hứng thú với hoạt động NCKH. Số
giảng viên này sa đà vào các công việc làm
thêm, họ không có tinh thần phấn đấu hoàn
thành nhiệm vụ. Khi được giao nhiệm vụ
nghiên cứu họ thực hiện trong tình trạng bị
động dẫn đến chất lượng NCKH chưa cao.
Các giảng viên này thường lựa chọn các đề tài
nghiên cứu tập thể. Trong quá trình nghiên
cứu không có sự kết nối nên nội dung đề tài
thiếu tính hệ thống và logic.
Hiện nay 100% các giảng viên trong bộ môn
đều phải dạy vượt định mức. Ngoài việc phải
hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy giảng viên
còn phải kiêm nhiệm rất nhiều công tác khác
như: cố vấn học tập, giáo viên chủ nhiệm, viết
đánh giá chương trình, viết đề cương giáo án
các môn học mới, biên soạn giáo trình và bài
tập bổ trợ môn học, học tập đáp ứng chuẩn
ngoại ngữ và tin học v.v. Các công tác này
làm cho quỹ thời gian dành cho NCKH càng
thêm hạn hẹp.
Giảng viên trong bộ môn 96,5% là nữ và đều
trong độ tuổi thai sản. Việc mang bầu, sinh
nở, thai sản làm gián đoạn công tác NCKH,
ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng các công
trình NCKH của chị em.
Giải pháp
(1) Nâng cao nhận thức cho các giảng viên về
vai trò, tầm quan trọng của hoạt động NCKH
ở trường đại học
Hiện nay một số giảng viên trong bộ môn
chưa có nhận thức đúng đắn về vai trò, tầm
quan trọng của công tác NCKH. Một số ít
giảng viên còn cho rằng NCKH là công việc
mất nhiều thời gian, công sức và không mang
lại hiệu quả về kinh tế. Đây là một nhận định
hết sức lệch lạc và sai lầm. Để giải quyết vấn
đề này lãnh đạo bộ môn cần quán triệt nhiệm
vụ NCKH đối với giảng viên, tuyên truyền về

TỶ LỆ
7,2%
82,1%
10,7%

GHI CHÚ

vai trò quan trọng của NCKH trong việc trau
dồi năng lực chuyên môn của mỗi cá nhân và sự
phát triển của nhà trường. Kết quả của NCKH
cần phải được xem như một tiêu chí đánh giá về
chất lượng chuyên môn của giảng viên.
(2) Xây dựng cơ chế khen thưởng, kỷ luật
hợp lý trong hoạt động NCKH
Việc xây dựng một quy chế khen thưởng, kỷ
luật phù hợp sẽ là động lực giúp giảng viên
hứng thú và nhiệt huyết hơn với công tác
NCKH. Để xây dựng được quy chế này bộ
môn cần lấy ý kiến từ toàn thể giảng viên.
Hàng năm bộ môn cần tổ chức một hội nghị
tổng kết công tác NCKH của bộ môn để tổng
kết lại các thành tích cũng như tồn tại về
NCKH trong một năm học. Qua buổi tổng kết
sẽ tuyên dương và khen thưởng các cá nhân
có thành tích nổi bật về NCKH trong năm.
Đối với các giảng viên chưa hoàn thành
nhiệm vụ về NCKH cũng cần có hình thức kỷ
luật phù hợp. Đây là một việc làm cần thiết
đảm bảo sự công bằng về quyền lợi và nghĩa
vụ cho mọi giảng viên.
(3) Tăng cường các hình thức sinh hoạt khoa
học theo nhóm chuyên môn
Giải pháp này thực chất là sự phong phú hóa
các hình thức sinh hoạt khoa học, tạo ra nhiều
kênh trao đổi thông tin nghiên cứu, học tập
lẫn nhau cho các giảng viên. Đây là giải pháp
đóng vai trò then chốt để nâng cao chất lượng
và tính ứng dụng của các nghiên cứu. Hiện
nay bộ môn có các nhóm chuyên môn như:
nhóm thực hành tiếng; nhóm lý thuyết tiếng;
nhóm phương pháp giảng dạy; nhóm đề án và
tiếng Trung chuyên ngành; nhóm ngôn ngữ
Hán và văn hóa Trung Quốc. Các giảng viên
trong nhóm đều là những người có chung
môn học giảng dạy, chung sở thích về lĩnh
vực nghiên cứu. Dưới sự chỉ đạo của nhóm
trưởng các thành viên trong nhóm có thể trao
19

Đào Thị Hồng Phượng

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

đổi tài liệu, kinh nghiệm nghiên cứu, phương
pháp nghiên cứu để giúp đỡ nhau cùng tham
gia các hoạt động NCKH. Các hoạt động
NCKH có thể là viết bài tham gia hội nghị,
hội thảo trong nước và quốc tế; viết bài đăng
tạp chí trong nước và quốc tế; hướng dẫn sinh
viên NCKH; tham gia đề tài KH&CN cấp đại
học, cơ sở; xuất bản sách, giáo trình, tài liệu
tham khảo…Việc nghiên cứu theo nhóm
chuyên môn sẽ tạo cơ hội và môi trường cho
hoạt động NCKH được diễn ra thường xuyên
và có hiệu quả hơn.
KẾT LUẬN
Giảng dạy và NCKH là hai nhiệm vụ hàng
đầu của một giảng viên. Đối với nhiệm vụ
giảng dạy nếu không hoàn thành định mức
công việc giảng viên sẽ bị xét không hoàn
thành nhiệm vụ. Riêng đối với nhiệm vụ
NCKH thì đây vẫn là một nhiệm vụ mang
tính “khuyến khích” chứ chưa mang tính chất
“bắt buộc”. Do đó một số giảng viên thường
lơ là nhiệm vụ này. Việc đưa ra một biện
pháp hay chế tài cụ thể là rất khó vì nó ảnh

188(12/3): 17 - 20

hưởng đến tâm lý giảng viên. Một giảng viên
phải nghiên cứu trong tình trạng bị động,
không thoải mái sẽ không thể cho ra một sản
phẩm có chất lượng tốt. Nếu có thể tuyên
truyền nâng cao nhận thức cho giảng viên; có
sự khen thưởng động viên xứng đáng và tạo
ra được một môi trường nghiên cứu thân thiện
sẽ tạo động lực giúp họ hứng thú và nhiệt
huyết với nhiệm vụ NCKH hơn. Việc nâng
cao chất lượng các công trình nghiên cứu
đồng nghĩa với nâng cao chất lượng đào tạo.
Đây chính là cơ sở đưa Khoa ngoại ngữ trở
thành đơn vị đào tạo nguồn nhân lực ngoại
ngữ có chất lượng của khu vực trung du miền
núi phía Bắc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định số 112/QĐ-KNN ban hành ngày
08/04/2011 về việc công bố sứ mệnh và tầm nhìn
Khoa Ngoại ngữ - ĐHTN
2. Báo cáo kết quả hoạt động NCKH của CBGV
Khoa ngoại ngữ giai đoạn 2009-2017. (Tổ
QLKH&HTQT)

ABSTRACT
SOLUTIONS TO PROMOTE SCIENTIFIC RESEARCH IN CHINESE
DEPARTMENT AT THAI NGUYEN UNIVERSITY SCHOOL OF FOREIGN
LANGUAGES
Dao Thi Hong Phuong*
School of Foreign Languages - TNU

Scientific research plays an important role in higher education because it not only contributes to
improve the quality of education but also creates new knowledge, new products for the
development of humanity. Beside teaching, scientific research is also an important task for
lecturers. This research is to study the current status of scientific research in Chinese Department
at Thai Nguyen University School of Foreign Languages. Based on the analysis, we will propose
some effective solutions in order to promote the development of scientific research activities.
Key words: promotion, scientific research, Chinese Department, fact, solution

Ngày nhận bài: 17/8/2018; Ngày phản biện: 05/9/2018; Ngày duyệt đăng: 12/10/2018
*

Tel: 0917 505898, Email: daohongphuong.sfl@tnu.edu.vn

20

nguon tai.lieu . vn