Xem mẫu

LUẬN VĂN: Vận dụng phương pháp chỉ số trong nghiên cứu và phân tích kinh tế – xã hội Lời giới thiệu Thế kỷ 20 đã đi qua , bước sang những năm đầu của thế kỷ mới .Việt Nam cũng đang hoà mình vào sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung ,áp dụng mô hình kinh tế mới _mô hình “ ...nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ...” trong công cuộc đổi mới đã đánh dáu bước ngoặt quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế đát nước . Căn cứ vào cương lĩnh Đại hội VII đã nêu “ tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc , đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá “ .Mục tiêu của CNH_HĐH là biến nước ta thành nước công nghiêp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại , cơ cấu kinh tế hợp lí ,quan hệ sản xuất tiến bộ , phối hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất , đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao , quốc phòng –an ninh vững chắc , dân giầu nước mạnh , xã hội công bằng , văn minh . Trong mô hình kinh tế mới , sự phát triển của nền kinh tế thị trường luôn luôn biến động theo các qui luật khác nhau , phân công lao động xã hội ngày càng phát triển , tính chất xã hội của sản xuất ngày càng cao,thị trường ngày càng được mở rộng , hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng phức tạp và đòi hỏi hiệu quả hơn .Do đó việc áp dụng khoa học vào sản xuất kinh doanh là tất yếu nhằm thu lợi nhuận cao của các nhà kinh doanh , trong đó khoa học thống đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích các hoạt động sản xuất kinh của các doanh nghiệp . Thống kê nghiên cứu mặt lượng trong mối liên hệ với mặt chất của hiện tượng và quá trình kinh tế – xã hội số lớn trong điều kiện thời gian và không gian cụ thể . Từ đó đề ra giải pháp thiết thực và chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp .Khoa học thống kê ngày nay đang có những bước phát triển lớn do vận dụng tốt các thành quả của toán học và các công cụ tính toán mới .Chỉ số là một phương pháp hữu hiệu của thống kê học . Hiện nay phương pháp chỉ số không chỉ dùng để đánh giá biến động của giá cả mà còn được vận dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực kinh tế nhằm phục vụ cho nhiều mục đích nghiên cứu .Chỉ số có ý nghĩa thực tiễn to lớn đến quá trình phân tích kinh tế – xã hội cả tầm vĩ mô và vi mô . Với lí do này em xin chọn đề tài “Vận dụng phương pháp chỉ số trong nghiên cứu và phân tích kinh tế – xã hội ‘. Phần i lí thuyết chung về chỉ số _ vận dụng phương pháp chỉ số trong phân tích kinh tế-xã hội A .một số vấn đề cơ bản của chỉ số: 1 . khái niệm chỉ số : Chỉ số trong thống kê là chỉ tiêu tương đối biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức nào đó của một hiện tượng . Ví dụ : Có tài liệu về khối lượng than sạch của 1 xí nghiệp khai than năm 1990 là 500.000 tấn , năm 1991 là 584.000 .Nếu so sánh sản lượng than của xí nghiệp nói trên giữa 2 năm 1991 và 1990 ta được chỉ số sản lượng than là 1,168 lần hay 168%. Số tương đối là một dạng chỉ số,ta có các loại số tương đối động thái ,số tương đối không gian ,số tương đối kế hoạch . Chỉ số xuất hiện và trở thành một trong những phương pháp nghiên cứu chủ yếu của thống kê là do yêu cầu phân tích các hiện hiện tượng kinh tế phức tạp , vì vậy đối tượng nghiên cứu chủ yếu của chỉ số là các hiện tượng kinh tế phức tạp ,bao gồm trong nó nhiều phần tử , nhiều đơn vị có tính chất khác nhau (về tên gọi ,về giá trị sử dụng, về đơn vị đo lường …).