- Trang Chủ
- Ngôn ngữ học
- Lý giải về sự xuất hiện của yếu tố tự sự ở các ngâm khúc trữ tình trong văn học Việt Nam trung đại
Xem mẫu
- TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 - Thaùng 12/2014
LÝ GIẢI VỀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA YẾU TỐ TỰ SỰ
Ở CÁC NGÂM KHÚC TRỮ TÌNH TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI
LƯU THỊ LOAN(*)
TÓM TẮT
Trong tác phẩm tự sự, cốt truyện đóng vai trò chủ đạo, thì ngâm khúc là những tác
phẩm trữ tình trường thiên diễn tả tâm trạng đau buồn, u uất triền miên của con người. Làm
thế nào để kéo dài hàng trăm câu thơ chỉ với mục đích phơi bày tâm trạng như thế. Muốn
giải bày, thổ lộ tình cảm không còn con đường nào khác là kể lại những việc có liên quan
đến tình cảm ấy. Vì thế trong tác phẩm trữ tình ít nhiều có yếu tố tự sự. Tự sự đã đi vào
ngâm khúc và xóa đi khoảng cách tưởng chừng như không thể tiệm cận giữa hai thể loại.
Từ khóa: tác phẩm tự sự, tác phẩm trữ tình, ngâm khúc, yếu tố tự sự, tâm trạng, tình
cảm, thể loại
ABSTRACT
While frameworks play an important main part in works of narration, ngam khuc are
works of lyric which always show people’s melancholic emotion lasting for a long time.
How we can do to show our mood with hundred lines of poetry. There is no way to express
our emotion except retell something which relates to that feeling. Therefore, works of lyric
partly consist of some elements of narration. Narration, which is in ngam khuc, erases the
distance of two these forms literature.
Key words: work of narration, work of lyric, ngam khuc, element of narration, mood,
emotion, forms
1. MỞ ĐẦU hình thức; thứ hai, sáng tác một tác giả,
(*)
Mỗi thể loại văn học đều có một cách mặc dù một tác giả có thể sử dụng nhiều
thức tổ chức, sắp xếp các yếu tố tạo thành thể loại (sáng tác nhiều thể loại) nhưng
một chỉnh thể nghệ thuật. Việc nghiên cứu trong quá trình sáng tác đó có thể giữ lại
thi pháp như một hệ thống các nguyên tắc, những hình thức cảm nhận và miêu tả vững
phương thức, phương tiện thể hiện nghệ bền gắn liền với phong cách cá nhân; thứ
thuật, đòi hỏi phải xác lập các chỉnh thể ba, sáng tác một thời đại, một trào lưu,
văn học như là các đơn vị mang thi pháp. khuynh hướng trong đó ngự trị những
Cho đến nay, các nhà khoa học thường nói nguyên tắc cảm nhận và miêu tả thế giới
đến các chỉnh thể sau: Thứ nhất, tác phẩm bền vững chiếm ưu thế; thứ tư, các thể loại
văn học là một chỉnh thể, bởi đó là đơn vị văn học với tư cách là kết cấu văn học
sáng tạo toàn vẹn, có mở đầu, có kết thúc, vững bền, có ký ức thể loại.
có sự thống nhất hoàn mĩ giữa nội dung và Mỗi tác phẩm ngâm khúc là một chỉnh
thể nghệ thuật bởi nó có sự tổng hợp của
(*)
ThS, Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam nhiều yếu tố như: thể loại, nội dung, hình
125
- thức, phong cách cá nhân, ngôn ngữ đặc tình chỉ là yếu tố điểm qua thì truyện thơ
biệt là có sự kết hợp của hai yếu tố tự sự và xuất hiện.
trữ tình trong nội dung tác phẩm tạo thành Ngâm khúc – loại tác phẩm thường có
một chỉnh thể thống nhất. dung lượng lớn, kết cấu theo phương thức
2. NỘI DUNG trữ tình vẫn không thể tách rời các yếu tố
Nếu như trong tác phẩm tự sự, cốt tự sự: các sự kiện, các chi tiết, nhân vật.
