- Trang Chủ
- Khoa học xã hội
- Lý luận nhận thức, vận dụng quan điểm đó vào nền kinh tế Việt Nam trước và sau mười năm đổi mới đến
Xem mẫu
- Lý luận nhận thức, vận
dụng quan điểm đó vào
nền kinh tế Việt Nam
trước và sau mười
năm đổi mới đến
Trang 1
- MỤC LỤC
I, TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ......................... 3
II, MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI .................... 4
III, PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................................ 5
IV, CƠ SỞ LÝ LUẬN ..................................... 5
I. THỰC TIỄN .......................................... 7
II, THỰC TIỄN CÓ VAI TRÒ RẤT TO LỚN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC .. 8
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............ 10
I,VỊ TRÍ ĐỊA LÝ ........................................ 13
II, QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM............ 14
III. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TÌNH HÌNH ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 17
I. LÝ LUẬN VỀ THỰC TIỄN TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH
TẾ VÀ ĐỔI MỚI KINH TẾ HIỆN NAY. ....................... 19
Trang 2
- LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận
nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình thái
kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn, phương pháp biện chứng... luôn
là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất
phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp
với các vấn dề do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào
đó sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về
thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động.
Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác. Lênin đã
chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ
có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà
nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính
xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những
khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát
triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới về mọi
mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng
xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy
luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn ềề còn nhiều xem xét và tranh cãi,
nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay.Vì vậy, em quyết định chọn đề tài “Lý luận nhận thức, vận
dụng quan điểm đó vào nền kinh tế Việt Nam trước và sau mười năm đổi mới đến nay”.
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
I, TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản, sự thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa bằng xã hội cộng sản
chủ nghĩa trong tiến trình lịch sử của nhân loại là một quy luật khách quan. Việt Nam hiện nay đang ở
vào thời kỳ quá độ, chúng ta đã bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Vì
vậy trong quá trình phát triển, luôn luôn nảy sinh những mâu thuẫn cần giải quyết. Với sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng và Chính phủ, chúng ta đã có những chiến lược và sách lược đúng đắn.
Trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc biệt là lý luận triết học Mác- Lênin, chúng
ta đã vạch rõ được con đường phát triển kinh tế đúng đắn đó là: ”luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn
Trang 3
- trọng và hoạt động theo quy luật khách quan.’(Trích’Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI”).
Từ năm 1986, chúng ta đã tổng kết được những bài học kinh nghiệm quý báu để đổi mới và cải cách
kinh tế. Xây dựng một nền kinh tế thị trường, một nền kinh tế nhiều thành phần, lành mạnh chính là
sự vận dụng sáng tạo quan điểm chỉ đạo của Đảng vào thực tiễn hoàn cảnh trong nước và trên thế
giới. Những quan điểm đổi mới, tiến bộ đó là sự tôn trọng hoàn toàn những lý luận nhận thức và thực
tiễn chi phối nền kinh tế.
Đứng trên quan điểm triết học Mác- Lênin, ta càng có cơ sở để khẳng định những khởi sắc
trong mười năm đổi mới cho dến nay từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI là những thành công mang tính
tất yếu do chúng ta đã vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan vào cải tạo thực tiễn. Chúng ta đã
tôn trọng những bước phát triển có tính quy luật của lịch sử, không đi ngược lại “guồng quay” của
lịch sử.
II, MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Luôn luôn gắn lý thuyết với thực hành, nắm vững kiến thức thông qua sự hiểu biết sâu
rộngvấn đề là một phương châm hành động của sinh viên trong thời đại mới. Nghiên cứu lý luận nhận
thức và thực tiễn là một sự nghiên cứu sâu rộng của triết học trong mối liên quan với phát triển kinh
tế và phát triển xã hội.
Hơn thế nữa, đứng trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, khi mà xu thé hội nhập đang tăng cao, nền
kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ thì các hành động đều xuất phát từ quá trình nhận thức và cải
tạo thực tiễn là phương châm chỉ đạo và hoạt động của Đảng, Nhà nước ta.
Muốn phát triển kinh tế vững mạnh thì phải luôn đặt nó với mối quan hệ với những khoa học
khác, đặc biệt là triết học. Sự thành công hay thất bại, phát triển hay lạc hậu của bất cứ nền kinh tế
nào là do có lập trường triết học đúng đắn. Bởi vì xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con
người có thể có được cách giải quyết phù hợp với những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại,
xuất phát từ một lập trường triết học sai lầm, con ngưòi khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm.
Trong hoạt dông kinh tế, một lập trường triết học đúng đắn là tối cần thiết. Chỉ có triết học Mác -
Lênin mới có được những tính ưu việt này.
Đối với một sinh viên ngân hàng nói riêng và những cán bộ kinh tế nói chung, viếc nắm vững
triét học với những quy luật, lý luận, phương pháp của nó là không thể thiếu được. Vì khi giải quyết
những vấn đề phức tạp cụ thể như: các cán bộ làm công tác thực tiễn này không thể tìm thấy được ở
những cán bộ thuộc lĩnh vực chuyên ngành triết học một câu trả lời cụ thể về vấn đề đó dược, nhưng
trong hoạt động thực tiễn, những vấn đề phức tạp này lại luôn nảy sinh.
Trang 4
- III, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Triết học Mác - Lênin về vật chất, vận động trong không gian, thời gian và về sự thống nhất
vật chất của thế giới đã góp phần xác lập thế giới quan duy vật khoa học và có ý nghĩa về phương
pháp luận to lớn trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn. Triết học không phải là một cái gì
quá xa xôi, viển vông, ngược lại nó gắn bó hết sức chặt chẽ với cuộc sống, thực tiễn, chỉ đạo cho con
người hành động. Nắm vững được mọi nội dung của triết học, đặc biệt là lý luận nhận thức và cải tạo
thực tiễn sẽ làm cho con người làm chủ thế giới, chinh phục thiên nhiên, cải tạo được xã hội, phát
triển kinh tế mạnh mẽ.
Vấn đề đã nêu trong văn kiện Đại hội Đảng VI có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của
nền kinh tế hiện nay. Sau hơn mười năm đổi mới với những thành tựu nhất định ta càng thấy rõ sự
đúng đắn và cần thiết của bài học kinh nghiệm đó. Trong bài viết này, chỉ tập trung phân tích vấn đề
lý luận nhận thức và cải tạo thực tiễn của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình phát triển. Cùng với
sự tổng kết của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI trong văn kiện đã đánh dấu một mốc son lịch sử
của Việt Nam chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoạt
động xây dựng kinh tế, đổi mới kinh tế những năm gần đây và mối liên hệ của nó với thực tiễn và các
quy luật triết học là trung tâm của nội dung này.
IV, CƠ SỞ LÝ LUẬN
Đại hội Đảng lần thứ VI đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế của Việt Nam. Trước văn kiện này, những bài học kinh nghiệm đã được rút ra trong triết học
Mác - Lênin và Đảng ta lấy đó làm “kim chỉ nam’ cho hoạt động của mình. Triết học là một bộ phận
cấu thành của chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ rõ; triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật.
Nhưng Mác không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIII mà những thiếu sót chủ yếu nhất của nó
là máy móc, siêu hình và duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã hội. C.Mác và F.Enghen đã khắc
phục những thiếu sót ấy, đẩy triết học tiến lên hơn nữa bằng cách tiếp thu một cách có phê phán và có
chọn lọc những thành quả của triết hoc cổ điển Đức và nhất là của hệ thống triết học Hêghen. Trong
những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển dưới
hình thức toàn diện nhất, sâu sắc nhất và thoát hẳn được tính phiến diện. Nhưng phép biện chứng của
Heeghen là phép biện chứng duy tâm nên Mác và Enghen đã cải tạo nó. Chính trong quá trình cải tạo
này, Mác và Enghen đã gắn phép biện chứng Hêghen với thực tiễn, phát triển tiếp tục chủ nghĩa duy
vật cũ, đẩy nó lên thành chủ nghĩa duy vật bịên chứng.Vì vậy chính Mác và Enghen đã xây dựng một
triết học mới với thế giới quan duy vật nhất quán trong việc nhận thức xã hội. Cơ sở của những lí luận
Trang 5
- trong học thuyết đó là những quy luật khách quan và thực tiễn xã hội (“Triết học Mác- Lênin”-
Chương trình cao cấp. Tập I;Tập san triết học).