Để so sánh các mức độ của các hiện tượng kinh tế phức tạp như vậy ,trước hết ta phải tìm cách chuyển các phần tử khác nhau của chúng thành một dạng đồng nhất . 2 .Đặc điểm của phương pháp chỉ số : Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu chủ yếu của chỉ số đòi hỏi phải chuyển các phần tử khác nhau của hiện tượng kinh tế phức tạp thành một dạng đồng nhất trực tiếp cộng lại được với nhau để so sánh được với nhau ,phương pháp có các đặc điểm sau đây : a. Khi muốn so sánh các mức độ của hiện tượng kinh tế phức tạp giữa hai thời gian hoặc không gian khác nhau trước hết phải chuyển các phần tử khác nhau của hiện tượng thành dạng giống nhau để có thể trực tiếp cộng lại được với nhau dựa trên mối liên hệ của hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng khác . Ví dụ : Ta không thể so sánh toàn bộ khối lượng các loại sản phẩm tính bằng hiện vật của một đơn vị sản phẩm giữa hai thời kỳ khác nhau .Toàn bộ sản phẩm sản xuất ra trong thời kỳ tính bằng hiện vật là 1 hiện kinh tế phức tạp , nó bao gồm các phần tử (các loại sản phẩm ) có đơn vị khác nhau nên không thể trực tiếp cộng lại với nhau . Nếu ta dùng giá cả đơn vị sản phẩm làm công cụ , bằng này nhân với các khối lượng sản phẩm tương ứng ta có thể chuyển các phần tử khác nhau đó thành dạng đồng nhất (dạng giá trị ) và từ đó ta có thể cộng chúng lại với nhau thành chỉ giá trị tổng sản lượng để so sánh . b. Trong việc xây dựng chỉ số có nhiều nhân tố cùng tham gia vào quá trình tính toán. Để nghiên cứu sự biến động của nhân tố định nghiên cứu ta phải loại trừ ảnh hưởng biến động của các nhân tố khác bằng cách giả định các nhân tố này là khong thay đổi . Ví dụ :Khi tìm chỉ số nghiên cứu sự động của toàn bộ khối lượng của sản phẩm sản xuất ra giữa hai thời kỳ khác nhau của đơn vị sản xuất nói trên sẽ có 2 nhân tố cùng tham gia vào việc tính toán : giá cả đơn vị sản phẩm và khối lượng sản phẩm tương ứng .Để nghiên cứu sự biến động của khối lượng ,ta phải loại sự biến động của yếu tố giá cả bằng cách nhân từng loại khối lượng sản phẩm ở cả 2 thời kỳ với giá cả tương ứng của một thời kỳ nào đó (kỳ nghiên cứu hoặc kỳ gốc ) 3. Tính chất và tác dụng của chỉ số : Với đối tượng nghiên cứu chủ yếu của mình chỉ số có những tính chất đáng chú ý Một mặt ,chỉ số vừa có tính tổng hợp , vừa có tính phân tích . Mặt khác , không giống các số tương đối thông thường , chỉ số là số tương đối có tính giả định .Nó là kết quả của sự so sánh giữa hai đại lượng mà trong đó ít nhất một đại được xác định theo giả thuyết không tồn tại trong đời sống kinh tế thực . Vì những tính chất trên ,người ta nói là một số tương đối đặc biệt. Trong phân tích kinh, chỉ số có những tác dụng sau đây : a. Biểu hiện sự biến động của hiện tượng qua thời gian . Các chỉ được tính toán nhằm mục đích này được gọi là chỉ số phát triển ,được tính bằng cách so sánh hai mức độ của hiện tượng ở hai thời gian khác nhau (kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc ) . b. Biểu hiện sự động của hiện tượng qua không gian khác nhau .Như so sánh 1 hiện tượng kinh giữa 2 nghành ,2 địa hoặc xí nghiệp khác nhau … Các chỉ số này được gọi là chỉ số không gian hay chỉ số địa phương . c. Biểu hiện các nhiệm vụ kế hoạch hoặc tình hình thực hiện kế hoạch các chỉ tiêu kinh tế .Các chỉ này được gọi là chỉ số kế hoạch. ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn