- Trang Chủ
- Triết học
- Mối quan hệ giữa Triết học và các khoa học dưới ánh sáng của khoa học hiện đại và thực tiễn hiện nay
Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 70 (04/2020) No. 70 (04/2020)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/
MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ CÁC KHOA HỌC DƯỚI
ÁNH SÁNG CỦA KHOA HỌC HIỆN ĐẠI VÀ THỰC TIỄN HIỆN NAY
The relationship between Philosophy and the sciences in the light of modern
sciences and current practice
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Khá
Trường Đại học Sư phạm TP.HCM
TÓM TẮT
Dưới ánh sáng của khoa học hiện đại và thực tiễn hiện nay, mối quan hệ giữa triết học và các khoa học
trở thành vấn đề hết sức quan trọng, chứa đựng nội dung phong phú và sâu sắc. Triết học đóng vai trò
thế giới quan và phương pháp luận phổ biến cho các khoa học, là cơ sở lý luận để đánh giá thành tựu
của các khoa học, vạch ra phương hướng phát triển và phương pháp nghiên cứu của các khoa học. Về
phần mình, các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học các thành tựu để từ đó triết học khái quát thành
quan điểm chung nhất, đồng thời các thành tựu ấy còn có giá trị kiểm chứng những kết luận của
triết học.
Từ khóa: các khoa học, mối quan hệ, phương pháp luận, thế giới quan, triết học
ABSTRACT
In the light of modern science and current practice, the relationship between philosophy and the
sciences is of utmost importance and contains rich and profound content. Philosophy plays the role of
the worldview and popular methodology for the sciences, lays the theoretical basis for evaluating the
achievements of the sciences, outlining the development direction and research methods of the sciences.
For their part, the specific sciences provide philosophy with achievements from which it generalizes
into philosophical perspectives, and these achievements are meant to verify the conclusions of
philosophy.
Keywords: sciences, relationship, methodology, worldview, philosophy
1. Đặt vấn đề hiện đại và thực tiễn xã hội đang đặt ra
Thời đại ngày nay gắn liền với cuộc những vấn đề mới mà triết học cần phải có
cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với sự giải đáp thuyết phục nhất, cũng như đòi
những biến đổi hết sức đa dạng và phức tạp hỏi các nhà khoa học cần có sự định hướng
trong bối cảnh toàn cầu hóa, quốc tế hóa đúng đắn về thế giới quan và phương pháp
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi luận trong hoạt động nghiên cứu, xác định
các nhà triết học và các nhà khoa học cần đối tượng, nội dung, mục đích nghiên cứu
phải giải quyết đúng đắn, kịp thời những khoa học của mình. Sự giải đáp này chỉ có
yêu cầu lý luận và thực tiễn cấp bách. Đặc thể thực hiện được khi một mặt các nhà
biệt, những thành tựu mới của các khoa học khoa học cần phải nắm vững và vận dụng
Email: khann@hcmue.edu.vn
14
- NGUYỄN NGỌC KHÁ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
đúng đắn, sáng tạo thế giới quan và phương tri thức lý luận (trong đó có tri thức triết
pháp luận của triết học Mác – Lênin, mặt học và tri thức các khoa học chuyên ngành)
khác các nhà triết học kịp thời nắm bắt và và hai là, tri thức thực tiễn (trong đó có sự
khái quát các thành tựu mới nhất của các hiểu biết tình hình thực tiễn và trình độ tay
khoa học hiện đại để bổ sung, phát triển lý nghề, kinh nghiệm được biểu hiện, trải
luận triết học, vận dụng sáng tạo vào trong nghiệm qua sự nhạy cảm với thực tiễn).
nhận thức và thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên Sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện
cứu mối quan hệ giữa triết học và các khoa chứng đã đem lại một quan điểm mới, tích
học có ý nghĩa hết sức quan trọng. cực về mối quan hệ giữa triết học và các
2. Vị trí của mối quan hệ giữa triết khoa học. Trên lập trường của chủ nghĩa
học và các khoa học trong nhận thức và duy vật biện chứng, dưới ánh sáng của
thực tiễn khoa học hiện đại và thực tiễn xã hội, mối
Trải qua quá trình lịch sử phát triển lâu quan hệ giữa triết học và các khoa học
dài của triết học và các khoa học, mối quan được hiểu ở một tầm cao mới, sâu sắc hơn,
hệ giữa triết học và các khoa học đã trở gắn liền với các lĩnh vực khác nhau của đời
thành một trong những “vấn đề triết học” sống xã hội. Giải quyết mối quan hệ này có
được bàn luận sâu rộng; xung quanh nó ý nghĩa sâu sắc đối với sự phát triển của
luôn luôn tồn tại những quan điểm khác bản thân triết học, cũng như của các khoa
nhau, thậm chí đối lập nhau. Có quan điểm học, và có tầm quan trọng đặc biệt tác động
tuyệt đối hóa vai trò của triết học, hạ thấp đến sự phát triển của đời sống xã hội trong
hay coi thường vai trò của các khoa học, giai đoạn hiện nay.
cho rằng chỉ cần nắm được triết học thì sẽ Mối quan hệ giữa triết học và các khoa
giải quyết được tất cả các vấn đề cụ thể của học là mối quan hệ biện chứng, vừa có sự
đời sống. Ngược lại, có quan điểm tuyệt thống nhất vừa có sự khác biệt, tác động
đối hóa vai trò của các khoa học, hạ thấp qua lại lẫn nhau. Triết học và các khoa học
hoặc gạt bỏ vai trò của triết học và cho đều là khoa học, thuộc về lĩnh vực tinh
rằng: thứ nhất, triết học nghiên cứu và giải thần của đời sống xã hội, là các hình thái ý
quyết những vấn đề quá chung nên những thức xã hội nên đều là sự phản ánh tồn tại
kết quả của nó không có tác dụng thiết xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất
thực; thứ hai, triết học không có phương định. Cả triết học, cả các khoa học khác
pháp riêng và trang thiết bị nghiên cứu đều có nguồn gốc sâu xa xuất phát từ thực
riêng như các khoa học cụ thể nên tính tiễn, là sản phẩm của thực tiễn, do nhu cầu
chân lý của các kết luận triết học không phát triển của sản xuất và đời sống, đều
được bảo đảm. hình thành và phát triển gắn liền với thực
Có thể nói, cả hai quan điểm trên đây tiễn, nhằm đáp ứng nhu cầu tất yếu của con
về mối quan hệ giữa triết học và các khoa người. Chính điều này đã được Ph.
học thực chất là cực đoan, sai lầm và đều Ăngghen khẳng định trong tác phẩm bút
rơi vào một trong hai thái cực của cùng chiến “Chống Đuy-rinh”: “Cũng như tất cả
một lối tư duy siêu hình. Bởi lẽ, để giải các khoa học khác, toán học sinh ra từ
quyết một cách có hiệu quả những vấn đề những nhu cầu thực tiễn của con người”
cụ thể mà cuộc sống đặt ra, cần phải có sự (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, tập 20, tr.59).
kết hợp chặt chẽ cả hai loại tri thức: một là, Cùng với sự phát triển của sản xuất và
15
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020)
thực tiễn, đối tượng nghiên cứu của triết đánh giá các thành tựu của các khoa học,
học và các khoa học ngày càng trở nên đa vạch ra phương hướng phát triển và
dạng, phức tạp nên triết học cùng các khoa phương pháp nghiên cứu của các khoa học.
học cũng không ngừng phát triển và đóng a. Vai trò thế giới quan của triết học
vai trò ngày càng quan trọng đối với đời đối với các khoa học
sống xã hội. Mặt khác, triết học và các khoa Theo nghĩa khoa học, thế giới quan là
học khác có điểm chung là sử dụng các toàn bộ những quan niệm của con người về
công cụ của tư duy logic, của lý trí, trí tuệ thế giới, về vị trí, vai trò của con người
con người thông qua sự khái quát hóa, trừu trong thế giới ấy, về chính bản thân và
tượng hóa, hệ thống hóa để thiết lập nên cuộc sống của con người và loài người”.
các mệnh đề, nguyên lý, phạm trù, quy luật. Như vậy, trong thế giới quan đã bao hàm
Như vậy, cơ sở khách quan của mối nhân sinh quan, tức là toàn bộ những quan
quan hệ giữa triết học và các khoa học, đó niệm về cuộc sống của con người và loài
là thực tiễn. Trên cơ sở thực tiễn mà triết người. Sự hình thành lý tưởng là trình độ
học và các khoa học, hình thành và phát phát triển cao của thế giới quan.
triển. Nhờ có thực tiễn mà các nguyên lý, Thế giới quan là nhân tố định hướng
quy luật, phạm trù của triết học, các kết quả cho quá trình hoạt động sống của con
của các khoa học mới thể hiện tính chân lý, người. Thế giới quan như một “thấu kính”
thể hiện sự phù hợp với hiện thực. Chính qua đó con người xác định mục đích, ý
thực tiễn là cơ sở thống nhất giữa triết học nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức đạt
và các khoa học. Thực tiễn đã gắn kết triết mục đích đó. Trình độ phát triển của thế
học và các khoa học trong mối quan hệ biện giới quan là tiêu chí quan trọng về sự
chứng và tạo thành một chỉnh thể – một hệ trưởng thành của mỗi cá nhân và cộng
thống các khoa học. đồng nhất định.