Vậy trong quá trình xây dựng nên triết học Mác, C.Mác và Enghen đã luôn đi từ thực tiễn và
những quy luật khách quan để định hướng lý luận nghiên cứu. Những lý luận đó vì thế có cơ sở khoa
học vững chắc, không sa vào siêu hình hay nhị nguyên luận như các nhà triết học đi trước.
Để chỉ đạo hoạt động được đúng đắn, triết học Mác- Lênin chính là nền tảng bền vững cho
mọi mục tiêu, phương hướng phát triển mọi mặt của Đảng và Nhà nước ta.
Trang 6
- CHƯƠNG I
MỘT SỐ KHÁI NIỆM
LIÊN QUAN ĐẾN CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
I. THỰC TIỄN
1. Khái niệm
Hoạt động con người chia làm hai lĩnh vực cơ bản. Một trong hai lĩnh vực quan trọng đó là:
hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn: (theo quan điểm triết học Mác xít):
Là những hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của con người
nhằm cải tạo, làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
2. Tính vật chất trong hoạt động thực tiễn
Đó là hoạt động có mục đích của xã hội, phải sử dụng những phương tiện vật chất đề tác động
tới đối tượng vật chất nhất định của tự nhiên hay xã hội, làm biến đổi nó, tạo ra sản phẩm vật chất
nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.
Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay đổi thế giới hiện thực, mới thực sự mang tính chất phê
phán và cách mạng. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của thực tiễn, là cơ sở đề phân biệt hoạt động
thực tiễn khác với hoạt động lý luận của con người.
3. Tính chất lịch sử xã hội
Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, hoạt động thực tiễn diễn ra là khác nhau, thay đổi về
phương thức hoạt động.
Thực tiễn là sản phẩm lịch sử toàn thế giới, thể hiện những mối quan hệ muôn vẻ và vô tận
giữa con người với giới tự nhiên và con người với con người trong quá trình sản xuất vật chất và tinh
thần, là phương thúc cơ bản của sự tồn tại xã hội của con người.
4. Thực tiễn của con người được tiến hành dưới nhiều hình thức
Trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới, con người tạo ra một hiện thực mới, một ”thiên
nhiên thứ hai”. Đó là thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều kiện mới cho sự tồn tại
của con người, những điều kiện này không được giới tự nhiên mang lại dưới dạng có sẵn. Đồng thời
với quá trình đó, con người cũng phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Chính sự cải tạo hiện thực
thông qua hoạt động thực tiễn là cơ sở của tất cả những biểu hiện khác có tính tích cực, sáng tạo của
Trang 7
- con người. Con người không thích nghi một cách thụ động mà thông qua hoạt động của mình, tác
động một cách tích cực để biến đổi và cải tạo thế giới bên ngoài. Hoạt động đó chính là thực tiễn.
a,Hoạt động sản xuất vật chất
Là hoạt động thực tiễn quan trọng nhất của xã hội.Thực tiễn sản xuất vật chất là tiền đề xuất
phát để hình thành những mối quan hệ đặc biệt của con người đối với thế giới, giúp con người vượt ra
khỏi khuôn khổ tồn tại của các loài vật.
b.Hoạt động chính trị xã hội
Là hoạt dộng của con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát triển và hoàn thiện
các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho hoạt động sản xuất và tạo ra những
môi trường xã hội xứng đáng với bản chất con người bằng cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã
hội.
c. Hoạt động thực nghiệm khoa học
Là hoạt động thực tiễn đặc biệt vì con người phải tạo ra một thế giới riêng cho thực nghiệm
của khoa học tự nhiên và cả khoa học xã hội.
II, THỰC TIỄN CÓ VAI TRÒ RẤT TO LỚN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là tiêu chuẩn của nhận
thức.
1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt các sự vật, hiện
tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy luật của chúng. Trong quá trình
hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề đòi hỏi con người phải giải đáp và do đó nhận thức
được hình thành. Như vậy, qua hoạt động thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát triển thế giới
quan( tạo điều kiện cho nhận thức cao hơn).
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các giác quan ngày
càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các phương tiện hiện đại
giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
1,Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước phát triển của thực
tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như
Trang 8
- vậy thực tiễn trang bị những phương tiện mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận
thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều lần, các tài liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ, con người mới
phân biệt được đâu là mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài, đâu là mối liên hệ bản chất, những quy luật
vận động và phát triển của sự vật.
2,Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực tiễn. Mục đích cuối
cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là nhằm cải tạo hiện thức khách quan, đáp
ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần xã hội. Sự hình thành và phát triển của nhận thức là bắt
nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt động thực tiễn, giúp
cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người
mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa.
3,Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn
phát triển và ngược lại.
4,Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
a.Chân lý
Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn khẳng định ( nội
dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con người)
Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví dụ: chân lý tôn giáo).
Chân lý mang tính hai mặt ( tuyệt đối và tương đối ) vì tính hai mặt trong quá trình nhận thức
của nhân loại.
b.Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý không phải
là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, tri thức mới
trở lại tác động vào thế giới vật chất, qua đó nó được ”hiện thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách
thể cảm tính. Từ đó mới có căn cứ để đánh giá nhận thức của con người đúng hay sai, có đạt tới chân
lý hay không.
Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người cũng được kiểm tra thông
qua rất nhiều hình thức khác nhau.
+Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.
Trang 9
- +Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó không thể chứng minh hay bác bỏ
hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà nó được thực tiễn tiếp theo chứng minh, bổ sung
thêm.
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như vậy mới có khả năng
kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của nhận thức.
c.Ý nghĩa:
Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường mới, nền
văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ xã hội mới: công bằng, bình đẳng, tién bộ.
Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế cụ thể muốn biết đúng
hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản xuất, kinh doanh cũng như quản lý các quá trình
đó. Đường lối chính sách cũng như các giải pháp kinh tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh
tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những thành tựu to lớn mang
lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Những hoạt động nghiên cứu lý luận
chính là nhằm tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề của giai đoạn cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi
mới ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung và
công tác lý luận nói riêng, nhất định sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú hơn và
cụ thể hơn về mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Lý luận
a. Khái niệm
Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn. Nó phản ánh những quy luật, của
từng lĩnh vực trong hiện thực khách quan.
b. Đặc điểm
Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của xã hội nên bất kỳ một lý
luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng.
Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.
2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý luận và thực tiễn thống
nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ chỗ: chúng đều là hoạt động của con người,
đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội để thoả mãn nhu cầu của con người.
Trang 10
- a. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn. Thực tiễn là hoạt
động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội. Lý luận không có mục
đích tự nó mà mục đích cuối cùng là phục vụ thực tiễn. Sức sống của lý luận chính là luôn luôn gắn
liền với thực tiễn, phục vụ cho yêu cầu của thực tiến.
b. Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn
Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô sản. Sự thành
công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó được hướng dẫn bởi lý luận nào, có
khoa học hay không? Sự phát triển của lý luận là do yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực
tiễn không tách rời lý luận, không thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức đúng đắn về các
quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mới có cơ sở để định ra mục tiêu và
phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể là thống nhất hoặc
mâu thuẫn đối lập.
c. Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần tiến bộ và còn giữ sứ
mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng sẽ tăng cường lẫn nhau và phát huy vai trò
của nhau. Sự thống nhất đó là một trong những nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
d. Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu thuẫn nảy sinh,
chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi đường lối, chính sách xã hội trở nên lạc
hậu và phản động.
*Ý nghĩa:
Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt là lý luận xã hội mà
quan trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý luận về kinh tế.
Trước chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu như không có chỗ đứng
nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với bộ mặt xấu xí của con buôn (Phơ-Bách). Trong “Chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngươi
khác đã ”cố gạt thực tiễn ra khỏi lý luận nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không đáng nghiên
cứu về mặt nhận thức luận, đã ”đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mỗi người phân biệt được
Trang 11
- ảo tưởng với hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, của lý luận nhận thức... để dọn chỗ cho
chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri”.
V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và
cơ bản của lý luận về nhận thức. (“V.I.Lênin toàn tập” – 1980)
Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên đối với nước ta trong
giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và hoạt động. Hiện nay, nước ta đang tiến hành
đổi mới một cách toàn diện các mặt của đời sống xã hội, mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm.
Đổi mới từ nền kinh tế tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là
một vấn đề hết sức mới mẻ chưa có lời giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng không bao giờ có thể có một
lời giải sẵn sau đó mới đi vào tiến hành đổi mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói
riêng và việc nhận thức quá trình đổi mới đó không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau cùng phát
triển.
Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế khách quan, phải lấy
hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của mình. Gắn lý luận vào thực tiễn để hoạt động trở
nên khoa học, có cơ sở vững chắc. Tinh thần ấy chính là vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại
hội Đảng lần thứ VI.
e. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ
với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đã
nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang
cho hành động cách mạng, và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo. Lý
luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động. Những
người cộng sản các nước phải cụ thể hoá chủ nghĩa Mác _ Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn
cảnh từng lúc và từng nơi (“Hồ Chí Minh: toàn tập”-1996)
*Con đường biện chứng của sự nhận thức:
Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận động, phát triển. Sự
vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách biện chứng:
- “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng đến thực tiễn - đó là
con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”.
Trang 12
- +Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức,
được hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này được hình thành thông qua các hình thức cơ
bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri giác, biểu tượng...
+Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức dựa trên cơ
sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang lại.
- Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng chưa phải là chấm dứt,
mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức phải trở về với thực tiễn vì:
+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải trở về chỉ đạo hoạt
động thực tiễn cải tạo thế giới.
+Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện thực. Vì vậy, nhận
thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận thức, phân biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là
nhận thức sai lầm.
+Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về với thực tiễn để trên
cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức.
- Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng đến thực tiễn là một
vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại làm cho nhận thức của con người phát triển
không ngừng, ngày càng phản ánh sâu sắc bản chất, quy luật của thế giới khách quan.
CHƯƠNG II
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
I,VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
-Việt Nam nằm ở phía đông của bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam Á, có một
vùng biển rộng, giàu tiềm năng.
-Vị trí tiếp giáp trên đất liền và trên biển tạo điều kiện cho nước ta có thể dễ dàng giao lưu với
các nước trên thế giới.
+Trên đất liền, nước ta giáp Trung Quốc, Lào, Campuchia. Thông qua các tuyến giao thông
(đường bộ, đường sắt...) với các cửa khẩu quan trọng, Việt Nam có thể liên hệ với nhiều nước trên thế
giới.
Trang 13
- + Nước ta nằm gần các tuyến đường biển quốc tế. Thông qua đường biển, có thể quan hệ với
nhiều quốc gia.
+Vùng biển rộng lớn, giàu tiềm năng cho phép phát triển kinh tế biển.
-Việt Nam là nơi giao thoa của các nền văn hoá khác nhau. Điều đó góp phần làm giàu bản
sắc văn hoá.
-Việt Nam nằm ở khu vực đang diễn ra những hoạt động kinh tế sôi động của thế giới. Từ đó
cho phép nước ta có thể dễ dàng hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Ta có thể tiếp
thu và chọn lọc những bài học, kinh nghiệm thành công cũng như thất bại về phát triển kinh tế của
các nước và vận dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
II, QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1.Tình hình:
- Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa
lúc đó, nước ta bắt đầu xây dựng một mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức sản xuất và dịch vụ quốc doanh được phát triển. Cùng
với quốc doanh, hợp tác xã được tổ chức rộng rãi ở nông thôn và thành thị. Với hai hình thức sở hữu
toàn dân và tập thể, sở hữu tư nhân bị thu hẹp lại, không còn cơ sở cho tư nhân phát triển. Cùng với
quốc doanh, hợp tác xã được tổ chức rộng rãi vì ta đã học tập được mô hình tổ chức kinh tế của Liên
Xô cũ. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ
nghĩa lúc đó, mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được những tính ưu việt đó.
- Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán và manh mún, bằng công cụ kế hoạch hóa,
ta đã tập trung được vào trong tay một lực lượng vật chất quan trọng về cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở
hạ tầng thành thị và nông thôn, đất đai, máy móc, tiền vốn để ổn định và phát triển kinh tế.
Vào những năm sau của thập niên 60, ở Miền Bắc đã có những chuyền biến về kinh tế, xã hội.
Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập trung bao cấp đã tỏ ra phù hợp với nền kinh tế tự cung, tự cấp, phù
hợp với điều kiện hai nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu trong chiến tranh lúc đó.
- Năm 1975, sau ngày giải phóng miền Nam, một bức tranh mới về hiện trạng kinh tế Việt
Nam đã thay đổi. Đó là sự duy trì một nền kinh tế tồn tại cả ba loại hình:
+Kinh tế cổ truyền (tự cung tự cấp)
+Kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (ở miền Bắc)
+Kinh tế thị trường (đặc trưng ở miền Nam).
Trang 14
- Mặc dù đây là một tồn tại khách quan sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục xây dựng
nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trên phạm vi cả nước. Đó là sự áp đặt rất bất lợi.
2. Hậu quả:
Do chủ quan nóng vội, cứng nhắc, chúng ta đã không quản lý được hiệu quả các nguồn lực
dẫn tới việc sử dụng lãng phí nghiêm trọng các nguồn lực của đất nước.
- Tài nguyên bị phá hoại, sử dụng khai thác không hợp lý, môi trường bị ô nhiễm.
- Nhà nước bao cấp và tiến hành bù lỗ phổ biến gây hậu quả nghiệm trọng cho nền kinh tế.
+ Sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tăng trưởng kinh tế trên lý thuyết, giấy tờ.
+Hàng hoá, sản phẩm trở nên khan hiếm, không đáp ứng được nhu cầu trong nước.
+Ngân sách thâm hụt nặng nề. Vốn nợ đọng nước ngoài ngày càng tăng và không có khả năng
cho chi trả.
+Thu nhập từ nền kinh tế quốc dân không đủ chi dùng, tích luỹ hầu như không có.
+Vốn đầu tư cho sản xuất và xây dựng chủ yếu là dựa vào vay và viện trợ nước ngoài.
- Cùng với đó là sự thoái hoá về mặt con người và xã hội.
- Đến năm 1979, nền kinh tế rất suy yếu, sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân khó khăn, nguồn
trợ giúp từ bên ngoài giảm mạnh.
- Từ năm 1975 đến năm 1985, các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể bị tiêu diệt hoặc
không còn điều kiện phát triển dẫn đến thực trạng tiềm năng to lớn của các thành phần kinh tế này
không được khai thác và phục vụ cho mục tiêu chung của nền kinh tế. Ngược lại, thành phần kinh tế
quốc doanh đã phát triển ồ ạt, tràn lan trên mọi lĩnh vực trở thành địa vị đọc tôn trong hầu hết các
ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ (trừ ngành nông nghiệp, thành phần kinh tế tập thể là chủ
yếu).Thời điểm cao nhất, thànhphần kinh tế quốc doanhđã cõ gần 13 nghìn doanh nghiệp với số tài
sản cố định chiếm 70% tổng số tài sản cố định của nền kinh tế. Thời kỳ này, kinh tế nước ta tuy có
đạt được tốc độ tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó không có cơ sở để phát triển vì đã dựa
vào điều kiện bao cấp, bội chi ngân sách, lạm phát và vay nợ nước ngoài.
- Do phát triển tràn lan lại quản lý theo cơ chế bao cấp, kế hoạch hoá tập trung nên nhà nước
gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý, điều hành các doanh nghiệp quốc doanh, nhiều doanh nghiệp
quốc doanh làm ăn thua lỗ, lực lượng sản xuất không được giải phóng, nền kinh tế lâm vào tình trạng
khủng hoảng và tụt hậu.
3.Nguyên nhân
Trang 15
- Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần còn tồn tại trong thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng lý luận
và thực tiễn vào tinh hình nước ta.
Đến năm 1986, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về căn bản vẫn chưa bị xoá bỏ. Cơ chế
mới chưa được thiết lập đồng bộ, nhiều chính sách, thể chế lỗi thời chưa được thay đổi. Tình trạng tập
trung quan liêu còn nặng, đồng thời những hiện tượng vô tổ chức, vô kỷ luật còn khá phổ biến.
Việc đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý, việc điều hành không nhạy bén, là những nguyên
nhân quan trọng dẫn tới hành động không thống nhất từ trên xuống dưới.
Chúng ta mới nêu ra được phương hướng chủ yếu của cơ chế mới, hình thức, bước đi, cách
làm cụ thể thì còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được thoả đáng cả về lý luận và thực tiễn.
4. Tư tưởng chỉ đạo
Ta đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận trong thời kỳ quá độ:”Khuynh hướng tư tưởng
chủ yếu của những sai lầm ấy,đặc biệt là những chính sách kinh tế là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối
suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan” (Đảng công sản Việt
nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI-1986). Chúng ta đã có những thành kiến không
đúng, trên thực tế, chưa thừa nhận thật sự những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách
quan.