truyện có vai trò chủ đạo, thì ngâm khúc là Chính các sự kiện, chi tiết, nhân vật (kể,
những tác phẩm thơ trữ tình dài hơi thuật, tả) đó đã tạo nên yếu tố tự sự trong
(trường thiên) diễn tả những tâm trạng đau khúc ngâm. Trên đây đã nói đến sự xuất
buồn, u uất triền miên của con người hiện của yếu tố tự sự và sự phá vỡ làn ranh
thường không có cốt truyện hoặc có cốt giới giữa tự sự và trữ tình trong ngâm khúc.
truyện đơn giản. Vấn đề đặt ra ở đây là làm Tuy nhiên, sự phá vỡ này chưa đi đến mức
thế nào để tác giả có thể kéo giãn hàng độ xâm lấn và xóa nhòa hoàn toàn cả hai
trăm câu thơ chỉ với một mục đích là phơi yếu tố. Phải thấy rằng, tự sự tuy có đi vào
bày tâm trạng như thế? Làm thế nào để lôi phương thức trữ tình trong tác phẩm nhưng
cuốn và khẳng định sức sống của các tác không vì thế nó thực hiện cuộc soán ngôi,
phẩm chỉ bằng thế giới tâm trạng tuy có đánh tan những phẩm chất trữ tình nhằm
phong phú nhưng ít biến chuyển mà phần tạo nên một thể loại mới (thể thơ tự sự).
lớn như đúc ra một khuôn tình cảm đau Chức năng biểu hiện tình cảm vẫn là chức
khổ, buồn rầu mà nhà nghiên cứu Đặng năng chuyên biệt và trung tâm của khúc
Thai Mai gọi là“sự ngưng đọng trên một ngâm. Mọi yếu tố tự sự được vận dụng
khối sầu”. Vấn đề sẽ được giải quyết khi trong tác phẩm đều nhằm hướng đến nội
chúng ta thấy sự xuất hiện của yếu tố tự sự. dung phơi bày tâm trạng và phát huy tối đa
Tự sự đã đi vào ngâm khúc và xóa đi chức năng đó. Nói đúng ra, tự sự dừng
khoảng cách tưởng chừng không thể tiệm chân trong khúc ngâm chỉ như một sự xâm
cận giữa hai thể loại. nhập của thể loại chứ chưa đến mức xóa
Muốn giãi bày, thổ lộ tình cảm không nhòa ranh giới giữa tự sự và trữ tình. Yếu
còn con đường nào khác là phải kể ra, thuật tố trữ tình luôn giữ một vai trò chủ đạo, cơ
lại những sự việc có liên quan đến tình cảm bản trong mỗi khúc ngâm, còn yếu tố tự sự
ấy, những “hỉ, nộ, ái, ố” của con người là chỉ là sơ đẳng. Chính sự kết hợp của hai
vì đâu, do đâu, hay những hoàn cảnh, trạng yêu tố này đã tạo nên tính chỉnh thể của
huống và sự kiện nào làm nảy sinh tâm tình khúc ngâm.
ấy? Thật khó hình dung một trạng thái cảm Tự sự là một trong ba phương thức (tự
xúc, bất định được nói ra một cách vô tận sự, trữ tình, kịch) tái hiện đời sống gắn liền
mà không có một chỗ neo bám cụ thể nào. với các yếu tố quan trọng như: tính khách
Vì thế trong tác phẩm trữ tình ít nhiều có quan, cốt truyện, nhân vật, trần thuật (kể).
yếu tố tự sự. Việc đưa yếu tố tự sự vào Theo Lại Nguyên Ân “Nét đặc thù của tự
trong thơ cũng là gợi ý để sáng tạo những sự là vai trò tổ chức của trần thuật. Nó
thể loại mới. Khi tự sự và trữ tình có chức thông báo về các biến cố, các tình tiết như
năng ngang quyền thì thể thơ trường thiên thông báo về một cái gì đó đã xảy ra và
ra đời. Khi tự sự đóng vai trò chủ yếu, trữ được nhớ lại, đồng thời mô tả hoàn cảnh,
hành động và dáng nét các nhân vật, nhiều
126
- khi còn thêm cả những lời bàn luận” [1, hư huyễn về cuộc đời. Trong lời trữ tình ấy,
359]. chủ thể trữ tình đóng hai vai, một vai người
Đối với tác phẩm tác phẩm trữ tình, trần thuật (người kể), một vai người trong
nguyên tắc chủ quan đóng vai trò chủ đạo cuộc – người trữ tình” [2, 99].