Tính đặc thù của mối quan hệ giữa Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân
triết học và các khoa học là ở chỗ, tùy vào lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới
từng giai đoạn phát triển cụ thể mà cái này quan phát triển như một quá trình tự giác
hay cái kia nổi trội lên hàng đầu đóng vai dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
trò chi phối. Giữa triết học và các khoa và tri thức do các khoa học đưa lại. Triết
học có sự tác động qua lại lẫn nhau; trong học là hạt nhân lý luận, là bộ phận quan
đó triết học đóng vai trò là cơ sở thế giới trọng nhất trong thế giới quan, bởi vì triết
quan và phương pháp luận cho sự phát học mô tả những vấn đề của thế giới quan
triển của các khoa học khác, còn các khoa bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù,
học cung cấp dữ liệu để từ đó triết học quy luật; nó chi phối các quan niệm khác
khái quát thành các quan điểm chung nhất, của thế giới quan, như quan niệm về đạo
kiểm chứng các luận điểm của nó. đức, văn hóa, chính trị, pháp luật, thẩm mỹ,
3. Vai trò của triết học đối với các tôn giáo.v.v. Triết học trang bị cho con
khoa học người những quan niệm về thế giới, về vị
Trong quá trình hình thành, phát triển trí, vai trò của con người trong thế giới ấy,
trên 2500 năm, triết học đóng vai trò là thế về chính bản thân và cuộc sống của con
giới quan và phương pháp luận phổ biến người và loài người, và chính là chức năng
cho các khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận để thế giới quan của triết học.
16
- NGUYỄN NGỌC KHÁ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy (Dẫn theo: Lê Hữu Tầng, 2006, tr.21).
tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan Như vậy, khi đi vào giải quyết những
triết học cơ bản đối lập nhau. Vì vậy, chúng vấn đề cụ thể của hoạt động nhận thức và
đóng vai trò là hạt nhân, là nền tảng thế giới thực tiễn, người nghiên cứu sớm muộn sẽ
quan của các hệ tư tưởng đối lập nhau. vấp phải những vấn đề chung, trong đó có
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và những vấn đề triết học mà việc giải quyết
chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện chúng là cơ sở cho việc giải quyết các vấn
bằng cách này hay cách khác cuộc đấu đề cụ thể của các khoa học.
tranh giữa những giai cấp, những lực lượng Triết học có vai trò thúc đẩy hoặc kìm
xã hội đối lập nhau. Do đó, thế giới quan hãm sự phát triển của các khoa học. Vai trò
đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh thúc đẩy hay kìm hãm của triết học đối với
quan tích cực giúp cho con người sáng tạo các khoa học tùy thuộc vào nội dung và
trong hoạt động; ngược lại, thế giới quan bản chất của triết học ấy là tiến bộ hay lạc
sai lầm làm cho con người sống thụ động hậu, cách mạng hay phản cách mạng, tích
hoặc sai lệch trong hoạt động nói chung, cực hay tiêu cực.
hoạt động khoa học nói riêng. Triết học sáng suốt dẫn đường cho các
Về vai trò của triết học đối với các khoa học phát minh, sáng chế. Lịch sử của
khoa học, trước hết là cơ sở để giải thích các khoa học cho thấy tất cả các phát minh
và định hướng nhận thức và hoạt động của khoa học, nhất là những phát minh có ý
các khoa học. A. Einstein (A. Anh-xtanh) nghĩa vạch thời đại đều được định hướng
đã từng nhận xét vào năm 1954 rằng, hay ảnh hưởng bởi những tư tưởng triết
những khó khăn mà nhà vật lý hiện nay học dẫn đường nào đó. Những hạn chế
đang vấp phải trong lĩnh vực của mình đã trong tư tưởng triết học sẽ dẫn tới cản trở
buộc ông ta phải đề cập đến những vấn đề sự phát triển của khoa học và thực tiễn.
triết học nhiều hơn nhiều so với nhà vật lý Chính do ảnh hưởng của thế giới quan duy
của các thế hệ trước. M. Plank - nhà vật lý, tâm, tôn giáo nên đã xuất hiện thuyết “Địa
cha đẻ của cơ học lượng tử khẳng định tâm” của Ptoleme (Ptô-lê-mê). Đặc biệt,
rằng, thế giới quan của người nghiên cứu trong đêm trường trung cổ ở Tây Âu do sự
luôn tham gia vào việc xác định hướng thống trị của tôn giáo và thần học, do ảnh
nghiên cứu của người đó (Xem: Bộ Giáo hưởng, chi phối của thế giới quan duy tâm
dục và Đào tạo, 2015, tr.168). Vì vậy, và chủ nghĩa kinh viện nên khoa học cũng
nghiên cứu triết học giúp ta định hướng như thực tiễn trở nên trì trệ, không phát
hoàn thiện thế giới quan. M. Plank cũng có triển trong suốt 11 thế kỷ.
nhận xét tương tự như A. Einstein: “Một Như vậy, các nhà khoa học không cần
tập hợp những sự kiện mới càng rối rắm phải nghi ngờ, dao động rằng triết học có
bao nhiêu, các tư tưởng mới càng nhiều cần thiết hay không, mà cần phải tìm kiếm,
hình nhiều vẻ bao nhiêu thì nhu cầu phải có lựa chọn tư tưởng triết học nào dẫn đường,
một thế giới quan liên kết lại càng cảm chỉ lối, như Ph.Ăng-ghen đã nhấn mạnh:
thấy trở nên bức thiết bấy nhiêu. Xu hướng “Vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi
tìm đến thế giới quan liên kết này có ý một thứ triết học tồi tệ hợp mốt, hay họ
nghĩa lớn lao không chỉ đối với vật lý học, muốn được hướng dẫn bởi một hình thức
mà còn đối với toàn bộ khoa học tự nhiên” tư duy lý luận dựa trên sự hiểu biết về lịch
17
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020)
sử tư tưởng và những thành tựu của nó” chỉ đạo tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và
(C.Mác và Ph.Ăng-ghen, tập 20, tr.693). vận dụng các phương pháp để thực hiện
Triết học, dù là khác nhau trong các hệ hoạt động nhận thức và thực tiễn sao cho
thống hay trường phái khác nhau nhưng có hiệu quả nhất. Triết học trang bị cho con
đều có cách lý giải nhất định về thế giới, từ người những nguyên tắc phương pháp luận
đó nội dung cốt lõi của nó bao giờ cũng để chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực
bao gồm những quan điểm lý luận chung tiễn của con người; đó chính là chức năng
nhất về thế giới, về vị trí, vai trò của con phương pháp luận của triết học.
người trong thế giới đó. Trên cơ sở của sự Theo nghĩa khoa học, phương pháp
lý giải ấy, triết học trở thành cái định (methodos) là hệ thống những nguyên tắc
hướng cho con người trong hành động, được rút ra từ tri thức về các quy luật
củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận
cá nhân và cộng đồng. thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện
Các quan điểm triết học giúp con mục tiêu nhất định.
người nhận thức và hoạt động thực tiễn bao Trong đời sống xã hội, để đạt được
giờ cũng xuất phát từ một lập trường nhất mục đích đề ra, con người có thể sử dụng
định. Lập trường xuất phát ấy giúp con nhiều phương pháp khác nhau để giải quyết
người thấy trước được phương hướng vận một công việc nào đó, nên luôn có xu
động chung của đối tượng, từ đó xác định hướng đi tìm tòi, tìm kiếm các phương
được con đường cần đi, phương hướng, pháp tối ưu nhất, giản đơn nhất, tiện lợi
cách thức giải quyết vấn đề, tránh được nhất, tiết kiệm thời gian nhất, nhưng lại đạt
những mò mẫm, mù quáng. Và như vậy, hiệu quả cao nhất. Để thỏa mãn nhu cầu ấy,
xuất phát từ những lập trường triết học trong lĩnh vực nhận thức đã xuất hiện một
khác nhau, con người sẽ đi đến chỗ lựa khoa học chuyên nghiên cứu về phương
chọn những phương hướng và cách thức pháp, xác định phạm vi và khả năng áp
giải quyết vấn đề một cách khác nhau. dụng các phương pháp. Khoa học ấy, chính
Điều đó có nghĩa là, việc chấp nhận là phương pháp luận.
hay không chấp nhận một lập trường triết Phương pháp luận (methodologie) là lý
học nào đó không chỉ đơn thuần là đối với luận về phương pháp, là khoa học về
một thế giới quan nhất định hay một cách phương pháp, là hệ thống các quan điểm,
lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự nguyên lý chỉ đạo để xác định các nguyên
chấp nhận hay không chấp nhận một tắc hợp thành phương pháp, cũng như xác
phương pháp luận nhất định chỉ đạo hành định phạm vi và khả năng áp dụng các
động. Vậy là, khi trở thành cái định hướng phương pháp. Mỗi luận điểm triết học đồng
cho con người trong hành động, triết học thời là một nguyên tắc trong việc xác định
thực hiện một chức năng khác - chức năng phương pháp, phạm vi và khả năng áp
phương pháp luận. dụng các phương pháp. Triết học trang bị
b. Vai trò phương pháp luận của triết cho con người có được phương pháp luận
học đối với các khoa học chung nhất, giúp con người trở nên năng
Vai trò phương pháp luận của triết học động sáng tạo, chủ động hơn trong nhận
đối với nhận thức và thực tiễn thể hiện ở thức và hoạt động thực tiễn, phù hợp với
chỗ, nó đóng vai trò định hướng trong việc xu hướng phát triển nói chung.
18
- NGUYỄN NGỌC KHÁ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Khi triết học giúp cho con người có vượt thời đại, triết học đã vạch đường, cổ
được cái nhìn tổng quát, có cách lý giải vũ cho các khoa học tiến lên, định hướng
đúng đắn về chiều hướng và về những biến cho các khoa học phát triển, trang bị những
động trên thế giới, về xã hội, về bản thân công cụ nhận thức để các khoa học khắc
mình thì chính triết học đã giúp con người phục những khó khăn, trở ngại trên con
có được sự định hướng đúng đắn trong đường phát triển của mình. Chẳng hạn: tư
hành động và củng cố sự quyết tâm hành tưởng về tính quy luật của sự phát triển đã
động để đạt được mục đích của mình. được nêu lên trong triết học sớm hơn nhiều
Chính triết học sẽ giúp con người rèn luyện thế kỷ trước khi nó được chứng minh trong
khả năng tư duy mềm dẻo, nhạy bén, vừa các khoa học cụ thể; thuyết nguyên tử ra
là để tự nhận thức bản thân mình, vừa là để đời sớm hơn hàng nghìn năm trước khi
nhận thức đúng đắn và chính xác hoàn nguyên tử được các khoa học phát hiện ra
cảnh khách quan và dự báo được những trong thực tế; tư tưởng của V. I. Lênin về
biến động của xã hội. tính vô tận, vô hạn trong cấu trúc vật chất
Triết học không chỉ giúp con người có và tính đa dạng về chất của nó là cơ sở lý
được cách nhìn nhận đúng đắn thế giới, mà luận phổ biến cho các khoa học xây dựng
còn giúp con người có được khả năng đánh bức tranh chung về thế giới.
giá những biến động đang diễn ra, gợi mở Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
cách đi, hướng giải quyết các vấn đề mà hiện đại với sự phát triển nhanh chóng của
cuộc sống đặt ra. Nó vừa thực hiện chức khoa học, cũng như những ứng dụng rộng
năng giải thích thế giới và vừa góp phần rãi của nó trong thực tiễn đã và đang làm
biến đổi thế giới. thay đổi sâu sắc đời sống con người. Con
Khẳng định trên đây cho thấy triết học đường duy nhất để khắc phục những giáo
không phải là một cái gì xa xôi, viển vông; điều, khuôn sáo, trì trệ là nắm chắc và vận
ngược lại, nó gắn bó hết sức mật thiết với dụng đúng phép biện chứng duy vật, vì
cuộc sống, với thực tiễn và đặc biệt có giá phép biện chứng duy vật là phương pháp
trị định hướng cho các khoa học. Sự phân luận phổ biến của nhận thức khoa học và
tích, lý giải triết học đối với các dữ liệu thực tiễn. Không phải ngẫu nhiên, Hồ Chí
khoa học cũng chính là sự nghiên cứu các Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Mác có ưu
hiện tượng ở tầm khái quát. Triết học điểm là phương pháp làm việc biện chứng”
không đi sâu giải quyết các vấn đề khoa (Dẫn theo: Võ Nguyên Giáp (chủ biên),
học cụ thể, mà đi sâu giải quyết các vấn đề 2003, tr.43).
thuộc về lý luận phổ quát. Phát triển song Như vậy, với vai trò thế giới quan và
hành cùng các khoa học cụ thể, triết học phương pháp luận của mình, triết học đã
vạch ra logic của các quá trình nhận thức, trở thành công cụ đắc lực cho sự phát triển
trở thành phương pháp luận phổ biến của của các khoa học.
nhận thức khoa học. 4. Vai trò của các khoa học đối với
Thực tiễn phát triển của triết học và triết học
các khoa học đã chỉ ra rằng, triết học đi a. Các khoa học cung cấp dữ liệu cho
trước các khoa học cụ thể trên nhiều lĩnh triết học
vực, bằng những kết luận đúng đắn, bằng Trong quá trình phát triển của mình,
những phỏng đoán và dự đoán mang tính triết học tự bản thân nó không trực tiếp
19
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020)
nghiên cứu các sự vật, hiện tượng cụ thể, tâm, tôn giáo, thần học ở thời kỳ Phục
mà nó sử dụng các kết quả đã đạt được hưng thế kỷ XV - XVI, mở đầu một thời kỳ
trong các khoa học khác, trong các tác mới khoa học tách khỏi tôn giáo và thần
phẩm văn học, nghệ thuật, các chuẩn mực học.
đạo đức, thẩm mỹ… và bằng tư duy lý Thuyết tiến hóa của Darwin (Đác-uyn)
luận khái quát hóa thành các luận điểm cho rằng, các giống loài thực vật, động vật
triết học, hình thành các nguyên lý, phạm không phải được sáng tạo bởi Thượng đế
trù, quy luật trong hệ thống lý luận của nó. hay “Đấng siêu nhiên”, mà là kết quả của
Tất cả những dữ liệu của các khoa học tạo quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên
thành “tài liệu thực nghiệm” mà xuất phát đã đánh đổ quan điểm duy tâm, thần luận,
từ đó các kết luận triết học được rút ra và mở ra một thời đại mới cho triết học và
quay trở lại phục vụ hoạt động nhận thức nhận thức khoa học.
