Xem mẫu

  1. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng nước ngoài, được ngân hàng nước ngoài đảm bảo chịu trách nhiệm đối với mọi nghĩa vụ và cam kết của chi nhánh tại Việt nam. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền và nghĩa vụ do pháp luật Việt nam quy định, hoạt động theo giấy phép mở chi nhánh và các quy định có liên quan của pháp luật Việt nam. II. Chức năng của ngân hàng thƣơng mại (1 tiết) Các ngân hàng thương mại thực hiện các chức năng sau đây: 1. Chức năng trung gian tín dụng Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay, điều này thể hiện ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian tín dụng. Một mặt, ngân hàng thương mại hu y động các khoản tiền nhàn rỗi ở mọi chủ thể trong xã hội. Mặt khác, ngân hàng thương mại dùng nguồn vốn đã huy động được để cho vay lại đối với các chủ thể cần vốn trong xã hội. Như vậy, ngân hàng thương mại là một trung gian về tín dụng giữa các chủ thể dư thừa vốn và những chủ thể thiếu vốn. Hoạt động trên của ngân hàng thương mại mang tính chất kinh doanh, bởi vì khi cho vay, ngân hàng thương mại đặt ra mức lãi suất cao hơn so với khi huy động vốn. Hoạt động này ngày càng được mở rộng nhiều, nó tiết kiệm được các chi phí về thông tin và giao dịch cho nền kinh tế. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại góp phần tạo lợi ích cho tất cả các chủ thể kinh tế tham gia và lợi ích chung của nền kinh tế. _ Đối với người gửi tiền Người gửi tiền sẽ thu được lợi từ các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi dưới hình thức lãi tiền gửi, đồng thời ngân hàng cùng đảm bảo an toàn cho các khoản tiền gửi và cung cấp cho khách hàng những dịch vụ thanh toán tiện lợi. _ Đối với người vay Người vay sẽ được thỏa mãn nhu cầu về vốn để kinh doanh, chi tiêu, thanh toán mà không phải tiêu tốn nhiều sức lực, thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và an toàn. _ Đối với ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại sẽ tìm kiếm được khoản lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi. Đây là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại. _ Đối với nền kinh tế Chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, vì nó đáp ứng được nhu cầu về vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này, ngân hàng thương mại đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. 2. Chức năng trung gian thanh toán Trong nền kinh tế, khi chưa có hoạt động ngân hàng hoặc mới có những hoạt động sơ khai (nhận bảo quản tiền đúc) thì các khoản giao dịch thanh toán giữa những người sản xuất kinh doanh và các đối tượng khác đều được thực hiện một cách trực tiếp, người trả tiền và người thụ hưởng tự kiểm soát các giao dịch thanh toán, đồng thời sử dụng tiền mặt để chi trả trực tiếp. Khi ngân hàng thương mại ra đời và hoạt động trong nền kinh tế thì dần dần các khoản giao dịch thanh toán giữa các đơn vị và cá nhân đều được thực hiện qua hệ thống ngân hàng. 116
  2. Trên cơ sở hoạt động đi vay để cho vay, ngân hàng thương mại đã cung cấp các dịch vụ thanh toán cho các khách hàng. Thay cho việc thanh toán trực tiếp, các đơn vị, cá nhân có thể nhờ ngân hàng thương mại thực hiện những công việc này dựa trên những khoản tiền họ đã gửi ở ngân hàng, thông qua việc mang tiền của người phải trả chuyển cho người được hưởng bằng nhiều hình thức khác nhau với kỹ thuật ngày càng tiên tiến và thủ tục ngày càng đơn giản. Những dịch vụ thanh toán của ngân hàng thương mại ngày càng được ưa chuộng vì nó đem lại sự thuận tiện,an toàn và tiết kiệm chi phí hơn cho những chủ thể trong nền kinh tế. Đối với ngân hàng thương mại, khi thực hiện chức năng trung gian thanh toán sẽ tạo điều kiện để mở rộng quan hệ khách hàng, không chỉ hỗ trợ cho sự phát triển của hoạt động huy động tiền gửi mà còn đối với cá hoạt động cho vay. 3. Chức năng tạo tiền Khi kết hợp chức năng trung gian thanh toán và chức năng trung gian tín dụng tạo ch o ngân hàng thương mại khả năng tạo ra tiền ghi sổ thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Từ một lượng tiền gửi ban đầu, qua nghiệp vụ cho vay dưới hình thức chuyển khoản, đã làm cho số dư trên tài khoản tiền gửi trong hệ thống ngân hàng thương mại tăng lên. Những hoạt động mà ngân hàng thương mại thực hiện đã làm hình thành nên một cơ chế tạo tiền trong toàn hệ thống ngân hàng. Từ những khoản tiền nhận được từ ngân hàng trung ương hoặc những khoản tiền gửi ban đầu, ngân hàng thương mại sử dụng để cho vay, sau đó những khoản tiền này sẽ được quay lại ngân hàng thương mại một phần khi những người sử dụng gửi tiền vào dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn. Quá trình huy động tiền gửi và cho vay của ngân hàng thương mại trên cơ sở lượng tiền được cung ứng ban đầu sẽ được kéo dài và chỉ dừng lại khi nào toàn bộ lượng tiền được cung ứng ban đầu quay trở về hết ngân hàng trung ương dưới dạng tiền gửi dự trữ bắt buộc. Khi đó các ngân hàng thương mại đã có một số dư rất lớn trên các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn. III. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thƣơng mại (1,5 tiết) 1. Hoạt động tạo lập nguồn vốn (Nghiệp vụ Nợ) 1.1. Vốn tự có Vốn tự có bao gồm _ Vốn điều lệ Đây là số vốn mà ngân hàng thương mại phải có để đi vào hoạt động và được ghi vào điều lệ. _ Các quỹ của ngân hàng Các quỹ của ngân hàng thương mại bao gồm Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ (gọi tắt là quỹ dự trữ) Quỹ đầu tư phát triển Quỹ dự phòng tài chính Quỹ dự phòng trợ cấp Quỹ khen thưởng phúc lợi,… _ Các tài sản nợ khác Các tài sản nợ khác bao gồm Vốn đầu tư xây dựng và mua sắm tài sản do Nhà nước cấp 117
  3. Các khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản Lợi nhuận được để lại chưa phân bổ cho các quỹ 1.2. Vốn huy động Vốn huy động của ngân hàng thương mại bao gồm nội tệ và ngoại tệ được hình thành từ hai bộ phận: vốn huy động từ tiền gửi và vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá. _ Tiền gửi + Tiền gửi thanh toán Tiền gửi thanh toán là tiền gửi của các tổ chức, cá nhân. Khi gửi tiền không kỳ hạn theo tài khoản thanh toán thể hiện một hợp đồng mặc nhiên giữa ngân hàng và khách hàng, theo đó ngân hàng phải có trách nhiệm thực hiện các khoản chi trả cho khách hàng một cách kịp thời, đầy đủ và chính xác. Mục đích của loại tiền gửi này là nhằm bảo đảm an toàn về tài sản và thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Tài khoản được sử dụng cho loại tiền gửi thanh toán là tài khoản giao dịch hay còn gọi là tài khoản séc vì phần lớn các giao dịch thông qua tài khoản này được thực hiện bằng séc. + Tiền gửi có kỳ hạn Các tổ chức và cá nhân có thu nhập tạm thời chưa sử dụng đến trong một thời hạn nhất định có thể gửi vào ngân hàng dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn . Khác với tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn nhằm mục đích lợi nhuận. Đối với các ngân hàng, tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn ổn định trong kinh doanh, nên lãi suất mà ngân hàng phải trả cho tiền gửi này cao hơn lãi suất trả cho tiền gửi thanh toán. Tiền gửi có kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao. + Tiền gửi tiết kiệm Đây là hình thức huy động vốn truyền thống của ngân hàng. Với loại tiền gửi này, người gửi được ngân hàng giao cho một sổ tiết kiệm, trong thời gian gửi tiền sổ tiết kiệm có thể dùng làm vật cầm cố hoặc chiết khấu để vay ngân hàng. + Tiền gửi khác Ngoài các loại tiền gửi trên, ngân hàng thương mại còn có một số khoản tiền gửi khác như: Tiền gửi của tổ chức tín dụng khác Tiền gửi của Kho bạc nhà nước Tiền gửi của các tổ chức đoàn thể xã hội,… _ Vốn huy động thông qua phát hành các giấy từ có giá Vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá là việc ngân hàng thương mại phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng để huy động. Trong hình thức huy động này, ngân hàng chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội nhằm bổ sung nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng. 1.3. Vốn vay của các tổ chức tín dụng khác và của ngân hàng trung ương Đây là nguồn vốn được hình thành bởi các mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau, hoặc giữa các tổ chức tín dụng với ngân hàng trung ương. 118
  4. Ngân hàng trung ương cho các tổ chức tín dụng vay vốn ngắn hạn dưới hình thức tái cấp vốn theo các loại sau: Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. 1.4. Các nguồn vốn khác Bên cạnh các nguồn vốn trên, ngân hàng thương mại có thể tạo lập vốn cho mình từ nhiều nguồn khác như _ Vốn ủy thác đầu tư, tài trợ cảu Chính phủ hoặc của các tổ chức trong và ngoài nước cho các chương trình, dự án phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội Đây là nguồn vốn mà ngân hàng có được do làm đại lý nhận ủy thác của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện đầu tư cho những chương trình, dự án. Thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng sẽ được hưởng hoa hồng phí. _ Vốn được tạo ra trong quá trình ngân hàng làm đại lý bán cổ phiếu, trái phiếu cho các doanh nghiệp hay kho bạc nhà nước … 2. Sử dụng và khai thác các nguồn vốn (Nghiệp vụ Có) Sử dụng và khai thác nguồn vốn là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của ngâ n hàng thương mại 2.1. Hoạt động ngân quỹ Hoạt động ngân quỹ là hoạt động phục vụ cho việc chi trả đối với khách hàng, nó bao gồm nghiệp vụ quỹ tiền mặt, tiền gửi ở các ngân hàng khác và ngân hàng trung ương. Hoạt động ngân quỹ là hoạt động không sinh lời, nhưng lại rất quan trọng đối với các ngân hàng thương mại vì nó góp phần tăng cường khả năng thanh toán và chi trả đối với khách hàng. 2.2. Hoạt động cho vay Bao gồm cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn: _ Cho vay ngắn hạn Cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn dưới 12 tháng. Đây là loại cho vay phổ biến của ngân hàng thương mại nhằm bổ sung vốn tạm thời thiếu hụt của các doanh nghiệp, dân cư. _ Cho vay trung và dài hạn Cho vay trung và dài hạn là loại cho vay được thực hiện đối với những chươ ng trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội có thời hạn từ 12 tháng trở lên. Loại cho vay này ngày càng được các ngân hàng thương mại quan tâm. Một mặt chúng đáp ứng yêu cầu vay vốn trung và dài hạn của xã hội để mở mang ngành nghề sản xuất kinh doanh, đầu tư và xây dựng cơ bản,… Mặt khác chúng cũng phù hợp với khả năng huy động vốn ngày một nhiều của ngân hàng thương mại. Hoạt động cho vay được thực hiện thông qua các hình thức phổ biến sau: Chiết khấu thương phiếu Cho vay ứng trước Cho vay vượt chi 119
  5. Cho vay cầm cố Cho vay thế chấp tài sản Cho vay hợp vốn Cho vay tiêu dùng … 2.3. Hoạt động đầu tư Ngân hàng thương mại ngoài hoạt động ngân quỹ, hoạt động cho vay còn dành một tỷ lệ vốn nhất định để thực hiện hoạt động đầu tư. Bộ phân vốn được ngân hàng thương mại sử dụng trong hoạt động này phải có tính ổn định cao, chủ yếu là vốn tự có. Các hình thức đầu tư phổ biến như: góp vốn liên doanh liên kết, đầu tư chứng khoán… 3. Các hoạt động khác Đây là những hoạt động được thực hiện theo sự ủy thác của khách hàng. Có thể kể đến một số hoạt động chủ yếu sau: _ Thanh toán hộ tiền hàng hóa - dịch vụ _ Chuyển tiền _ Quản lý tài sản Bảo quản tài sản cho các cá nhân Bảo quản các chứng thư quan trọng ( chúc thư, giấy từ nhà đất,…) Bảo quản tài sản quý giá ( vàng, bạc, đá quý, kỷ vật,…) Bảo quản và lưu giữ chứng khoán cho khách hàng _ Dịch vụ tư vấn tài chính, đầu tư phát triển, thẩm định dự án, cung cấp thông tin và tư vấn về kinh doanh _ Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, đá quý, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế _ Dịch vụ nhận và chi trả kiều hối, thu đổi ngoại tệ,… IV. Nguyên tắc chung trong quản lý hoạt động ngân hàng thƣơng mại (0,5 tiết) 1. Đảm bảo khả năng thanh toán thƣờng xuyên đối với khách hàng Đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên đối với khách hàng là yêu cầu tối cao với hoạt động của bất kỳ ngân hàng thương mại nào. Nó xuất phát từ đặc trưng cơ bản nguồn vốn hoạt động của ngân hàng thương mại là dựa chủ yếu vào vốn bằng tiền nhàn rỗi trong xã hội. Hơn nữa nó cũng là dấu hiệu nói lên khả năng tài chính mạnh hay yếu của một ngân hàng thương mại. 2. Bảo đảm mức sinh lời cao Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của ngân hàng thương mại. Dù hoạt động trong bất kỳ điều kiện nào thì các ngân hàng thương mại đều phải phấn đấu để có mức lợi nhuận cao. Để đạt được điều này, các ngân hàng thương mại phải đẩy mạnh hoạt động cho vay và đầu tư, cho vay được nhiều với những khoản cho vay có độ an toàn cao, tiền lãi cao. 3. Xử lý hài hòa mối quan hệ giữa yêu cầu đảm bảo khả năng thanh toán thƣờng xuyên và yêu cầu mức sinh lời cao Trong kinh doanh muốn đứng vững và cạnh tranh, ngân hàng thương mại phải giữ rủi ro trong giới hạn nhất định, phải đảm bảo khả năng thanh khoản ở mức độ cần thiết trong kết cấu tài sản có và mức độ sinh lãi có thể chấp nhận được. Tất cả những điều này sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả tài chính của ngân hàng thương mại. 120
  6. V. Vai trò của ngân hàng thƣơng mại (0,5 tiết) 1. Ngân hàng thƣơng mại giúp các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh Trong nền kinh tế thị trường, muốn mở rộng quy mô sản xuất đòi hỏi doanh nghiệp phải có lượng vốn lớn để đổi mới thiết bị và công nghệ lạc hậu. Trong điều kiện đó, ngân hàng thương mại một mặt đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn thiếu hụt, cung cấp dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện tốt kế hoạch sản xuất kinh doanh. Mặt khác, thông qua hoạt động kiểm soát quá trình sử dụng vốn của các doanh nghiệp vay, ngân hàng thương mại giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. 2. Các ngân hàng thƣơng mại góp phần phân bố hợp lý các nguồn lực giữa các vùng trong quốc gia, tạo điều kiện phát triển cân đối nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại một mặt góp phần hình thành duy trì và phát triển nền kinh tế theo một cơ cấu ngành và khu vực nhất định. Mặt khác, các ngân hàng thương mại góp phần điều chỉnh ngành, khu vực khi xuất hiện sự phát triển mất cân đối hoặc khi cần sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. 3. Ngân hàng thƣơng mại tạo ra môi trƣờng cho việc thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ƣơng Để thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương sử dụng các công cụ như lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc,… Chính ngân hàng thương mại là chủ thể chịu sự tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế. 4. Ngân hàng thƣơng mại là cầu nối cho việc phát triển kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia Vai trò này của ngân hàng thương mại thể hiện thông qua các nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu, quan hệ thanh toán với các tổ chức tài chính, ngân hàng và doanh nghiệp quốc tế giúp cho việc thanh toán, trao đổi mua bán được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, an toàn và hiệu quả. C. TÓM TẮT CH ƢƠNG 1. Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Ngân hàng thương mại là định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường. Quá trình ra đời và phát triển của ngân hàng thương mại trải qua 3 giai đoạn. Dựa vào hình thức sở hữu, ngân hàng thương mại được phân loại thành ngân hàng thương mại quốc doanh (ngân hàng thương mại nhà nước), ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng thương mại liên doanh và chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài. 2. Các ngân hàng thương mại thực hiện các chức năng: chức năng trung gian tín dụng, chức năng trung gian thanh toán, chức năng tạo tiền. Thông qua việc đi vay để cho vay, ngân hàng thương mại là một trung gian về tín dụng giữa các chủ thể dư thừa vốn và những chủ thể thiếu vốn đồng thời ngân hàng thương mại đã cung cấp các dịch vụ thanh toán cho các khách hàng. Khi kết hợp chức năng trung gian thanh toán và chức năng trung gian tín dụng tạo cho ngân hàng thương mại khả năng tạo ra tiền ghi sổ thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. 3. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại bao gồm hoạt động tạo lập nguồn vốn (Nghiệp vụ Nợ), sử dụng và khai thác các nguồn vốn (Nghiệp vụ Có), và các hoạt động khác. 121
  7. Nguồn vốn của ngân hàng được hình thanh từ vốn tự có, vốn huy động, vốn vay của các tổ chức tín dụng khác và của ngân hàng trung ương, và các nguồn vốn khác. Nghiệp vụ Có của n gân hàng thương mại bao gồm hoạt động ngân quỹ, hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư. Các hoạt động khác là các hoạt động được thực hiện theo sự ủy thác của khách hàng. Nguyên tắc chung trong quản lý hoạt động ngân hàng thương mại phải tuân thủ nguyên tắc chung: đ ảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên đối với khách hàng, bảo đảm mức sinh lời cao, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa yêu cầu đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên và yêu cầu mức sinh lời cao. 4. Ngân hàng thương mại có vai trò của quan trọng: N gân hàng thương mại giúp các doanh nghiệp có vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh; ngân hàng thương mại góp phần phân bố hợp lý các nguồn lực giữa các vùng trong quốc gia, tạo điều kiện phát triển cân đối nền kinh tế; ngân hàng thương mại tạo ra môi trường cho việc thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương; và ngân hàng thương mại là cầu nối cho việc phát triển kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia. D. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Trình bày quá trình ra đời và phát triển của ngân hàng thương mại. 2. Phân loại ngân hàng thương mại theo hình thức sở hữu. 3. Trình bày các chức năng của ngân hàng thương mại. 4. Trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, hoạt động nào là quan trong nhất? Tại sao? 5. Nguyên tắc chung trong quản lý hoạt động ngân hàng thương mại. 6. Trình bày vai trò của ngân hàng thương mại. E. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Frederic S.Mishkin. 2001. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính. Trang 254-292. Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật. Hà nội. 2. PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn. 2004. Tiền tệ - ngân hàng. Trang 125-163. Nhà xuất bản Thống kê. Hà nội. 3. TS. Nguyễn Minh Kiều. 2006. Tiền tệ - ngân hàng. Trang 160-186. Nhà xuất bản Thống kê. Hà nội. 4. GS.TS. Dương Thị Bình Minh,TS. Sử Đình Thành. 2004. Lý thuyết tài chính tiền tệ. Trang 190-203. Nhà xuất bản Thống kê. Hà nội. 5. TS. Nguyễn Thị Mùi. 2001. Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng. Trang 82-90. Nhà xuất bản Xây dựng. Hà nội. 6. TS. Nguyễn Thị Mùi. 2004. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại. Trang 5-13. Nhà xuất bản Thống kê. Hà nội. 7. TS. Nguyễn Hữu Tài. 2002. Lý thuyết tài chính tiền tệ. Trang 175-204. Nhà xuất bản Thống kê. Hà nội. 8. PGS.TS. Lê Văn Tề, TS. Nguyễn Văn Hà. 2004. Lý thuyết tài chính tiền tệ. Trang 246- 272. Nhà xuất bản Thống kê. Hà nội. 122
  8. Chƣơng 8 NGÂN HÀNG TRUNG ƢƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ A. MỤC TIÊU CỦA CHƢƠNG Sinh viên nắm được các nội dung cơ bản sau: _ Sự ra đời của Ngân hàng trung ương _ Mô hình và hệ thống tổ chức của ngân hàng trung ương _ 3 chức năng của ngân hàng trung ương ( Ngân hàng phát hành, ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng của nhà nước) _ Vai trò của ngân hàng trung ương _ Chính sách tiền tệ (khái niệm, mục tiêu, nội dung, công cụ) _ Sự ra đời và phát triển; tổ chức bộ máy; chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ngân hàng nhà nước Việt nam B. NỘI DUNG BÀI GIẢNG (6 tiết) I. Sự ra đời của Ngân hàng trung ƣơng (1 tiết) Quá trình hình thành ngân hàng trung ương ở các nước khác nhau là một quá trình lâu dài và thường là đa dạng, do ở mỗi nước có những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội. Nhìn chung sự ra đời của Ngân hàng trung ương được phát triển theo một trật tự nhất định. Thời kỳ đầu ( từ khoảng thế kỷ 12 đến thế kỷ 18 ) ở hầu hết các nước Châu Âu, các ngân hàng kinh doanh tiền tệ lần lượt ra đời, nói chung thực hiện những chức năng tương tự nhau, bao gồm nhận tiền gửi, cho vay, phát hành kỳ phiếu của ngân hàng mình vào lưu thông, thực hiện các dịch vụ tiền tệ khác. Về sau ( từ khoảng thế kỷ 18 và thế kỷ 19 ) do quy mô và phạm vi lưu thông hàng hóa được mở rộng, trong lưu thông có quá nhiều loại kỳ phiếu ngân hàng tư nhân đã gây cản trở cho giao lưu và phát triển kinh tế. Do đó, nhà nước của các nước đã bắt đầu can thiệp vào hoạt động của hệ thống ngân hàng bằng cách hạn chế số lượng các ngân hàng được phép phát hành kỳ phiếu ngân hàng. Nhà nước ban hành luật lệ chỉ cho phép một hoặc một số ngân hàng có năng lực tài chính lớn và có tín nhiệm hơn cả được thực hiện chức năng phát hành kỳ phiếu ngân hàng. Từ đó hệ thống ngân hàng được phân định thành 2 loại: - Những ngân hàng được phép phát hành tiền được gọi là ngân hàng phát hành. Đây là những ngân hàng lớn, có uy tín, tài chính vững mạnh. Ngân hàng phát hành giảm dần và đi đến không giao dịch với công chúng mà chỉ giao dịch với các ngân hàng trung gian. - Những ngân hàng không được phép phát hành tiền được gọi chung là ngân hàng trung gian. Ngân hàng trung gian giao dịch với công chúng, thực hiện kinh doanh tiền tệ thuần túy. Tuy nhiên số ngân hàng được phép phát hành tiền ở từng nước cũng còn tới hàng chục ngân hàng, đều thuộc sở hữu tư nhân. Sẽ không có gì đảm bảo rằng những tư nhân này sẽ không đưa ra những chính sách có hại cho quốc gia, cho nền kinh tế khi mà quyền lợi cá nhân của họ bị đe dọa hoặc là mâu thuẫn với lợi ích quốc gia. Tức là, việc ngân hàng phát hành vẫn thuộc sở hữu tư nhân sẽ không cho phép Nhà nước có thể can thiệp một cách thường xuyên và kịp thời vào hoạt động kinh tế thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ ( Nhà nước không thể chủ động 123