trong việc chiếm lĩnh hiện thực, là nhân tố Cái vai kép vừa tự sự vừa trữ tình là sự
quan trọng quy định những điểm cốt yếu mở đầu cho lối tự sự nửa trực tiếp trong
của tác phẩm. Tác phẩm trữ tình thể hiện các khúc ngâm. Chẳng hạn lời giới thiệu,
tâm trạng, do đó thường không có cốt mở đầu Chinh phụ ngâm bản dịch của
truyện hoặc cốt truyện đơn giản. Tuy nhiên Đoàn Thị Điểm:
các sự kiện, chi tiết vẫn giữa một vai trò Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
quan trọng đối với loại trữ tình dài hơi như Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên?
ngâm khúc. Ở đây các yếu tố tự sự (sự Lời than (trữ tình):
kiện, chi tiết, nhân vật) vẫn giữ một vai trò Xanh kia thăm thẳm từng trên
quan trọng. Vì ai gây dựng cho nên nỗi này!
Theo Wellec và Warren, vấn đề chủ yếu Cung oán ngâm khúc mở đầu với lời
của phương pháp tự sự là cách xử lý mối than, lời trách, lời hỏi:
quan hệ giữa người kể chuyện và câu …Duyên đã may cớ sao lại rủi,
chuyện của anh ta, ở cách tổ chức lời văn kể Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang.
chuyện để tạo ra một câu chuyện mới Vì đâu nên nỗi dở dang,
[chuyển dẫn từ 4, 195]. Ông cũng cho biết Nghĩ mình, mình lại thêm thương nỗi
thêm: “nói đến nghệ thuật kể chuyện, ngày mình.
nay người ta không còn giản đơn là nói tới Tiếp theo là lời tự sự (kể) tài năng và
cách kể theo ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba sắc đẹp của mình:
một cách bề ngoài, mà tìm vào những yếu tố Trộm nhớ thuở gây hình tạo hóa,
bên trong đã chi phối đặc điểm, chất lượng Vẻ phù dung một đóa khoe tươi,
của ngôi kể ấy. Ngôi kể ấy vẫn có ý nghĩa Nụ hoa chưa mỉm miệng cười,
riêng trong việc tạo thành giọng kể, một Gấm nàng Ban đã lạt mùi thu dung…
điều không thể coi nhẹ. Nhưng lý thuyết tự - Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
sự hiện đại đã nói đến điểm nhìn, tiêu cự, Nét đan thanh bậc chị chàng Vương.
tức là nói đến phương pháp cảm nhận nhìn - Cầm điếm nguyệt, phỏng tầm Tư Mã,
thấy con người và sự vật được kể. Phương Địch lầu thu lạ gã Tiêu lang.
pháp tự sự thực chất là phương pháp nhìn Dẫu mà miệng hát tay dang,
thấy sự vật và con người, phương pháp phát Thiên tiên cũng ngảnh, Nghê Thường
hiện về con người” [4, 195]. trong trăng.
Theo Trần Đình Sử: “Điểm quan trọng Qua khảo sát các ngâm khúc trong văn
nhất của các khúc ngâm đã tạo thành một học Việt Nam trung đại, chúng tôi thấy có
kiểu trữ tình mới, có tính chất tự sự, có thể khá nhiều yếu tố tự sự.
làm phong phú cho ngôn ngữ tự sự. Đó là Đó là lời tự sự miêu tả về sắc đẹp của
lối trữ tình nhập vai. Đặng Trần Côn đã người cung phi trong Cung oán ngâm:
nhập vai người chinh phụ để viết Chinh phụ Áng đào kiểm đâm bông não chúng,
ngâm khúc, cũng như Nguyễn Gia Thiều đã Khóe thu ba gợn sóng khuynh thành.
thác lời người cung nữ để nói lên cảm nhận Bóng gương lấp ló trong mành,
127
- Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa. Năm ba kẻ thước người hèo,
Còn đây là lời tự sự của cung phi trong Ngõ nhan lôi cái đan biều đập tan.
cái đêm đầu tiên được nhà vua ân ái, gây Gà eo óc vừa tàn giấc mộng,
cho nàng một cảm giác tuyệt vời, một hy Nhặng vo ve sực nức hồn kinh.
vọng được trở thành hậu phi: Cảnh vợ con nheo nhóc:
Cái đêm hôm ấy đêm gì, Tiểu đồng thổn thức xung quanh,
Bóng dương lồng bóng đồ mi trập Thê nhi lăn lóc bên mình khóc than.
trùng. Cao Bá Nhạ tự nói về bản thân mình:
Khoa thược dược mơ mòng thụy vũ, Chim hồng mong chấp cánh bay,
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu. Năm xe kinh sử một tay vẽ vời.
