Xem mẫu

Mối quan hệ giữa . . .

MỐI QUAN HỆ GIỮA “NHÂN NGHĨA” VÀ “LỢI ÍCH”
TRONG ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ CỦA MẠNH TỬ
Bùi Xuân Thanh *

TÓM TẮT
Với tư tưởng dùng nhân nghĩa trong chính trị, Mạnh Tử đặc biệt đề cao vai trò của nhân
nghĩa trong công việc trị nước của nhà cầm quyền và chủ trương tuyệt đối hóa tư tưởng đức trị của
Khổng Tử trong xã hội Trung Quốc đương thời. Để làm sáng tỏ vai trò của nhân nghĩa, Mạnh Tử đã
đối lập nhân nghĩa với lợi ích và đòi hỏi nhà cầm quyền làm chính trị là vì nhân nghĩa chứ không
vì lợi ích. Theo ông, khi nhà cầm quyền có nhân nghĩa và thi hành nhân nghĩa trong chính trị thì
việc làm đó tự nhiên sẽ mang lại lợi ích. Ngược lại, nếu họ quá đề cao lợi ích, lấy lợi ích làm điểm
xuất phát cho suy nghĩ và hành động thì sẽ làm tổn hại nhân nghĩa và có thể mất luôn lợi ích.Có
thể nói, lý luận về mối quan hệ giữa“nhân nghĩa” và “lợi ích” là tư tưởng đặc sắc, có giá trị trong
đường lối chính trị của mạnh tử nói riêng và trong học thuyết chính trị - xã hội của ông nói chung.
Từ khoá: nhân nghĩa, lợi ích, đường lối chính trị, Manh Tử

THE RELATION BETWEEN “BENEVOLENCE” AND “BENEFIT” OF
MENCIUS’ POLITICAL LINE.
ABSTRACT
With the thought of using benevolence in political, Mencius particularly gives prominence
to the role of benevolence in the govern a country of authorities and advocate absolutely the thought
of Mencius’ Rule of virtue in the then Chinese Society. To clarify the role of benevolence, Mencius
opposed benevolence and benefit and claimed the authorities doing politics for benevolence but not
for benefit. According to Mencius, If the authorities have benevolence and carry out the benevolence
in the politics, it will bring benefit. By contrast, if they give prominence to benefit, choosing benefit
as starting point for their thought and action, it will corrupt benevolence and may be lost benefit.
In fact, the theory of relation between “Benevolence” and “Benefit” is the special thought which
is very valuable in the Mencius’ political line in particular and political theory in his society in
general.
Keywords: benevolence, benefit, political line, Mencius (Mạnh Tử)
* TS. GV. Khoa Lý luận chính trị, trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh

129

Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khi nghiên cứu tư tưởng triết lý, chính trị,
đạo đức của Nho gia Tiên Tần qua các nhà tư
tưởng, với các tác phẩm lớn mà sau này được
xếp như là kinh điển của Nho gia, có thể nói
một trong những điểm đặc sắc nhất trong học
thuyết chính trị - xã hội của Mạnh Tử là lý
luận về mối quan hệ biện chứng giữa “nhân
nghĩa” và “lợi ích”. Thông qua việc bàn về
mối quan hệ này, Mạnh Tử đã đặc biệt đề cao
vai trò của nhân nghĩa. Xuất phát từ đó, ông
vận dụng nhân nghĩa vào công việc chính trị
của nhà cầm quyền hình thành nên tư tưởng
nhân chính với những nội dung cơ bản: xây
dựng đường lối chính trị nhân nghĩa, hoàn
thiện đạo đức vua quan, đề cao vai trò của dân
theo tinh thần dân bản, dưỡng dân gắn liền
với giáo hóa dân, cùng với những quan điểm
về kinh tế, chiến tranh…mang tính nhân văn
sâu sắc.

nhất quán của ông là khi: “Thiên hạ chìm đắm,
muốn tiếp cứu họ, phải dùng đạo lý (nhân,
nghĩa, lễ…) mới được” [12] Chính vì vậy,
trong học thuyết chính trị - xã hội của mình,
Mạnh Tử chủ trương nhà cầm quyền phải lấy
nhân nghĩa làm gốc trong công việc trị nước.
Trong suy nghĩ của ông, các bậc vương giả
trị quốc, bình thiên hạ là vì nhân nghĩa chứ
không phải vì lợi ích. Ông đề cao tới mức độ
tuyệt đối hóa vai trò của nhân nghĩa, đặt nó
lên trên lợi ích nên cho rằng nhà cầm quyền
không cần nói tới lợi ích mà chỉ cần nói tới
nhân nghĩa là đủ. Chính vì thế, khi Mạnh Tử
sang nước Lương, Huệ vương hỏi ông có
phương pháp gì để làm lợi cho nước mình.
Ông trả lời: Vua cần gì phải nói việc lợi? Hãy
nói việc nhân nghĩa mà thôi.
Nếu ở trên bậc quốc vương nói rằng: Có
cách gì để làm lợi cho đất nước ta? Kế đó,
hàng đại phu nói rằng: Có cách gì để làm lợi
cho gia tộc ta? Sau đó hạng sĩ và hạng bình
dân nói rằng: Có cách gì để làm lợi cho thân
phận ta? Như vậy, từ trên tới dưới đều tranh
nhau vì mối lợi, ắt vận nước phải lâm nguy
đó” [11].
Không phải ngẫu nhiên mà Mạnh Tử coi
trọng nhân nghĩa và đặt nhân nghĩa lên trên
lợi ích. Theo ông: “Những vị Thiên tử đời
trước nhân có lòng chẳng nỡ đối với kẻ khác,
thành ra phổ cập lòng thương xót người trong
việc chính trị của mình. Bởi có lòng chẳng
nỡ ấy, các ngài bèn đem lòng thương xót mà
thi hành trong chính sự, cho nên các ngài cai
trị thiên hạ dường như có thể xây trở món đồ
trên bàn tay” [11]. Trong suy nghĩ của ông,
khi nhà cầm quyền “biết làm cho bốn mối
thương xót, hổ thẹn, khiêm nhượng và phải
quấy được sung túc” nơi mình, họ sẽ đủ sức
cai trị thiên hạ. Ngược lại, nếu họ lấy lợi ích

2. NHÂN NGHĨA VÀ LỢI ÍCH
TRONG ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ CỦA
MẠNH TỬ
Nhân nghĩa được hiểu theo nghĩa khái
quát nhất là dùng nhân nghĩa trong chính trị.
Do đó, mặc dù Mạnh Tử không ưa biện luận,
nhưng để thuyết phục các vua chư hầu sử dụng
học thuyết của mình, và để triển khai những
tư tưởng cơ bản trong đường lối nhân nghĩa;
trước hết ông tập trung làm sáng tỏ vai trò của
nhân nghĩa đối với công việc cai trị của nhà
cầm quyền. Chính vì thế, lý luận về vai trò của
nhân nghĩa trong chính trị trở thành một trong
những nội dung mang tính cơ sở trong đường
lối nhân chính của Mạnh Tử nói riêng và trong
học thuyết chính trị - xã hội của ông nói chung.
Là một nhà Nho có tấm lòng nhân ái,
Mạnh Tử rất coi trọng nhân nghĩa. Lập trường
130

Mối quan hệ giữa . . .

làm mục đích cho suy nghĩ và hành động của
mình thì kẻ dưới sẽ vì lợi mà hại kẻ trên, còn
kẻ trên cũng vì lợi ích chiếm đoạt hết của cải
của kẻ dưới. Trong một quốc gia và trong cả
thiên hạ, nếu tất cả mọi người chỉ biết đuổi
theo lợi ích của bản thân mình, gia đình mình
và dòng tộc mình, tất sẽ đưa xã hội tới tình
trạng loạn lạc, mọi người tranh giành, cướp
đoạt của cải của nhau. Chính vì thế, muốn
bình trị thiên hạ, nhà cầm quyền không được
lấy lợi ích làm điểm xuất phát cũng như mục
tiêu hướng tới của đường lối cai trị.
Mạnh Tử rất coi thường những ai không
coi trọng nhân nghĩa. Trong suy nghĩ của ông,
người học theo “Thánh hiền”, nối nghiệp vua
Nghiêu, vua Thuấn, sáng vừa thức dậy đã lo
việc sửa mình và giúp đời. Còn kẻ theo phường
gian trá vừa bừng mắt ra, đã mưu tính việc lợi
cho mình. Những ai coi trọng nhân nghĩa và
biết làm nhân chính là những kẻ thiện đức. Kẻ
nào trong lòng thường sinh ra tư tưởng dục lợi
là những kẻ đạo tặc. Ông viết: “Nghe gà gáy
rộ mà thức dậy, chăm chăm làm việc thiện,
người ấy là phái đồ của vua Thuấn, bậc trí
đức vậy. Nghe gà gáy rộ mà thức dậy, chăm
chăm là việc lợi, kẻ ấy là môn đồ của người
Chích, tay cướp tổ vậy”[12]. Theo đó, nhân
nghĩa là phẩm chất không thể thiếu của vua và
các bậc quan lại, nói rộng ra là của nhà cầm
quyền. Mạnh Tử phê phán gay gắt vua Trụ là
kẻ làm hại đức nhân nghĩa nên không xứng
đáng làm vua. Vì vậy khi Tề Tuyên vương hỏi
ông về trường hợp vua chư hầu Võ vương giết
vua Trụ nhà Thương: “Bề tôi mà giết vua có
nên chăng?”. Ông trả lời: “ Kẻ làm hại đức
nhân gọi là tặc; kẻ làm hại đức nghĩa gọi là
tàn. Kẻ tàn, kẻ tặc chẳng qua là một người
thường mà thôi. Tôi từng nghe vua Võ vương
chỉ giết một người thường là Trụ thôi, chứ tôi