và thực tiễn của con người. A. Einstein - một trong những nhà
Không phải ngẫu nhiên, từ kinh khoa học xuất sắc nhất của thế kỷ XX
nghiệm nghiên cứu của mình, N. Bohr cho không ít lần chỉ rõ các khái quát triết học
rằng, “vật lý học cần có triết học khái quát” cần dựa trên các kết quả khoa học. Thuyết
(Lê Hữu Tầng, 2006, tr.22), còn A. tương đối của ông - một phát minh vạch
Einstein và L. In-phen-đơ thì khẳng định: thời đại, theo đó, tư tưởng về sự thống nhất
“Các khái quát hóa triết học cần phải dựa giữa vật chất với vận động, không gian và
trên các kết quả khoa học. Tuy nhiên, một thời gian mang ý nghĩa thế giới quan,
khi đã xuất hiện và được truyền bá rộng phương pháp luận khoa học sâu sắc và làm
rãi, chúng thường rất ảnh hưởng đến sự tiền đề cho sự phát triển của triết học duy
phát triển tiếp tục của tư tưởng khoa học vật biện chứng và các khoa học từ thế kỷ
khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều XX trở đi.
phương hướng phát triển có thể có” (Lê Những phát minh vạch thời đại trong
Hữu Tầng, 2006, tr.22). khoa học tự nhiên cùng với những biến đổi
Sự khái quát triết học có thể hình trong các khoa học lịch sử đã góp phần đưa
thành nên những luận điểm triết học hoàn đến sự cáo chung hình thức cũ của chủ nghĩa
toàn mới, có thể bổ sung thêm nội dung duy vật, tức chủ nghĩa duy vật siêu hình; nó
mới cho những kết luận cũ, và cũng có thể cần được thay thế bằng hình thức hiện đại
hình thành nên những phạm trù triết học của chủ nghĩa duy vật, tức chủ nghĩa duy vật
mới bổ sung vào hệ thống triết học của biện chứng. Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ: “Mỗi
mình. Sự tác động của các khoa học đối lần có một phát minh mang ý nghĩa thời đại
với sự phát triển của triết học có thể tạo ngay cả trong lĩnh vực khoa học lịch sử – tự
nên phong cách tư duy triết học mới đáp nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không tránh
ứng nội dung của các khoa học và yêu cầu khỏi thay đổi hình thức của nó” (C. Mác và
của thực tiễn. Chẳng hạn: Ph. Ăng-ghen, 1995, tr.409).
Thuyết “Nhật tâm” của N. Copernic Nếu trước đây “hệ thống” được coi chỉ
(N. Cô-péc-ních) khẳng định trái đất không là khái niệm của các khoa học cụ thể,
phải là trung tâm của vũ trụ, mà chính mặt phương pháp hệ thống chỉ là phương pháp
trời mới là trung tâm của vũ trụ đã giáng chung, thì giờ đây - với sự phát triển của
một đòn mạnh mẽ vào thế giới quan duy khoa học hiện đại, “hệ thống” đã trở thành
20
- NGUYỄN NGỌC KHÁ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
một phạm trù triết học, cặp phạm trù “hệ khoa học về vật chất. Trên cơ sở đó, ông đã
thống – yếu tố” đã trở thành một trong các bảo vệ thành công, bổ sung, phát triển sáng
cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng, tạo chủ nghĩa duy vật biện chứng của C.
phương pháp hệ thống đã trở thành phương Mác trong thời đại của cuộc cách mạng
pháp phổ biến của nhận thức và thực tiễn. khoa học – công nghệ hiện đại.
Ảnh hưởng của các khoa học đến sự Trong sự phát triển của các khoa học
phát triển của triết học có thể diễn ra theo hiện đại, cùng với xu hướng xuất hiện các
hai xu hướng tích cực hoặc tiêu cực tùy ngành khoa học mới, chuyên sâu, đồng thời
thuộc vào lập trường thế giới quan, phương còn có xu hướng liên ngành, kết hợp nhiều
pháp luận của từng học thuyết triết học. ngành với nhau thành một chỉnh thể thống
Nghĩa là, một học thuyết triết học với thế nhất. Tính chất tổng hợp, liên ngành của
giới quan, phương pháp luận mang tính khoa học hiện đại không chỉ thể hiện ở sự
khoa học sẽ tiếp nhận các thành tựu khoa kết hợp các ngành truyền thống thành các
học theo hướng tích cực; ngược lại, một khoa học mới như lý - hóa, hóa - lý, sinh -
học thuyết triết học với thế giới quan, hóa, hóa - sinh, sinh - tâm lý, sinh - vật lý,
phương pháp luận mang tính phản khoa địa - vật lý… mà còn là sự xích lại gần nhau
học sẽ tiếp nhận các thành tựu khoa học giữa các ngành khoa học tự nhiên và công
theo hướng tiêu cực. Chẳng hạn, các thành nghệ với các ngành khoa học xã hội và nhân
tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX – văn. Xu hướng liên kết này xuất phát từ
đầu thế kỷ XX đã làm bộc lộ những hạn nguyên lý tính thống nhất vật chất của thế
chế của bức tranh cũ về thế giới, tạo nên giới, tính đa dạng, phức tạp của các hình