Cành xuân hoa chúm chím đào, Và đây là lời tự tình thuật nghẹn trước
Gió đông thôi đã cợt đào, ghẹo mai. giờ ly biệt:
Đoàn Thị Điểm hóa thân vào người Ngoảnh vào ái ngại thê nhi,
chinh phụ để dịch Chinh phụ ngâm. Trong Ngoảnh ra án cũ cầm thi ngại ngùng.
Chinh phụ ngâm cũng có khá nhiều lời tự Trong Ai tư vãn, chủ thể trữ tình là
sự. người trong cuộc:
Đây là lời tự sự miêu tả về chân dung, - Trong sáu viện, ố đào, ủ liễu,
diện mạo, hành động của người chinh phu Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm ghê.
lúc mới xuất chinh: - Dưới bệ ngọc hàng uyên vò võ,
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn, Cất chân tay thương khó xiết chi.
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang Đinh Nhật Thận hòa vào tâm trạng
beo. người “lữ thứ” để tả cảnh:
Áo chàng đỏ tựa ráng pha, Thơ nhã ái bốn câu lỡ vận,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in. Rượu ly hoài ba chén làm khuây.
Còn đây là lời tự sự miêu tả cảnh chia Trước đèn ngồi tựa như trai,
tay: Não lòng đất khách ngậm ngùi người
Nhủ rồi tay lại cầm tay, xưa.
Bước đi một bước dây dây lại dừng. Các yếu tố tự sự trong các tác phẩm
Chốn Hàm Kinh chàng còn ngoảnh lại, ngâm khúc như đã nói ở trên, gồm khá
Ngác Tiêu Tương thiếp hãy trông sang. nhiều yếu tố, tuy nhiên thể hiện rõ nhất là
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương, một cốt truyện sơ giản.
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy Theo Từ điển thuật ngữ văn học coost
trùng. truyện “là hệ thống các sự kiện cụ thể,
Đây là lời kể, tả về gia cảnh của người được tổ chức theo yêu cầu và tư tưởng
chinh phu: nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ
Kìa lão thân khuê phụ nhớ thương, phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình
Tóc già phơ phất mái sương, thức động của tác phẩm văn học thuộc các
Con thơ măng sữa vả dương phù trì. loại tự sự và kịch” [4, 99].
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa, Cốt truyện là sản phẩm sáng tạo độc
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm. đáo của nhà văn. Mọi cốt truyện đều trải
Trong Tự tình khúc, Cao Bá Nhạ đã kể qua một tiến trình vận động có hình thành,
về cảnh sai nha ập vào nhà ông phá phách: phát triển và kết thúc.
128
- Trong Chinh phụ ngâm khúc, người Trong Cung oán ngâm khúc, cốt truyện
đọc nhận ra cáy ý bao trùm lên khúc ngâm xoay quanh việc một cô gái trẻ đẹp và có
là tiếng nói tố cáo, phản đối chiến tranh. tài, nàng được nhà vua tuyển vào trong
Chiến tranh đã cướp đi tình yêu, hạnh cung:
phúc, tuổi trẻ của con người. Cốt truyện Hương trời đắm nguyệt say hoa,
trong Chinh phụ ngâm xoay quanh câu Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình.
chuyện một đôi vợ chồng trẻ đang sống Lúc đầu nàng được nhà vua cưng
yên ấm, hạnh phúc thì chiến tranh nổ ra, chiều, sủng ái, ân ái mặn nồng thắm thiết:
người chồng vội vã lên đường theo lệnh Mây mưa mấy giọt chung tình,
nhà vua: Đình trầm hương đóa một cành mẫu đơn.
Trống Tràng Thành lung lay bóng Nhưng chẳng bao lâu, nàng đã bị nhà
nguyệt, vua chán bỏ. Ở trong cung, nàng xót
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây. thương cho thân phận của mình và oán
Chín lần gươm báu trao tay, trách nhà vua phụ bạc:
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất Khoảnh làm chi bấy chúa xuân
chinh. Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.