  9. kiểm soát được khối lượng tiền phát hành, không có điều kiện can thiệp vào hoạt động của hệ thống tài chính để điều khiển kinh tế thông qua tác động của tiền tệ ). Vì vậy, từ khoảng đầu thế kỷ 19 trở đi, lần lượt các nước đã tiến hành thành lập ngân hàng phát hành do Nhà nước quản lý, thực hiện cơ chế một ngân hàng độc quyền ph át hành tiền để thông qua ngân hàng này, Nhà nước có thể chủ động việc kiểm soát phát hành tiền và điều tiết khối lượng tiền cung ứng, phục vụ cho quản lý và phát triển kinh tế. Đặc biệt từ sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 và sau thế chiến lần thứ hai phần lớn các nước đều tiến hành quốc hữu hóa ngân hàng phát hành chuyển thành sở hữu của nhà nước. Đây chính là quá trình hình thành ngân hàng phát hành và xác lập cho ngân hàng này chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, được gọi là Ngân hàng trung ương. Việc quốc hữu hóa ngân hàng phát hành được thực hiện bằng cách Nhà nước bỏ tiền ra mua lại toàn bộ cổ phiếu của ngân hàng phát hành. Toàn bộ hội viên của hội đồng quản trị và bộ máy lãnh đạo điều hành, thanh tra, kiểm soát đều do nhà nước bổ nhiệm trên cơ sở cơ cấu cũ trước khi quốc hữu hóa. Như vậy sự ra đời của ngân hàng trung ương là hệ quả của quá trình chuyển hóa ngân hàng thương mại thành ngân hàng phát hành, và ngân hàng phát hành thành ngân hàng trung ương gắn liền với sự can thiệp của Nhà nước trên lĩnh vực này. Sự ra đời của ngân hàng trung ương xuất phát từ đòi hỏi của sản xuất và lưu thông hàng hóa, cùng với yêu cầu của Nhà nước trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ. Nó ra đời không vì mục đích tìm kiếm doanh lợi, mà xuất phát từ yêu cầu của quản lý và điều tiết lưu thông tiền tệ, thực hiện nhiệm vụ ổn định tiền tệ, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, an toàn và có hiệu quả để phát triển kinh tế. Dù tên gọi không giống nhau như Quỹ dự trữ liên bang, Ngân hàng nhà nước, Viện phát hành,… chúng đều có chung một tính chất: ngân hàng trung ương. Hiện nay, ở một số nước ngân hàng trung ương không hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của nhà nước nhưng hoạt động vẫn mang tính chất như một ngân hàng của nhà nước và cơ quan quản lý cao nhất của nó là do nhà nước bổ nhiệm và miễn nhiệm. Chẳng hạn: Ngân hàng trung ương Nhật Bản là ngân hàng cổ phần ( nhà nước chiếm 55%) nhưng cơ quan quản trị ngân hàng có 7 thành viên do chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm. Hệ thống dự trữ liên bang Mỹ là ngân hàng cổ phần với hội đồng thống đốc có 7 thành viên do Tổng thống đề cử và Quốc hội bổ nhiệm,… II. Mô hình và hệ thống tổ chức của Ngân hàng trung ƣơng (0,5 tiết) 1. Mô hình tổ chức Sự ra đời của ngân hàng trung ương là do yêu cầu khách quan của việc quản lý phát hành tiền và điều tiết lưu thông tiền tệ … Ngân hàng trung ương là cơ quan độc quyền phát hành tiền và thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng với nhiệm vụ cơ bản là ổn định giá trị tiền tệ. Để thực hiện chức năng nhiệm vụ đó, ngân hàng trung ương phải chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ. Do đó ngân hàng trung ương có vị trí đặc biệt trong bộ máy quản lý và điều hành kinh t ế vĩ mô. Cho đến nay trên thế giới có 2 mô hình tổ chức ngân hàng trung ương: 1.1. Ngân hàng trung ương độc lập với Chính phủ (Ngân hàng trung ương trực thuộc Quốc hội) Theo mô hình này, Chính phủ không có quyền can thiệp vào hoạt động của Ngân hàng trung ương, đặc biệt là trong việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. Mô hình này được xây dựng dựa trên quan điểm cho rằng: Chính phủ là người thực thi chính sách tài chính quốc gia, quản lý, điều hành ngân sách nhà nước. Để ngân hàng trung ương trực thuộc Chính phủ sẽ bị Chính phủ lạm dụng công cụ phát hành tiền để trang trải sự thiếu hụt 124
  10. của ngân sách nhà nước, từ đó dễ gây ra lạm phát. Mặt khác ngân hàng trung ương mất hẳn tính độc lập và chủ động trong việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. Tiêu biểu cho mô hình này là Quỹ dự trữ liên bang Mỹ và Ngân hàng dự trữ liên bang Đức. Ngân hàng dự trữ liên bang Đức không trực thuộc Chính phủ khi thực hiện các nghiệp vụ của mình, đồng thời có trách nhiệm ủng hộ chính sách kinh tế chung của Chính phủ. Quỹ dự trữ liên bang Mỹ: cơ quan quản lý cao nhất là hội đồng thống đốc có 7 thành viên. Thành viên của Hội đồng thống đốc không được tái nhiệm. Chính phủ khó có thể chi phối hoạt động của ngân hàng trung ương. 1.2. Ngân hàng trung ương trực thuộc Chính phủ Theo mô hình này, Chính phủ có ảnh hưởng rất lớn đối với ngân hàng trung ương thông qua việc bổ nhiệm các thành viên của bộ máy quản trị và điều hành ngân hàng trung ương, thậm chí Chính phủ còn can thiệp trực tiếp vào việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. Mô hình này được xây dựng trên quan điểm cho rằng: Chính phủ là người thực hiện chức năng quản lý nhà nước, thực hiện vai trò quản lý kinh tế vĩ mô, do đó chính phủ phải nắm và sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô. Việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là một trong những công cụ chủ yếu trong tổng thể các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Chính phủ phải nắm lấy ngân hàng trung ương để sử dụng ngân hàng này trong việc thực hiện các chức năng của Chính phủ. Như vậy, ngân hàng trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng. Nhưng nó khác với tính chất quản lý của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Ngân hàng trung ương thực hiện chức năng quản lý không chỉ đơn thuần bằng các luật lệ, các biện pháp hành chính mà còn thông qua các nghiệp vụ mang tính kinh doanh sinh lời. Ngân hàng trung ương có các khoản thu nhập từ các tài sản có của mình như chứng khoán chính phủ, kinh doanh trên thị trường ngoại hối, cho vay chiết khấu,…Hai mặt quản lý và kinh doanh gắn chặt với nhau trong tất cả các hoạt động của ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh chỉ là phương tiện để quản lý, không phải là mục đích của ngân hàng trung ương. Hầu hết các khỏan thu nhập của Ngân hàng trung ương, sau khi trừ các chi phí hoạt động, đều phải nộp vào ngân sách nhà nước. 2. Hệ thống tổ chức Hệ thống tổ chức của ngân hàng trung ương được bố trí theo tuyến dọc: bên trên là ngân hàng trung ương, tỏa dọc xuống là các chi nhánh trực thuộc đặt trên các địa bàn các tỉnh, thành phố. Hệ thống tổ chức này đảm bảo cho ngân hàng trung ương vận hành các hoạt động của mình một cách thông suốt, nhạy bén theo nguyên tắc tập trung thống nhất. * Về cơ chế quản trị, điều hành Trong bộ máy quản lý, điều hành vĩ mô của Nhà nước, ngân hàng trung ương có vị tr í đặc biệt, cùng với nhiệm vụ xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền, cho nên việc quản trị và điều hành hoạt động của ngân hàng trung ương được thực hiện theo một cơ chế đặc biệt so với các Bộ chức năng của nhà nước. _ Về cơ chế quản trị Hiện nay, hầu hết các nước đều thực hiện theo cơ chế lãnh đạo dưới hình thức một hội đồng. Hội đồng này được nhà nước bổ nhiệm gồm những người có chuyên môn cao, có trình độ quản lý,… Chức năng chủ yếu của Hội đồng là quyết định những chủ trương, chính sách về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, chỉ đạo, giám sát các hoạt động của ngân hàng trung ương, tư vấn cho 125