Chúng ta đã ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách quá mức mà hiệu quả kinh tế phát
triển chậm. Hơn thế nữa, ta chưa chú ý đúng mức tới sản xuất nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng
nên đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
- Bên cạnh đó, sự tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa vào những năm cuối thập kỷ
80, đầu thập kỷ 90 làm cho chúng ta mất đi một thị trường truyền thống, nguồn viện trợ quan trọng,
gây nhiều khó khăn đối với sản xuất và đời sống.
- Chính sách cấm vận của Hoa Kỳ kéo dài, sự thù địch của các thế lực phản động cũng có tác
động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tất cả những nguyên nhân trên cộng với thiên tai, mất mùa liên tiếp vào những năm 1979 -
1980 đã đưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng, công nghiệp chỉ tăng 0,6%, nông nghiệp tăng 1,9%
trong khi lạm phát ở mức siêu cấp năm 1986 : 74%
Chính vì vậy, bài học kinh nghiệm được rút ra trong “ Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VI về phát triển kinh tế phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách
quan là hoàn toàn đúng đắn. Chính từ những khó khăn trên đòi hỏi phải đổi mới nền kinh tế, xã hội.
Trang 16
- Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu một mốc phát triển quan trọng trong quá trình phát
triển của đất nước.
III. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TÌNH HÌNH ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Để khắc phục khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận
thức , đổi mới tư duy. Phải nhận thức và hành động đúng đắn, đề ra những chủ trương, chính sách
phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày
càng chi phối mạnh mẽ phương hướng phát triển chung của xã hội. Mọi chủ trương, chính sách, biện
pháp kinh tế gây tác động ngược lại đều biểu hiện sự vận dụng không đúng quy luật khách quan, phải
được sửa đổi hoặc huỷ bỏ.
- Trên cơ sở đó, chúng ta phải vận dụng tổng hợp hệ thống các quy luật đang tác động lên nền
kinh tế. Trong hệ thống các quy luật đó, quy luật kinh tế cơ bản cùng với các quy luật đặc thù khác
của chủ nghĩa xã hội ngày càng phát huy vai trò chủ đạo, được vận dụng trong một thể thống nhất với
các quy luật của sản xuất hàng hoá, đặc biệt là quy luật giá trị, quy luật cùng cầu, quy luật cạnh
tranh... Kế hoạch hoá phải luôn luôn gắn liền với việc sử dụng các đòn bảy kinh tế.
- Đại hội đảng lần thứ VI có ý nghĩa đặc biệt quan trọng . Những quan điểm, đường lối do Đại
hội VI vạch ra là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
vào thực tiễn của đất nước . Công cuộc đổi mới của Đảng từ sau Đại hội VI đến nay ở nước ta không
nằm ngoài những quy luật phổ biến của phép biện chứng, Đảng ta đã vận dụng phép biện chứng vào
nhận thức hiện thực xã hội, phân tích các mối liên hệ biện chứng của đời sống hiện thực, tìm ra các
mâu thuẫn đó và tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình đổi mới vững chắc.
Vì trước đây, nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế, xã hội với nhiều khó khăn phức tạp, gay
gắt, lạm phát phi mã do tư duy lý luận bị lạc hậu, giữa lý luận và thực tiễn có khoảng cách xa. Tư duy
cũ về chủ nghĩa xã hội theo mô hình tập trung quan liêu bao cấp đã cản trở sự phát triển của thực tiễn
sản xuất. Bị chi phối bởi quy luật mâu thuẫn khách quan nên để giải quyết mâu thuẫn đó Đảng ta đã
tiến hành đổi mới và cải cách kinh tế.
- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất. Để làm đủ ăn và có tích
luỹ, phải ra sức phát triển sản xuất, xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, trước hết là cơ cấu các ngành
kinh tế phù hợp với tính quy luật về sự phát triển các ngành sản xuất vật chất, phù hợp với sự phân
công lao động và hợp tác quốc tế. Cơ cấu kinh tế đó đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối với
nhịp độ tăng trưởng ổn định. Phải thông qua việc sắp xếp lại sản xuất, đi đôi với việc xây dựng thêm
cơ cấu kinh tế hợp lý.