“cuộc khủng hoảng vật lý học”. Các thành thức vận động của vật chất (thực chất các
tựu ấy đã bị các nhà triết học duy tâm, kể khoa học là nghiên cứu các hình thức vận
cả một số nhà khoa học tự nhiên “giỏi về động của vật chất). Chính sự liên kết giữa
khoa học nhưng kém cỏi về triết học” lợi các khoa học với nhau cho phép triết học
dụng, hoài nghi về phạm trù “vật chất”, đưa ra một bức tranh chung nhất về thế giới,
khẳng định “vật chất bị tiêu tan”, cho rằng khắc phục tính chất phân tán, manh mún
chủ nghĩa duy vật không còn cơ sở để tồn của các khoa học chuyên ngành, xác lập cơ
tại. Chính vì không nắm vững bản chất của sở cho sự hợp tác trong nghiên cứu khoa
tư duy biện chứng nên các nhà tư tưởng ấy học. Ở phương diện này, từ các thành tựu
đã tìm đến chủ nghĩa hoài nghi rồi cho rằng của các khoa học mà triết học thể hiện vai
cần từ bỏ chủ nghĩa duy vật và thay thế trò “hạt nhân lý luận” kết nối các ngành
bằng “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”. khoa học với nhau, là trung tâm phương
Nhưng cũng với chính các phát minh pháp luận khoa học, đem lại khả năng chủ
khoa học ấy, V. I. Lênin khẳng định rằng, động và tích cực trong nghiên cứu khoa học.
chỉ có nắm vững phép biện chứng duy vật Như vậy, từ các thành tựu mà các khoa
mới có thể thoát ra khỏi “cuộc khủng học đạt được, triết học có nhiệm vụ tổng
hoảng vật lý học”. Từ lập trường của chủ kết và khái quát thành các quan điểm lý
nghĩa duy vật biện chứng, V. I. Lênin đã luận chung nhất về thế giới, về vị trí, vai
phân tích một cách sâu sắc các thành tựu trò của con người trong thế giới đó. Tất
của khoa học tự nhiên, phê phán quan điểm nhiên, trong mỗi khoa học cụ thể đều có sự
duy tâm, siêu hình, nêu lên một định nghĩa tổng kết, khái quát các tri thức khoa học
21
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020)
thành các nguyên lý, quy luật nhất định, chứng quan điểm của chủ nghĩa duy vật
nhưng những tổng kết, khái quát ấy được biện chứng về tính thống nhất vật chất của
giới hạn trong từng lĩnh vực cụ thể nhất thế giới, xác nhận tư tưởng của V. I. Lênin
định. Đặc điểm của sự khái quát triết học là về tính vô cùng tận của thế giới vật chất.
mang tính chung nhất, phổ quát nhất về các Nhiều thuộc tính đã biết của thế giới chỉ
quy luật vận động, phát triển của tự nhiên, còn mang tính chất tương đối khi người ta
xã hội và tư duy, làm cơ sở thế giới quan hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới, bởi vì,
và phương pháp luận cho mọi khoa học. “nếu như mức độ sâu sắc đó hôm qua chưa
b. Các khoa học giúp kiểm chứng các vượt quá nguyên tử, hôm nay chưa vượt
luận điểm triết học quá điện tử và trường, thì chủ nghĩa duy
Có thể xuất hiện câu hỏi: Liệu tri thức vật biện chứng nhấn mạnh tính chất tạm
triết học có đáng tin cậy không khi nó đóng thời, tương đối, gần đúng của tất cả những
vai trò là cái định hướng cho hoạt động cái mốc đó của sự nhận thức giới tự nhiên
nhận thức và thực tiễn của con người? Nếu bởi khoa học ngày càng tiến triển của con
có thì cơ sở của sự tin cậy đó là gì? người” (V. I. Lênin, 1980, tập 18, tr.323).
Một điều rõ ràng rằng, triết học cũng Với logic như vậy, vật lý học hiện đại
như các khoa học khác đều lấy thực tiễn làm đi sâu vào nghiên cứu cấu trúc của nguyên
tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Vì vậy, một tử được cấu tạo từ các hạt cơ bản như thế
mặt để xem xét tính chân lý của các tri thức nào, chỉ ra chức năng, vai trò của các hạt
triết học cần phải lấy thực tiễn để kiểm cơ bản ấy. Các hạt này được chia làm hai
nghiệm, mặt khác chính vì các luận điểm nhóm lớn: nhóm hạt Fermion tạo ra vật
triết học là kết quả của sự khái quát những chất như các quarks trong hạt nhân nguyên
thành tựu của các khoa học nên bản thân tử, các electron ở vỏ nguyên tử, và nhóm
chúng cũng là cái dữ liệu để kiểm chứng các các hạt Boson tạo ra trường lực như các
kết luận triết học. Hay nói cách khác, một Gluon (hạt truyền lực mạnh), W & Z boson
luận điểm triết học là đáng tin cậy khi nó (hạt truyền lực yếu), Photon (hạt truyền lực
được thực tiễn kiểm nghiệm hoặc được các điện từ) và Graviton - hạt truyền lực hấp
khoa học khác chứng minh, được các tài dẫn.v.v. (Xem: Bộ Giáo dục và Đào tạo,
liệu thực nghiệm kiểm chứng. 2019, tr.270).