  11. Chính phủ các vấn đề về kinh tế-tiền tệ. Đứng đầu hội đồng là chủ tịch hội đồng – thường là Thống đốc ngân hàng trung ương. Chẳng hạn: Ngân hàng dự trữ liên bang Đức: cơ quan quản trị là hội đồng ngân hàng trung ương. Các thành viên hội đồng gồm có: Thống đốc ngân hàng liên bang, Thống đốc các ngân hàng trung ương bang. Thống đốc ngân hàng liên bang đồng thời là chủ tịch hội đồng. Quỹ dự trữ liên bang Mỹ: cơ quan quản trị là hội đồng thống đốc gồm 7 thành viên được Tổng thống đề cử và Thượng viện phê chuẩn để phục vụ trong nhiệm kỳ 4 năm. Các thành viên thường là các nhà kinh tế chuyên nghiệp hoặc những nhà ngân hàng chuyên nghiệp. Đứng đầu hội đồng này là chủ tịch hội đồng thống đốc do Thượng viện bổ nhiệm. _ Về cơ chế điều hành Thống đốc ngân hàng trung ương là người trực tiếp điều hành, giúp việc cho thống đốc có một số phó thống đốc. Để thực hiện chức trách của mình, thốnh đốc sử dụng một b ộ máy tổ chức gồm các vụ, cục, chi nhánh trực thuộc. Thống đốc là người chịu trách nhiệm trước Quốc hội hoặc Chính phủ và trước hội đồng quản trị về thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngân hàng trung ương. III. Chức năng của ngân hàng trung ƣơng (1 tiết) 1. Ngân hàng trung ƣơng là ngân hàng phát hành và điều tiết lƣu thông tiền tệ Khi ngân hàng trung ương ra đời và hoạt động thì toàn bộ việc phát hành giấy bạc ngân hàng được tập trung vào ngân hàng trung ương theo chế độ nhà nước độc quyền phát hành tiền. Ngân hàng trung ương trở thành trung tâm phát hành tiền của đất nước. Giấy bạc ngân hàng do Ngân hàng trung ương phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp, làm chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán. Do đó việc phát hành tiền của ngân hàng trung ương có tác động trực tiếp đến tình hình lưu thông tiền tệ của đất nước. Để cho giá trị đồng tiền được ổn định, đòi hỏi việc phát hành tiền phải tuân theo những nguyên tắc nghiêm ngặt. Đó là: _ Phát hành tiền dựa vào dự trữ vàng Giấy bạc ngân hàng phát hành vào lưu thông phải có vàng nằm trong kho của ngân hàng làm đảm bảo. Mức đảm bảo ở mỗi nước có sự co giãn khác nhau. Nhìn chung có 3 hình thức duy trì đảm bảo sau đây: + Nhà nước quy định một hạn mức phát hành, khối lượng phát hành phải nằm trong hạn mức pháp định. + Nhà nước quy định tối đa lượng giấy bạc trong lưu thông và không quy định mức dự trữ vàng làm đảm bảo cho lượng giấy bạc đó. + Nhà nước quy định mức dự trữ vàng tối thiểu cho khối lượng giấy bạc phát hành. _ Phát hành tiền có đảm bảo bằng giá trị hàng hóa thông qua cơ chế tín dụng Việc phát hành giấy bạc được thực hiện qua cơ chế tín dụng ngắn hạn trên cơ sở đảm bảo bằng giá trị hàng hóa thể hiện trên kỳ phiếu thương mại và các chứng từ nợ khác. Điều này làm cho việc phát hành giấy bạc gắn với nhu cầu thực tế của lưu thông hàng hóa, đảm bảo cho tổng lượng tiền tệ phù hợp với tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ trên thị trường. Việc phát hành này của ngân hàng trung ương được thực hiện bằng phương pháp tái chiết khấu các chứng từ có giá của các tổ chức tín dụng. 126
  12. Việc phát hành tiền thông qua cơ chế tín dụng có ý nghĩa quan trọng. Thứ nhất, khối lượng tiền phát hành vào lưu thông xuất phát từ nhu cầu tiền tệ phát sinh do tăng trưởng kinh tế đòi hỏi. Giấy bạc ngân hàng được đảm bảo bằng khối lượng hàng hóa và dịch vụ. Thứ hai, tạo khả năng để ngân hàng trung ương thực hiện kiểm soát khối lượng tiền tệ cung ứng theo nhu cầu của mục tiêu ổn định tiền tệ. Hiện nay, trong điều kiện lưu thông giấy bạc ngân hàng không được tự do chuyển đổi ra vàng theo luật định, các nước trên thế giới đều chuyển sang chế độ phát hành giấy bạc thông qua cơ chế tái cấp vốn cho các ngân hàng và hoạt động trên thị trường mở của Ngân hàng trung ương. Bên cạnh đó, với việc độc quyền phát hành tiền, Ngân hàng trung ương thực hiện việc kiểm soát khối lượng tiền cung ứng được tạo ra từ các ngân hàng thương mại bằng quy chế dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu,… Tóm lại, Ngân hàng trung ương không chỉ độc quyền phát hành tiền tệ mà còn quản lý và điều tiết lượng tiền cung ứng, thực hiện chính sách tiền tệ, đảm bảo ổn định giá trị đồng tiền nước mình. 2. Ngân hàng trung ƣơng là ngân hàng của các ngân hàng Trên cơ sở độc quyền phát hành tiền, ngân hàng trung ương thực hiện việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian và kiểm soát quá trình tạo tiền của các ngân hàng trung gian – khách hàng của ngân hàng trung ương. 2.1. Ngân hàng trung ương mở tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân hàng trung gian Thông thường, các ngân hàng trung gian không sử dụng hết nguồn vốn của mình để cho vay mà duy trì một mức dự trữ nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán. Dự trữ gồm tiền mặt tại quỹ và tiền gửi tại ngân hàng trung ương và các ngân hàng khác. Bất cứ một ngân hàng trung gian nào cũng đều phải mở tài khoản và gửi tiền vào ngân hàng trung ương. Tiền gửi đó gồm 2 loại: _ Tiền gửi dự trữ bắt buộc Tiền gửi dự trữ bắt buộc áp dụng bắt buộc đối với các ngân hàng trung gian có huy động vốn tiền gửi của công chúng. Mức dự trữ cao hay thấp tùy theo quy định của ngân hàng trung ương trong từng thời kỳ cho phù hợp với chính sách tiền tệ. Mục đích của việc bắt buộc dự trữ này là để giới hạn mức tín dụng tối đa mà ngân hàng trung gian có thể cung cấp, tránh trường hợp các ngân hàng trung gian huy độn g được bao nhiêu cho vay bấy nhiêu dẫn đến mất khả năng thanh toán, ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền và nền kinh tế. Bên cạnh đó, việc tập trung dự trữ của ngân hàng trung gian tại ngân hàng trung ương còn là một phương tiện để ngân hàng trung ương có thêm quyền lực điều khiển hệ thống ngân hàng, thực thi chính sách tiền tệ. Hiện nay, cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ, các hình thức bảo hiểm tiền gửi ra đời đã giảm bớt khả năng xảy ra nhu cầu rút tiền bất thường. Vì vậy, tỷ lệ dự trữ b ắt buộc ngày càng giảm ở hầu hết các quốc gia. Hiện nay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc thường được đề cập đến với tư cách là công cụ của chính sách tiền tệ. _ Tiền gửi thanh toán Ngoài tiền gửi dự trữ bắt buộc, các ngân hàng trung gian còn gửi thêm khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng trung ương. Mục đích nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán thường xuyên giữa các ngân hàng với nhau và để điều chỉnh mức dự trữ bắt buộc khi cần. Bên cạnh đó, các ngân hàng trung gian mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng trung ương còn giúp ngân hàng trung 127
  13. ương có thể tận dụng nguồn vốn tạm thời dư thừa của các ngân hàng trung gian để thực hiện các chức năng của mình. 2.2. Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian Ngân hàng trung ương thực hiện cấp tín dụng cho các n gân hàng trung gian nhằm đảm bảo cho nền kinh tế đủ phương tiện thanh toán cần thiết trong từng thời kỳ nhất định. Mặt khác, thông qua đó để điều tiết lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế theo yêu cầu của chính sách tiền tệ. Trong quá trình hoạt động, các ngân hàng trung gian sử dụng vốn tập trung, huy động được để cho vay đối với nền kinh tế. Khi xuất hiện nhu cầu vay tiền ngân hàng trung ương làm phương tiện thanh toán, các ngân hàng này được ngân hàng trung ương cấp tín dụng theo những điều kiện nhất định, phù hợp yêu cầu chính sách tiền tệ. Hoạt động cho vay từ ngân hàng trung ương đối với các ngân hàng trung gian là một nghiệp vụ phát hành. Xét ở góc độ đó, ngân hàng trung ương có vai trò chủ động trong quá trình cho vay. Tuy nhiên, không phải lúc nào ngân hàng trung ương cũng có thể chủ động được, mà có những trường hợp ngân hàng trung ương thụ động trong việc cho vay, đó là khi cần phải cứu các ngân hàng trung gian thoát khỏi bở vực phá sản do mất khả năng thanh toán. Do hoạt động chính của ngân hàng trung gian là đi vay để cho vay và hoạt động này không phải bao giờ cũng thuận lợi. Những đợt rút tiền ồ ạt của dân chúng vì nhiều lý do ( chẳng hạn: lãi suất trở nên thấp so với lạm phát, ngân hàng mất lòng tin của dân chúng,…) dễ làm cho ngân hàng trung gian mất khả năng thanh toán. Trong trường hợp này, ngân hàng trung gian không thể thu hồi tiền cho vay về kịp để chi trả, không còn chỗ vay mượn nào khác, tìm đến ngân hàng trung ương vay tiền như là một phương cách cuối cùng. Trong trường hợp này ngân h àng trung ương đóng vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các ngân hàng trung gian. Tuy nhiên cần phải để ý: nếu ngân hàng trung ương dễ dãi trong việc cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian thì sẽ tạo cho ngân hàng trung gian tâm lý ỷ lại, làm cho độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng tăng cao. Chẳng hạn, nếu một ngân hàng trung gian biết được ngân hàng trung ương sẽ cấp tín dụng cho nó khi gặp khó khăn, ngân hàng trung gian này sẽ chấp nhận nhiều rủi ro hơn trong kinh doanh vì cho rằng ngân hàng trung ương sẽ cho vay trong trường hợp xấu nhất. Đặc biệt là những ngân hàng lớn (đây là những ngân hàng mà sự phá sản của nó có thể gây nên một sự khủng hoảng tài chính-tiền tệ. Đây là một điều nguy hiểm cho nền kinh tế. Do vậy ngân hàng trung ương cần rất thận trọng, không sử dụng thường xuyên vai trò người cho vay cuối cùng của mình. Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian bằng nhiều phương pháp khác nhau: _ Tái chiết khấu Ngân hàng trung ương mua lại những phiếu nợ chưa đến hạn mà ngân hàng trung gian đã chiết khấu cho khách hàng trước đây để hưởng lợi tức tái chiết khấu, nhưng thực ra thông qua nghiệp vụ này mà ngân hàng trung ương có thể giúp cho các ngân hàng thỏa mãn được nhu cầu thanh toán, đồng thời ngân hàng trung ương thực hiện việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế theo yêu cầu của chính sách tiền tệ. Trong nghiệp vụ tái chiết khấu, lãi suất tái chiết khấu là công cụ quan trọng hàng đầu, có thể tác động đến việc mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tín dụng trong nền kinh tế. _ Cho vay bổ sung nguồn vốn ngắn hạn cho các ngân hàng trung gian. _ Cho vay bù đắp vốn trong thanh toán liên ngân hàng. 128
  14. 2.3. Ngân hàng trung ương là trung tâm thanh toán của các ngân hàng Gắn với nghiệp vụ phát hành tiền, nghiệp vụ gửi tiền và cho vay đối với các ngân hàng trung gian, ngân hàng trung ương là đầu mối thanh toán tiền ngân hàng, giúp cho các ngân hàng trung gian thực hiện thông suốt trong quan hệ thanh toán với nhau xuất phát từ sự phát triển dịch vụ thanh toán phục vụ khách hàng của họ Hoạt động của Tung tâm thanh toán gắn liền với sự phát triển dịch vụ thanh toán của các ngân hàng trung gian, tạo lập mạng lưới thanh toán liên hoàn trong phạm vi cả nước, cùng với việc cải tiến, hiện đại hóa công nghệ thanh toán có ý nghĩa quyết định cho việc tập tr ung các luồng chu chuyển tiền tệ vận động qua ngân hàng. Nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng trung ương được tiến hành bằng các phương thức: _ Thanh toán từng lần Ngân hàng trung ương thực hiện thanh toán theo yêu cầu của các ngân hàng trung gian căn cứ trên chứng từ và lệnh chi của họ. Mỗi khi có nhu cầu thanh toán, các ngân hàng trung gian gửi các chứng từ thanh toán đến ngân hàng trung ương yêu cầu trích tiền từ tài khoản của mình để trả cho ngân hàng thụ hưởng. _ Thanh toán bù trừ Ngân hàng trung ương là trung tâm tổ chức thanh tóan bù trừ giữa các ngân hàng, kể cả kho bạc nhà nước. Việc thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng được tiến hành định kỳ hoặc cuối mỗi ngày làm việc. Việc thanh toán được dựa trên cơ sở trao đổi các chứng từ thanh toán nợ kèm theo bảng kê khai thanh toán bù trừ của các ngân hàng hoặc thực hiện bù trừ thông qua hệ thống vi tính, số dư cuối cùng được thanh toán bằng cách trích tài khoản của người phải trả nợ tại ngân hàng trung ương. 2.4. Ngân hàng trung ương thực hiện việc quản lý nhà nước đối với hệ thống ngân hàng Ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý và điều tiết hoạt động của hệ thống ngân hàng, cụ thể: _ Ngân hàng trung ương thẩm định và cấp giấy chứng nhận hoạt động cho ngân hàng trung gian _ Ngân hàng trung ương quy định nội dung, phạm vi hoạt động kinh doanh và các quy chế nghiệp vụ đòi hỏi các ngân hàng trung gian phải tuân thủ, các hệ số an toàn trong quá trình hoạt động của ngân hàng trung gian. _ Ngân hàng trung ương điều tiết các hoạt động kinh doanh của ngân hàng trung gian bằng những biện pháp kinh tế và hành chính. Chẳng hạn như ngân hàng trung ương quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, ban hành chính sách lãi suất, tỷ lệ hoa hồng, lệ phí áp dụng trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trung gian,… _ Ngân hàng trung ương thanh tra và kiểm soát thường xuyên và toàn diện các hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng, áp dụng các chế tài trong các trường hợp vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo cho cả hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, an toàn và có hiệu quả. _ Ngân hàng trung ương quyết định đình chỉ hoạt động hoặc giải thể đối với các ngân hàng trung gian trong các trường hợp vi phạm nghiêm trọng pháp luật hoặc mất khả năng thanh toán. 3. Ngân hàng trung ƣơng là ngân hàng của nhà nƣớc Chức năng này của ngân hàng trung ương thể hiện ở một số điểm: 129
  15. _ Ngân hàng trung ương thuộc sở hữu nhà nước _ Ban hành các văn bản pháp quy theo thẩm quyền của mình về tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; kiểm tra thực hiện các văn bản pháp luật có liên quan. _ Mở tài khỏan, nhận và trả tiền gửi của Kho bạc nhà nước _ Tổ chức thanh toán cho Kho bạc nhà nước trong quan hệ thanh toán với các ngân hàng _ Làm đại lý cho Kho bạc nhà nước trong một số nghiệp vụ _ Bảo quản dự trữ quốc gia về ngoại hối, các chứng từ có giá _ Cung cấp tín dụng và tạm ứng cho Ngân sách nhà nước trong những trường hợp cần thiết. _ Thay mặt nhà nước quản lý các hoạt động tiền tệ - tín dụng và thanh toán đối nội, đối ngoại của đất nước. _ Ngân hàng trung ương thay mặt chính phủ ký kết các hiệp định tiền tệ, tín dụng và thanh toán với nước ngoài và tham gia với cương vị là thành viên của một số tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế. IV. Vai trò của ngân hàng trung ƣơng (1 tiết) 1. Vai trò điều tiết khối lƣợng tiền trong lƣu thông Mức cung tiền có tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế thông qua sự thúc đẩy mức tăng, giảm tổng sản phẩm quốc nội. Do vậy điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông phù hợp với yêu cầu ổn định và phát triển kinh tế giữ vị trí quan trọng bậc nhất trong các nhiệm vụ của n gân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương thực hiện vai trò này thông qua các công cụ điều tiết trực tiếp và gián tiếp: lãi suất, hạn mức tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở,… 2. Vai trò thiết lập và điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế Ngân hàng trung ương tham gia vào việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm thiết lập một cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả cao, phù hợp với thực tiễn nền kinh tế đất nước và hội nhập với sự phát triển kinh tế trong khu vực và trên thế giới. 3. Vai trò ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia Để ổn định sức mua đồng tiền quốc gia, ngân hàng trung ương góp phần cân đối tổng cầu và tổng cung của toàn xã hội thông qua việc ổn định sức mua đối nội của đồng tiền quốc gia. Bên cạnh đó, ngân hàng trung ương tác động mạnh đến cân đối cung cầu ngoại tệ để giữ vững tỷ giá hối đoái, góp ổn ổn định sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia. Từ đó vừa đẩy mạnh xuất khẩu, vừa tăng cường nhập khẩu phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 4. Vai trò chỉ huy đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng Với chức năng ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng trung ương chỉ huy toàn bộ hệ thống ngân hàng. Việc chỉ huy hệ thống ngân hàng phải được thực hiện bằng những định hướng có căn cứ khoa học, sự nắm bắt các tín hiệu thị trường nhanh nhạy, sự phân tích sắc bén các diễn biến trong các lĩnh vực tín dụng, thanh toán, thị trường tiền tệ, thị trường vốn,…và đưa ra các giải pháp điều chỉnh hữu hiệu. Việc chỉ huy của ngân hàng trung ương đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng phải dựa vào hành lang pháp lý nghiêm ngặt, đội ngũ cán bộ điều hành, cán bộ nghiệp vụ thành thạo về chuyên môn, trong sạch về phẩm chất. 130
  16. V. Chính sách tiền tệ (1,5 tiết) 1. Khái niệm Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương soạn thảo và tổ chức thực hiện nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời kỳ nhất định. Trong nền kinh tế, có nhiều chính sách vĩ mô, mỗi chính sách đều có vị trí và vai trò riêng của nó, trong đó chính sách tiền tệ luôn được coi là một chính sách quan trọng, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều chính sách vĩ mô khác. Ổn định tiền tệ và nâng cao sức mua đồng tiền trong nước luôn được coi là mục tiêu có tính chất dài hạn. Ngân hàng trung ương điều hành chính sách tiền tệ phải kiểm soát được tiền tệ làm sao cho phù hợp giữa khối lượng tiền và tổng sản phẩm quốc dân, giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng, không gây thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu lưu thông. Có thể nói Chính sách tiền tệ là hệ thống các quan điểm, các chủ trương và biện pháp của Nhà nước nhằm tác động và điều chỉnh các hoạt động về tiền tệ - tín dụng, ngân hàng và ngoại hối, tạo ra sự ổn định của lưu thông tiền tệ để thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển. Xét cho cùng, chính sách tiền tệ có thể xác định theo một trong hai hướng sau: _ Chính sách tiền tệ mở rộng là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm. Trong trường hợp này, chính sách tiền tệ nhằm vào chống suy thoái. _ Chính sách tiền tệ thắt chặt là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế. Trong trường hợp này, chính sách tiền tệ nhằm vào việc kiềm chế lạm phát. Chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản, chủ yếu nhất của Ngân hàng trung ương. Có thể coi chính sách tiền tệ là linh hồn xuyên suốt trong mọi hoạt động của Ngân hàng trung ương. Các hoạt động khác của ngân hàng trung ương đều nhằm thực thi chính sách tiền tệ đạt được các mục tiêu của nó. 2. Mục tiêu Trong nền kinh tế thị trường, nhiệm vụ chung của chính sách tiền tệ là một mặt cung ứng đủ tiền cho nền kinh tế, mặt khác đảm bảo sự ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều này có nghĩa là chính sách tiền tệ theo đuổi các mục tiêu sau: 2.1. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả, ổn định sức mua của đồng tiền Trong điều kiện lưu thông tiền vàng hay tiền giấy tự do chuyển đổi ra vàng thì giá trị tiền tệ luôn luôn được ổn định do cơ chế tự phát của tiền vàng. Trong điều kiện lưu thông tiền giấy không được tự do chuyển đổi ra vàng, lạm phát luôn là khả năng tiềm tàng, ngân hàng trung ương coi việc kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ. Kiểm soát lạm phát nhằm ổn định giá cả hàng hóa, dịch vụ là tiền đề cho việc phát triển kinh tế lâu dài, đảm bảo ổn định đời sống người lao động. Thông qua chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương có thể góp phần quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát. Với chính sách tiền tệ mở rộng, lượng cung tiền trong nền kinh tế sẽ tăng, giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng lên dẫn đến tình trạng lạm phát. Ngược lại, với chính 131
  17. sách tiền tệ thắt chặt, hạn chế lượng cung tiền trong nền kinh tế, giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ giảm xuống, tỷ lệ lạm phát sẽ giảm. Kiểm soát lạm phát được biểu hiện trước hết ở chỗ ổn định giá trị đối nội của đồng tiền ( sức mua của nó đối với hàng hóa và dịch vụ trên thị trường trong nước) và giá trị đối ngoại của đồng tiền (được đo bằng tỷ giá hối đoái thả nổi). Trong nền kinh tế mở, tỷ giá đồng tiền được các quốc gia đặc biệt quan tâm. Bởi vì, một sự tăng lên trong giá trị đồng bản tệ so với ngoại tệ sẽ hạn chế xuất khẩu. Ngược lại, giá trị đồng bản tệ giảm xuống so với ngoại tệ sẽ khuyến k hích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền có quan hệ mật thiết với nhau. Muốn ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế - xã hội, nhà nước phải có biện pháp ổn định giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nước cũng như ổn định tỷ giá hối đoái. 2.2 Tăng trưởng kinh tế Một nền kinh tế phát triển bền vững với tốc độ tăng trưởng ổn định là mục tiêu của bất kỳ chính sách kinh tế vĩ mô nào. Khi nền kinh tế có mức tăng trưởng cao, sẽ nâng thu nhập của người lao động, đảm bảo các chính sách xã hội được thỏa mãn, trên cơ sở đó ổn định về chính trị và xã hội. Thực hiện mục tiêu này, ngân hàng trung ương thường cung thêm một khối lượng tiền vào lưu thông. Khi khối tiền tăng lên, lãi suất tín dụng thường giảm xuống, kích thích đầu tư, tăng tổng sản phẩm quốc nội. Mặt khác, khi tăng khối lượng tiền làm tăng tổng cầu, kích thích gia tăng sản xuất. Ngược lại, khối lượng tiền giảm, đầu tư giảm, tổng sản phẩm quốc nội giảm. 2.3. Tạo công ăn việc làm Cùng với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chính sách tiền tệ cũng hướng vào mục tiêu tạo công ăn việc làm cho mỗi người, nhất là đối với các quốc gia chưa phát triển. Chính sách tiền tệ chỉ có thể hướng vào việc tạo ra công ăn việc làm nhiều hơn, thông qua các tác động để mở rộng đầu tư, mở rộng hoạt động kinh tế. Chống thất nghiệp, tạo công ăn việc làm chỉ có thể đạt tới mức nhân dụng cao nhất, khó có thể toàn dụng nhân công. Muốn đạt được mục tiêu về công ăn việc làm thì phải chống suy thoái, đạt được mức tăng trưởng ổn định. Nếu chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương nhằm mở rộng cung ứng tiền tệ thì sẽ tạo điều kiện mở rộng đầu tư sản xuất, các doanh nghiệp và nền kinh tế cần nhiều lao động hơn, công ăn việc làm cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp. Ngược lại, cung ứng tiền tệ giảm xuống sẽ thu hẹp các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp và nhà nước cần ít lao động hơn, công ăn việc làm giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng. 3. Nội dung Chính sách tiền tệ bao gồm 3 chính sách cơ bản: chính sách tín dụng, chính sách ngoại hối, và chính sách đối với ngân sách nhà nước. 3.1. Chính sách tín dụng Thực chất của chính sách tín dụng là cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân thông qua các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay được tạo lập từ các nguồn tiền của xã hội với một hệ thống lãi suất mềm dẻo phù hợp với sự vận động của nền kinh tế thị trường. Khi các ngân hàng trung gian thiếu phương tiện thanh toán, họ đến ngân hàng trung ương xin tái cấp vốn. Ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng, đóng vai trò chủ nợ đối với các tổ chức tín dụng. 132