Người chinh phụ trở về khuê phòng, Cung nữ muốn “đạp tiêu phòng mà ra”,
tưởng tượng về cảnh sống của chồng nơi khát khao trở về với cảnh đời “cục mịch
chiến địa. Nàng lo lắng cho chồng ở ngoài nhà quê” thuở trước nhưng nàng vẫn tiếp
chiến trường đầy khốc liệt: tục bị giam cầm trong cung điện vàng son,
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi, trong nỗi buồn đau, sầu thảm và oán hờn
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi. chất chứa. Cuối cùng nàng vẫn khát khao
Chinh phu tử sĩ mấy người, có được những cuộc ân ái hiếm hoi khi
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn. xưa:
Đoạn tiếp theo của khúc ngâm, chủ yếu Tình rầu rĩ làm ngây nhĩ mục,
nói về tâm trạng nhớ thương, mong đợi của Chốn phòng không như giục mây mưa.
người chinh phụ trong cảnh cô quạnh. Giấc chiêm bao những đêm xưa,
Người chồng lần lữa, chín hẹn mười Giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày.
thường đơn sai nhưng người vợ ở nhà vẫn Nàng vẫn mong chờ được nhà nhà vua
làm tròn bổn phận của mình: phụng dưỡng đoái hoài đến và lo lắng không giữ được
cha mẹ già và nuôi con nhỏ. Nỗi sầu cứ sắc đẹp như xưa:
chồng chất, người chinh phụ chán chường Phòng khi động đến cửu trùng,
và tuyệt vọng không thiết tha đến điều gì Giữ sao cho được má hồng như xưa.
chỉ mong được sống cùng chồng. Kết thúc Trong Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ,
tác phẩm, người chinh phụ hình dung ngày người đọc nhận ra cái ý bao trùm của khúc
chồng nàng trở về trong niềm vui chiến ngâm là cái ý oán hận vì tác giả phải trả cái
thắng khải hoàn, được nhà vua ban thưởng tội mà mình không làm. Đại để đó là sự
và cùng nàng sống hạnh phúc trong thanh quanh co, bực bội, âu sầu của người tù Cao
bình, yên ả: Bá Nhạ. Qua tâm sự ấy, ta nhận thấy trước
Giữ gìn nhau vui thuở thái bình hết là đạo nghĩa rất mạnh của Nho gia. Qua
Ngân nga xin gửi chữ tình: tâm sự ấy ta còn nhận thấy một Bá Nhạ
Dường này âu hẳn tài lành trượng phu. giàu tình cảm: lòng nhớ quê hương, thương
129
- cha me, thương vợ con và thương thân trải giải về kinh đô (Huế) để xét hỏi. Nhưng
ra trong nhiều câu lâm ly. sau đó ông được tha và trở về quê nhà. Thu
Theo Phạm Thế Ngũ, tác giả làm ra dạ lữ hoài ngâm được ông làm trong thời
khúc ngâm này chủ ý biện hộ cho mình gian ông bị quản thúc ở Huế. Thu dạ lữ
trước “tội lỗi” (theo quan điểm của nhà hoài ngâm là câu chuyện về nỗi niềm của
Nguyễn) mà chú ông là Cao Bá Quát gây nhà thơ: tình thương nhớ quê hương và gia
ra (cầm đầu khởi nghĩa Mỹ Lương) và xin đình, là nỗi buồn đau, xót xa khi bị giam
triều đình ân xá. Tác phẩm gồm 680 câu cầm ở một nơi lạnh lẽo, xa lạ.
thơ song thất lục bát viết bằng chữ Nôm, Còn cốt truyện trong Ai tư vãn thì lại
có thể chia làm 6 phần: xác định theo bố cục sau:
Mở đầu (8 câu): Sau khoảng tám năm Từ câu 1 đến câu 20: Kể công đức của
lẩn trốn (1854- 1862), tác giả giờ đây bị bắt vua Quang Trung, kể về mối lương duyên
nên làm ra khúc ngâm này để bày tỏ tâm sự của bà:
của mình. Từ câu 21 đến câu 28: Kể về tình nghĩa
Giới thiệu về gia thế (từ câu 9 đến câu vua Quang Trung đối xử với nhà Lê:
36): Tác giả họ Cao ở làng Phú Thị, đã Từ câu 29 đến câu 44: Vua Quang
mấy đời khoa bảng, vẫn luôn lấy sự thanh Trung nhuốm bệnh rồi mất.