chưa hề nghe giết vua”[11]. Thông qua việc
phê phán vua Trụ, Mạnh Tử muốn khuyến cáo
Tề Tuyên vương không được coi thường nhân
nghĩa trong đạo trị nước. Theo ông, một vị vua
bất nhân và bất nghĩa tất sẽ cai trị bằng “bạo
ngược” đẩy nhân dân vào cảnh “nước lửa”. Đó
chính là nguyên nhân dẫn đến sự phản kháng
của dân đối với vua, khiến vua phải trả giá
bằng chính mạng sống của mình. Ngược lại,
một ông vua biết coi trọng nhân nghĩa, thi hành
nhân chính, tất sẽ nhận được sự ủng hộ của dân
để làm nên nghiệp lớn. Do đó ông khuyên vua
Mục Công nước Trâu: “Nếu vua thi hành nền
chính trị nhân đức, ban ân huệ cho dân, khiến
các quan chức trông nom dân chúng thì bá tính
sẽ thương mến người bề trên của mình và dám
liều chết vì kẻ lớn của mình”[11].
Có thể nói, đạo trị nước của Mạnh Tử tóm
gọn trong hai chữ nhân chính và hoài bão lớn
nhất của ông là làm thế nào cho đức nhân
nghĩa trở thành lẽ sống của mỗi người trong
xã hội. Để đức nhân nghĩa có thể lan rộng và
tỏa sáng, Mạnh Tử bôn ba các nước không
mệt mỏi khuyên các vua chư hầu thực hiện
đường lối nhân chính. Nếu Khổng Tử khuyên
người ta “phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ
vật ngôn, phi lễ vật động: sắc chi chẳng hợp
lễ thì mình đừng ngó, tiếng chi chẳng hợp lễ
thì đừng nghe, lời chi chẳng hợp lễ thì mình
đừng nói, việc chi chẳng hợp lễ thì mình đừng
làm”[10], thì nguyên tắc của Mạnh Tử là
nghe điều nhân nghĩa, nói điều nhân nghĩa và
làm điều nhân nghĩa. Điều đó được thể hiện
qua câu nói của ông với Cảnh Sửu: “Ta đây,
ngoài cái đạo lý của vua Nghiêu, vua Thuấn,
ta chẳng dám đem điều gì khác mà tâu bày
trước vua”[11]. Cái đạo lý của vua Nghiêu
vua Thuấn mà Mạnh Tử nói tới ở đây chính
là đạo nhân nghĩa. Mạnh Tử cho rằng các vị
131

Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät

“Thiên tử” đời trước là những người có nhân
nghĩa, biết “phổ cập lòng thương xót người
trong việc chính trị của mình”, nghĩa là biết
đem lòng nhân nghĩa thi hành trong chính
trị nên sự nghiệp mới bền vững. Nhắc lại lời
Khổng Tử: Đạo chỉ có hai đường nhân và bất
nhân, Mạnh Tử chỉ ra đạo trị nước cũng chỉ
có hai đường nhân và bất nhân. Theo ông, sở
dĩ các triều đại trong quá khứ được thiên hạ
là nhờ biết làm nhân (đó là các trường hợp
vua Vũ lập ra nhà Hạ, vua Thương lập ra nhà
Thương và vua Võ vương dựng lên nhà Chu).
Ngược lại, các triều đại mất thiên hạ là do làm
điều bất nhân (đó là các trường hợp vua Kiệt
làm mất nhà Hạ, vua Trụ để mất nhà Thương,
vua Lệ và vua U nhà Chu mất ngôi). Chính vì
lẽ đó, Mạnh Tử đòi hỏi các vua chư hầu phải
trị nước theo pháp tiên vương. Đối với ông,
đó là cách duy nhất để đưa xã hội Trung Quốc
đương thời ra khỏi cảnh loạn lạc, phân tranh,
và đó cũng là phương pháp tốt nhất để một
ông vua củng cố sự nghiệp.
Cố nhiên, khi lấy nhân nghĩa làm gốc
trong đạo trị nước, Mạnh Tử có lý lẽ riêng
của ông. Ông tin tưởng rằng: “Hiện nay nếu
vua chư hầu chịu hành chính như Văn vương,
trong bảy năm ắt nền nhân chính sẽ phổ khắp
thiên hạ”[12]. Mặt khác, trong suy nghĩ của
ông, “Đức nhân là chỗ an ổn của người đời.
Đức nghĩa là con đường chính đại của người
đời”[12], nên khi nhà cầm quyền cai trị bằng
bạo lực là không biết “ở trong đức nhân và noi
theo đức nghĩa”. Như vậy có thể đưa dân vào
khuôn khổ nhưng không thể thu phục lòng
dân. Từ đó cho thấy, thi hành nhânnghĩa trong
chính trị về thực chất là trị nước bằng đắc
nhân tâm. Nói cách khác là nhà cầm quyền
phải thu phục nhân tâm bằng đức nhân nghĩa
của mình.

Thế nhưng thời đại của Mạnh Tử là thời
đại của chiến tranh và loạn lạc. Trong bối
cảnh ấy Mạnh Tử không thể không nhận
thấy xã hội Trung Quốc đương thời vẫn xảy
ra những trường hợp mặc dù nhà cầm quyền
lấy nhân nghĩa làm trọng trong đường lối trị
quốc, nhưng họ vẫn không nhận được sự phục
tùng, tin yêu của dân nên sự nghiệp không bền
vững. Lý giải về những trường hợp ấy, Mạnh
Tử cho rằng không phải vì đức nhân nghĩa
không thể thu phục nhân tâm mà do lòng nhân
của kẻ cai trị chưa đủ để cảm hóa lòng người.
Mặt khác, theo ông nhân phải gắn liền với
trí. Đã có nhân trong suy nghĩ mà không biết
làm nhân là không có trí. Vậy nên “Mình yêu
thương người mà người chẳng thân mến, vậy
mình nên tự xét coi mình có đủ lòng nhân hay
chăng. Mình cai trị người mà người chẳng
phục tùng, vậy mình nên xét coi mình có đủ
trí sáng hay chăng” [12].
Theo đó, đạo trị nước phải gắn liền nhân
với trí. Khi nhà cầm quyền có đủ nhân và trí,
tất sẽ biết được điều gì nên làm để làm, điều
gì không nên làm để không làm, nên sẽ cảm
hóa được lòng dân, thu phục được nhân tâm.
Khi đề xuất đường lối nhân chính với nhà
cầm quyền, mọi chủ trương, chính sách Mạnh
Tử đưa ra chỉ vì nhân nghĩa chứ không vì lợi
ích. Thế nhưng, xét tới cùng, bản chất của mối
quan hệ giữa người với người trong xã hội,
giữa cá nhân với tập thể, cũng như giữa cá
nhân với xã hội lại là mối quan hệ lợi ích. Vậy
việc Mạnh Tử kịch liệt phản đối những ai nói
tới lợi ích có phải do ông không hiểu rằng lợi
ích là động lực cơ bản chi phối mọi hành vi
của con người?
Chúng tôi cho rằng Mạnh Tử hoàn toàn
không phủ nhận lợi ích ngay cả khi ông đối
lập nhân nghĩa với lợi ích. Thực ra việc đối
132

Mối quan hệ giữa . . .

lập nhân nghĩa với lợi ích chỉ là cái cách mà
Mạnh Tử đề cao nhân nghĩa. Phản đối việc
người đời lấy lợi ích làm động cơ cho hành
động của họ vì Mạnh Tử không tin rằng xuất
phát từ lợi ích, người ta lại có thể giữ được
nhân nghĩa. Đặt nghĩa và lợi trong mối quan
hệ một chiều, ông có dụng ý làm rõ công dụng
của nhân nghĩa. Ông tin tưởng rằng khi nhà
cầm quyền có nhân nghĩa và thi hành nhân
nghĩa trong chính trị thì việc làm đó tự nhiên
sẽ mang lại lợi ích. Ngược lại, nếu họ quá đề
cao lợi ích, lấy lợi ích làm điểm xuất phát cho
suy nghĩ và hành động thì sẽ làm tổn hại nhân
nghĩa và có thể mất luôn lợi ích. Chính vì lẽ đó
khi Tống Hinh muốn đem điều lợi để khuyên
Tần và Sở không nên đánh nhau, Mạnh Tử đã
phân tích về sự có hại của việc làm này, qua
đó làm nổi bật vai trò của nhân nghĩa. Ông
nói: Nếu tiên sinh đem việc lợi mà nói với vua
nước Tần và vua nước Sở, hai vua ấy đẹp lòng
vì chỗ lợi, bèn bãi hết các sư đoàn trong tam
quân… Rồi kẻ làm tôi vì ham lợi nên thờ vua.
Kẻ làm con vì ham lợi nên thờ cha. Kẻ làm em
vì ham lợi nên thờ anh. Như vậy, vua tôi, cha
con, anh em rốt cuộc đều bỏ hết điều nhân và
điều nghĩa; ai nấy đều giao tiếp nhau chẳng
qua vì lòng tham lợi mà thôi. Nước nhà như
thế mà chẳng diệt vong, thì chưa từng có vậy.
Còn như tiên sinh đem điều nhân và điều
nghĩa mà nói với vua nước Tần và vua nước
Sở, hai vua ấy đẹp lòng về chỗ nhân và chỗ
nghĩa, bèn bãi hết các sư đoàn trong tam
quân… Rồi ra, kẻ làm tôi vì mộ nhân nghĩa
nên thờ vua, kẻ làm con vì mộ nhân nghĩa nên
thờ cha. Kẻ làm em vì mộ nhân nghĩa nên thờ
anh. Như vậy, vua tôi, cha con, anh em rốt
cuộc đều bỏ tuyệt điều lợi, ai nấy đều giao
tiếp nhau chỉ vì lòng hâm mộ nhân nghĩa mà
thôi. Cần chi phải nói chuyện lợi?”[12]. Tư

tưởng trên đây của Mạnh Tử đượm tinh thần
nhân văn sâu sắc. Nó chứng tỏ ông là nhà tư
tưởng có tấm lòng nhân ái, luôn đề cao nhân
nghĩa. Coi nhân nghĩa là gốc của đạo làm
người, Mạnh Tử muốn nới lòng mình lan tỏa
tới mọi người để đức nhân nghĩa được phổ
cập rộng khắp và khuyến cáo nhà cầm quyền
phải biết dùng nhân nghĩa điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội, đưa thiên hạ trở lại hữu đạo.
Tuy nhiên, việc Mạnh Tử đề cao tới mức
độ tuyệt đối hóa vai trò của nhân nghĩa và đòi
hỏi con người phải lấy nhân nghĩa đối xử với
nhau trong cuộc sống một cách vô điều kiện,
cho thấy ông chưa nhìn rõ sức mạnh thực sự
của bản năng, của cái phần “động vật” trong
con người với vô số nhu cầu cần phải thỏa
mãn. Mặt khác, chúng ta hiểu rằng con người
muốn hướng thiện nhưng con người lại không
thể chối bỏ bản năng nên ngay trong suy nghĩ
của mỗi người luôn luôn tồn tại sự đấu tranh
giữa lợi ích và sự thánh thiện. Khi Mạnh Tử
kêu gọi mỗi người, cả nước, cả thiên hạ hãy
sống vì nhân nghĩa thì lời kêu gọi ấy của ông
mang tính giáo dục hơn là tính phương pháp
trong công việc trị nước của nhà cầm quyền.
Thế nhưng tại sao Mạnh Tử lại đối lập
nghĩa với lợi và khuyên nhà cầm quyền phải
quên lợi? Xét tới cùng, đó chỉ là cái cách đề
cao nghĩa của ông. Nếu như Khổng Tử coi
nghĩa là đức tính quan trọng để phân biệt
người quân tử với kẻ tiểu nhân nên đặt nghĩa
lên trên tư lợi cá nhân và đòi hỏi con người
không được vì lợi mà quên nghĩa, thì Mạnh
Tử đã đi xa hơn một bước bằng cách tuyệt đối
hóa vai trò của nghĩa, đòi hỏi người ta phải
quên lợi vì nghĩa. Trong suy nghĩ của Mạnh
Tử, lợi là quan tước, bổng lộc, tiền của… luôn
cám dỗ con người, làm cho con người không
còn giữ được nhân nghĩa. Hơn nữa, thời đại
133

nguon tai.lieu . vn