Lịch sử khoa học tự nhiên cuối thế kỷ Ở phương diện này, những thành tựu
XIX chứng tỏ rằng, thông qua các thành mới của khoa học hiện đại không những
tựu của nó, triết học đã khái quát lên không phủ định, mà càng khẳng định tính
nguyên lý tính đa dạng về chất của thế giới khoa học, tính chân lý của triết học Mác -
vật chất, cũng như những hình thức tương Lênin về phương thức tồn tại và các thuộc
tác giữa chúng. V. I. Lênin viết: “Điện tử tính của vật chất, về tính vô cùng tận,
cũng vô cùng tận như nguyên tử; tự nhiên muôn hình muôn vẻ của thế giới vật chất.
là vô tận, nhưng nó lại tồn tại một cách vô Đó là cơ sở khoa học vững chắc cho sự
tận” (V. I. Lênin, 1980, tập 18, tr.323). Mặt phát triển của triết học và các khoa học
khác, sự phát triển của khoa học hiện đại hiện nay.
không chỉ làm sáng tỏ kết cấu của thế giới 5. Kết luận
vật chất và sự phản ánh chúng vào trong bộ Triết học và các khoa học có mối quan
óc con người, mà còn xác nhận, kiểm hệ biện chứng, mật thiết, thống nhất với
22
- NGUYỄN NGỌC KHÁ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Triết học hơn chỉ có như vậy, khoa học và triết học
đóng vai trò là thế giới quan, phương pháp mới đáp ứng được các yêu cầu phát triển
luận phổ biến định hướng cho sự phát triển của đời sống xã hội.
của các khoa học cụ thể. Nhờ có sự định Mối quan hệ giữa triết học và các khoa
hướng của triết học mà các khoa học có học đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần
phương hướng, mục đích, động cơ phát tránh cả hai thái cực: hoặc là xem thường
triển rõ ràng, tránh những trở ngại về khách triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, mù
quan cũng như chủ quan trên con đường quáng, tùy tiện, dễ bằng lòng với những
phát triển. Các khoa học cụ thể cung cấp biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất
những thành tựu để từ đó triết học khái phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng,
quát thành những quan điểm triết học, đồng thiếu chủ động, sáng tạo trong nghiên cứu
thời những thành tựu này có giá trị kiểm khoa học và hoạt động thực tiễn; hoặc là
chứng các kết luận của triết học. Các khoa tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào
học cụ thể tồn tại và phát triển không tách chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách máy
rời triết học và ngược lại, triết học cần có móc những nguyên lý, quy luật chung mà
các thành tựu của các khoa học để làm giàu không tính đến tình hình cụ thể, hậu quả là
kho tàng lý luận của mình, và quan trọng sẽ khó tránh khỏi bị thất bại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2015). Giáo trình Triết học (Dùng cho khối không chuyên ngành
Triết học trình độ đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ các ngành khoa học tự nhiên, công nghệ). Hà
Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2019). Dự thảo Giáo trình Triết học Mác – Lênin (dành cho khối
chuyên lý luận chính trị). Hà Nội.
Nguyễn Trọng Chuẩn, Tô Duy Hợp, Lê Hữu Tầng, Nguyễn Duy Thông (chủ biên). (1977).
Vai trò của phương pháp luận triết học Mác-Lênin đối với sự phát triển của khoa học tự
nhiên. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
Võ Nguyên Giáp (chủ biên). (2003). Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt
Nam. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
B.M. Ke-đrốp. (1976). Khái lược về lịch sử và lý luận phát triển khoa học. Hà Nội: NXB
Khoa học xã hội.
V. I. Lênin. (1980). V. I. Lênin toàn tập, tập 18. Mátxcơva: NXB Tiến bộ.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen. (1995). C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 20. Hà Nội: NXB Chính
trị Quốc gia.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen. (1995). C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 21. Hà Nội: NXB Chính
trị Quốc gia.
Nguyễn Duy Quý. (1998). Nhận thức thế giới vi mô. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
Lê Hữu Tầng. (2006). “Triết học có thể đóng vai trò gì trong cuộc sống?”. Tạp chí Triết
học, số 6 (181). Hà Nội.
Ngày nhận bài: 27/02/2020 Biên tập xong: 15/4/2020 Duyệt đăng: 20/4/2020
23
nguon tai.lieu . vn