liêm cần mẫn làm đầu. Từ câu 45 đến 108: Kể về nỗi niềm
Gia biến và lánh nạn (từ câu 37 đến thương xót của bà, bà hồi tưởng lại cảnh
câu 188): Vì tội của chú (Cao Bá Quát) mà sum vầy đẹp đẽ.
cha tác giả phải tự sát, bản thân phải trốn ở Từ câu 109 đến câu 130: Nỗi buồn
nơi hẻo lánh (Mĩ Đức thuộc Hà Đông cũ) muốn chết theo chồng.
làm thày đồ tạm quên sầu muộn với sách Từ câu 131 đến câu 144: Thương cho
và hoa. Tác giả nói mình đã có vợ con, bấy cảnh côi cút của các con nhỏ và cảnh lẻ loi
lâu nay chỉ mong được nhà vua ân xá. của người góa bụa ở trong cung.
Thuật lại việc bị bắt (từ câu 189 đến Từ câu 145 đến câu 164: Tâm sự đau
câu 324): Không ngờ có người tố giác, bị thương của bà.
quan bao vây, bắt bỏ cũi đưa đi (Hải 3. KẾT LUẬN
Dương, Bắc Ninh), chịu nhiều khổ sở, Có thể thấy mọi chi tiết tự sự được sử
nhục nhã. dụng đều hướng đến nội dung trữ tình được
Kể tâm sự trong ngục (từ câu 325 đến nói đến trong tác phẩm. Và không chỉ đơn
câu 572): Tác giả buồn tủi, đau đớn vì bị oan giản như một yếu tố phụ có vai trò làm
ức nhưng vẫn cố gắng giữ lòng ngay thẳng phông nền cho tâm trạng mà tự sự đóng vai
và rất nhớ về cha mẹ, vợ con ở quê nhà. trò quan trọng. Không có nó, tâm trạng
Kết thúc (từ câu 572 đến 608): Tác giả nhân vật sẽ thiếu đi một bệ đỡ, một điểm
tin vào đạo lý thánh hiền, hy vọng vào tựa để ra đời và phát triển. Dòng tâm trạng
công lý của trời và phúc đức của nhà mình. của nhân vật cũng vì thế mà không thể trôi
Cũng giống như hoàn cảnh của Cao Bá chảy tự nhiên, thuận lợi và dễ dàng trong
Nhạ, Đinh Nhật Thận là bạn thân của Cao chiều của tác phẩm. Và một điều quan
Bá Quát. Khi Cao Bá Quát dấy binh khởi trọng hơn, sự có mặt của yếu tố tự sự sẽ
nghĩa không thành, Đinh Nhật Thận bị giúp tâm trạng nhân vật được “lạ hóa”,
nghi ngờ có liên quan nên ông bị bắt và bị không gây cảm giác nhàm chán và tẻ nhạt
130
- cho người tiếp nhận. Vì sao lại nhận định không gì giải tỏa và vượt thoát được của
như vậy? Có thể thấy, tâm trạng nhân vật tình cảm, nhưng nó rất dễ gây mất hứng
tuy có rất nhiều sắc thái khác nhau nhưng thú cho người đọc. Vì thế việc đưa vào chi
đều đồng quy từ một chữ buồn nên ít nhiều tiết về việc làm, hành động của nhân vật sẽ
nó có sự lặp lại. Tuy rằng sự lặp lại này nhằm đổi khẩu vị thưởng thức cho độc giả,
cũng nằm trong dụng ý của khúc ngâm là khiến họ tưởng chừng như diện kiến một
triển khai đến mức tối đa sự trì trệ, ứ đọng, gương mặt cảm xúc mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
2. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển thuật
ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Lương Văn Đang, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Lộc (1987), Những ngâm khúc chọn
lọc, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
4. Nguyễn Đăng Điệp (giới thiệu và tuyển chọn) (2004), Trần Đình Sử tuyển tập (tập 1),
Những công trình thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
*Ngày nhận bài: 4/6/2014. Biên tập xong: 1/12/2014. Duyệt đăng: 6/12/2014
131
nguon tai.lieu . vn