Trang 17
- - Hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, xuất
khẩu.
- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực
quốc doanh, tập thể. Bằng các biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế
khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. giải pháp
đó xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu
nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là
cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ.
- Tiến hành phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chống tập trung quan liêu,
chống tự do vô tổ chức. Bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, tự chủ tài chính của các đơn vị
kinh tế cơ sở, quyền làm chủ của các tập thể lao động.
Trang 18
- CHƯƠNG III
ÁP DỤNG LÝ LUẬN THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI HIỆN NAY
Việc Đảng ta tổng kết những bài học ở Đại hội VI, lần đầu tiên chỉ rõ sai lầm chủ quan, duy ý
chí, coi thường các quy luật khách quan dẫn tới làm sai, làm hỏng và phải sửa chữa trong các chính
sách xây dựng kinh tế, phát triền văn hoá có ý nghĩa tự giải phóng và mở đường cho sự phát triển mới
rất to lớn.
Trên thực tế, đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo có một sự tương đồng về hoàn cảnh,
nội dung và ý nghĩa như”Chính sách kinh tế mới của Lênin”
(NEP). Với đổi mới, quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta
đã ngày được xác định rõ hơn. Nó thấm nhuần quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm thực tiễn và quan
điểm phát triển.
I. LÝ LUẬN VỀ THỰC TIỄN TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ ĐỔI
MỚI KINH TẾ HIỆN NAY.
Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho phép phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là một tất yếu khách quan khi ở
vào thời kỳ quá độ như ở nước ta hiện nay. Phải dung hoà và tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một
tất yếu do lịch sử để lại song đưa chúng cùng tồn tại và phát triển mới là một vấn đề nan giải, khó
khăn. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư bản tư nhân, đương nhiên phải thường xuyên
đấu tranh với xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và những mặt tiêu cực trong các thành phần kinh tế,
giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong sản xuất giữa chúng để cùng phát triển.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là bài học về quán
triệt quan điểm thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm cơ bản và hàng
đầu của triết học Mác xít. Sự nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ và khó khăn của nó đòi hỏi phải có
lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ
sở cho sự đổi mới trong hoạt động thức tiễn. Tuy nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà có và cũng
không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ
sở để nhận thức, của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ sở đề khái quát
thành lý luận.
Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm, vừa làm vừa tổng kết
lý luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở lại quá trình đổi mới. Có những điều
chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua thể nghiệm, phải làm rồi mới biết, thậm chí có
Trang 19
- nhiều điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như vấn đè chống lạm phát, vấn đề khoán trong nông nghiệp, vấn
đề phân phối sản phẩm... Trong quá trình đó, tất nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải trả giá cho
những khuyết điểm, lệch lạc nhất định.
Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân là rất quan trọng.
Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi thực tiễn sẽ cho ta hiểu rõ sự vật hơn nữa -
đó là bài học không chỉ của sự nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm mà còn là bài học của sự nghiệp
đổi mới vừa qua và hiện nay.
Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không hề coi nhẹ lý luận.
Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ lý luận của mình, cố gắng phát
triển lý luận, đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Nó được thể hiện qua năm bước chuyển của đổi mới tư duy phù hợp với sự vận động của thực tiễn
cuộc sống trong những hoàn cảnh và điều kiện mới
1. Bước chuyển thứ nhất:
Từ tư duy, dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hoá sở hữu xã hội (Nhà nước và
tập thể) với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất đối với sự phát triền của lực lượng sản xuất
dẫn tới hậu quả kìm hãm sự phát triển sản xuất... sang tư duy mới. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với
tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động làm
đặc trưng chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đây chính là bước chuyển căn bản mà có ý nghĩa sâu xa vì nó là tôn trọng quy luật khách
quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất; tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất mà từng bước thiết lập quan hệ sản xuất cho phù hợp .
2. Bước chuyển thứ hai:
Từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế chỉ huy tập trung, kế hoạch hoá tuyệt đối
với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội
Chủ nghĩa
3. Bước chuyển thứ ba:
Đó là tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, từ chế độ tập trung quan liêu với phương thức
quản lý hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hoá các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện dân chủ
toàn diện.
4. Bước chuyển thứ tư:
Trang 20
nguon tai.lieu . vn