  18. 3.2. Chính sách ngoại hối Để ổn định giá trị ngoại tệ của đồng tiền quốc gia, ngân hàng trung ương thực hiện các nhiệm vụ giao dịch về tài chính và tiền tệ đối ngoại trên các phương diện sau: _ Quản lý ngoại hối _ Lập và theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế _ Thực hiện các nghiệp vụ hối đoái _ Xây dựng và thống nhất quản lý dự trữ ngoại hối của đất nước _ Phấn đấu ổn định tỷ giá hối đoái để kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả trong nước _ Quan hệ với ngân hàng trung ương khác, các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ nước ngoài có điều kiện ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài và thu hút kiều hối _ Tổ chức quản lý nợ nước ngoài Chính sách ngoại hối được thể hiện trên các phương diện sau:  Chính sách hối đoái Chính sách hối đoái thường hướng vào việc ngăn chặn tích trữ ngoại hối trong các tổ chức, cá nhân; quản lý việc mua bán ngoại tệ, thu hút các nguồn ngoại tệ vào ngân hàng trung ương.  Dự trữ ngoại hối Mỗi nước đều có dự trữ ngoại hối tùy thuộc vào khả năng của nền kinh tế đó. Dự trữ ngoại hối phục vụ cho nhu cầu thanh toán quốc tế và điều chỉnh khối lượng tiền trong nước. Khi ngân hàng trung ương mua ngoại tệ sẽ làm gia tăng dự trữ ngoại tệ, gia tăng khối lượng tiền tệ và ngược lại. Qua việc mua bán ngoại hối, ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường, chủ động tác động vào tỷ giá hối đoái theo ý muốn nhất định.  Tỷ giá hối đoái Phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp tới xuất nhập khẩu. Nếu tỷ giá hối đoái quá thấp sẽ sẽ bất lợi cho xuất khẩu, khuyến khích nhập khẩu. Nếu tỷ giá hối đoái quá cao sẽ bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu. 3.3 Chính sách đối với ngân sách Tùy theo tình trạng ngân sách có cân bằng hay không mà ảnh hưởng tich cực hay tiêu cực với những mức độ khác nhau đối với lưu thông tiền tệ Trường hợp ngân sách thiếu hụt sẽ có các cách tài trợ thiếu hụt: vay dân, vay các ngân hàng trung gian, vay ngân hàng trung ương, vay nước ngoài. Trong đó vay của ngân hàng trung ương sẽ làm tăng mạnh khối lượng tiền tệ , gây áp lực lạm phát về sau. 4. Công cụ Để thực thi chính sách tiền tệ, thực hiện chức năng và vai trò của mình, ngân hàng trung ương đã sử dụng hàng loạt các công cụ như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở,… Mỗi loại công cụ có cơ chế vận hàng riêng và ưu nhược điểm khác nhau. Tùy thuộc vào tình hình thực tế của nền kinh tế để sử dụng các công cụ này một cách phù hợp, hiệu quả. 4.1. Dự trữ bắt buộc 133
  19. Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các ngân hàng trung gian phải duy trì theo quy định của ngân hàng trung ương. Nó được xác định bằng tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi trên một khoảng thời gian nhất định. Dự trữ bắt buộc được xác định bằng cách Tiền dự trữ = Tổng tiền gửi phải * Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tính dự trữ bắt buộc bắt buộc Tùy theo điều kiện của từng nước, trong từng thời kỳ, có nhiều quy định về việc xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau. Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của các ngân hàng trung gian và quan trọng hơn là để ngân hàng trung ương kiểm soát quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng. Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng, các yếu tố khác không đổi khả năng cho vay và đầu tư của ngân hàng trung ương giảm  lượng tiền trong lưu thông giảm. Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm  khả năng cho vay và đầu tư của ngân hàng trung gian được mở rộng  tăng lượng tiền trong lưu thông Việc tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc có nghĩa là ngân hàng trung ương đ ang thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt (nới lỏng), tức là thắt chặt (nới lỏng) khả năng tạo tiền của ngân hàng trung gian. Việc tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng có nghĩa là làm tăng (giảm) chi phí tín dụng của các ngân hàng trung gian. 4.2. Tái cấp vốn Tái cấp vốn là cách để ngân hàng trung gian đưa tiền ra lưu thông, đồng thời khống chế về số lượng và chất lượng tín dụng của các ngân hàng trung gian. Nếu căn cứ vào mục đích, các khoản tái cấp vốn của ngân hàng trung ương đối với các ngân hàng trung gian bao gồm: cho vay thanh toán đối với các ngân hàng thiếu hụt tạm thời, cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn, cho vay thời vụ để đáp ứng nhu cầu thời vụ của một số ngân hàng. Thông qua việc ấn định lãi suất tái cấp vốn, ngân hàng trung ương tác động đến chi phí vay mượn của các ngân hàng trung gian tại ngân hàng trung ương: Nếu lãi suất tái cấp vốn tăng lên  chi phí khoản tiền vay từ ngân hàng trung ương tăng lên  ngân hàng trung gian bất lợi trong vay vốn  ngân hàng trung gian không có khả năng bành trướng tín dụng Nếu lãi suất tái cấp vốn giảm xuống  ngân hàng trung gian có khả năng bành trướng tín dụng Tái cấp vốn là nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng trung ương tất yếu sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng, vì vậy phải đòi hỏi tiến hành một cách thận trọng dựa trên hai tiêu chuẩn: định lượng và định tính. _ Về mặt định lượng Cần xem lại hạn mức tín dụng mà ngân hàng trung ương dành cho ngân hàng trung gian có và còn hay không _ Về mặt định tính 134
  20. Cần xem xét các hồ sơ tín dụng và các chứng từ xin tái chiết khấu có lành mạnh hay không và có xứng đáng được tiếp vốn hay không Ở các nước công cụ tái cấp vốn được sử dụng một cách phổ biến. Qua công cụ tái cấp vốn, ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng. Tái cấp vốn được thực hiện trên nền các giấy tờ có giá nên thời hạn vay mượn là rõ ràng, việc hoàn trả nợ tương đối chắc chắn, tiền vay vận động phù hợp với sự vận động của quy luật cung cầu thị trường. 4.3. Nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán các chứng khoán ngắn h ạn của Ngân hàng trung ương trên thị trường tiền tệ Ở các nước phát triển, nghiệp vụ thị trường mở là công cụ quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Nếu muốn tăng khối lượng tiền trong lưu thông, mở rộng tín dụng, ngân hàng trung gian mua các giấy từ có giá trên thị trường tiền tệ. Ngược lại, muốn giảm khối lượng tiền trong lưu thông, thu hẹp tín dụng, ngân hàng trung ương bán các giấy tờ có giá đang nắm giữ. Qua nghiệp vụ này, ngân hàng trung ương làm tăng hoặc giảm dự trữ của ngân hàng trung gian, tác động đến khả năng tín dụng của ngân hàng này, từ đó làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ. Ngoài ra còn có một số công cụ khác, chẳng hạn: * Ấn định hạn mức tín dụng đối với các ngân hàng trung gian: ngân hàng trung ương khống chế mức cho vay tối đa đối với các ngân hàng trung gian. Trên cơ sở quy mô, tình hình hoạt động cũng như khả năng huy động vốn của từng ngân hàng trung gian, ngân hàng trung ương tiến hành phân chia hạn mức tín dụng cho từng ngân hàng * Phát hành tín phiếu ngân hàng trung ương … VI. Ngân hàng nhà nƣớc Việt nam (1 tiết) 1. Sự ra đời và phát triển của ngân hàng nhà nƣớc Việt nam Sau khi nước Việt nam dân chủ cộng hòa được thành lập, trong khỏang thời gian từ năm 1945 đến tháng 5 năm 1951 trên phần lãnh thổ dưới chế độ dân chủ mới, nước ta không có một loại hình ngân hàng nào, mọi hoạt động thuộc lĩnh vực tiền tệ, tín dụng đều do Bộ tài chính phụ trách. Ngày 06/05/1951 ngân hàng quốc gia Việt nam được thành lập với tư cách là ngân hàng trung ương, đồng thời kiêm nhiệm chức năng của ngân hàng thương mại. Ngân hàng quốc gia Việt nam có nhiệm vụ: _ Phát hành giấy bạc, điều hòa lưu thông tiền tệ _ Huy động vốn của nhân dân, điều hòa và mở rộng tín dụng để phát triển sản xuất _ Quản lý ngân quỹ quốc gia _ Quản lý ngoại tệ và thanh toán các khoản giao dịch với nước ngoài Sự ra đời của ngân hàng quốc gia Việt nam là một bước ngoặt lịch sử trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng ở nước ta. Lần đầu tiên trong lịch sử dưới chính thể dân chủ mới, nước ta đã thành lập được một ngân hàng mang đầy đủ tính chất độc lập, tự chủ của đất nước. Tháng 01/1960 ngân hàng quốc gia Việt nam đổi tên thành Ngân hàng nhà nước Việt nam 135
nguon tai.lieu . vn