Xem mẫu
- MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Đóng góp của đề tài
7. Cấu trúc của đề tài
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT CỦA Y PHƯƠNG
1.1 Cuộc đời và văn nghiệp nhà thơ Nhà thơ Y Phương
1.2 Quan niệm nghệ thuật của Y Phương
1.2.1 Sống và viết như tờ giấy không thể để mất lề
1.2.2 Viết văn như một cuộc chơi đầy hứng khởi
1.2.3 Viết văn như là một cách tri ân cuộc đời
1.3 Từ quan niệm nghệ thuật đến “cái tôi” sáng tạo trong thơ Y Phương
Chương 2. NGUỒN CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG THƠ Y PHƯƠNG
2.1 Cảm hứng chung về quê hương đấ nước
2.2 Quê hương trong truyền thống văn hóa
2.3 Cảm hứng về tình yêu
2.3.1 Tình yêu đôi lứa
2.3.2 Tình cảm đối với người thân
Chương 3. NÉT ĐẶC SẮC TRONG NGHỆ THUẬT THƠ Y PHƯƠNG
3.1 Ngôn từ nghệ thuật
3.1.1 So sánh nghệ thuật
3.1.2 Cái mới trong ngôn từ
3.2 Thời gian nghệ thuật
3.3 Không gian nghệ thuật
- KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
TƯ LIỆU KHẢO SÁT VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC: Chân dung nhà thơ Y Phương
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong hơn 30 năm cầm bút, nhà thơ Y Phương đã để lại dấu ấn riêng, với
những đóng góp riêng cho thơ ca Việt Nam hiện đại. Phong cách thơ ông vừa hiện
đại vừa dân tộc, bởi ông đã kết hợp truyền thống của quê hương Cao Bằng, của
dân tộc Tày với truyền thống của đất nước. Đọc thơ Y Phương có cảm giác thoải
mái mà lắng đọng do cách viết hồn nhiên và thật nhiều suy ngẫm.
Y Phương đã đoạt được nhiều giải thưởng văn học lớn như: Giải A cuộc thi
thơ tạp chí Văn nghệ Quân đội, Giải thưởng loại A của Hội Nhà văn Việt Nam,
Giải A của Hội đồng Văn học Dân tộc Hội nhà văn Việt Nam, và vinh dự được
nhận Giải thưởng Nhà nước đợt 2 về Văn học Nghệ thuật năm 2007.
Thế giới nghệ thuật của Y Phương có không gian riêng, thời gian riêng và qui
luật tâm lí riêng...Thế giới nghệ thuật ấy ứng với một quan niệm về thế giới, một
cách cắt nghĩa về thế giới. Qua thế giới nghệ thuật, người đọc có thể hình dung
tính độc đáo về tư duy nghệ thuật của nhà thơ. Để tạo được dấu ấn trong lòng độc
giả, có vị trí xứng đáng trong thơ Việt Nam hiện đại, bản thân Y Phương phải trải
qua quá trình lao động nghệ thuật miệt mài, nghiêm túc, trăn trở với từng con chữ.
Mong muốn của nhà thơ là tạo ra những công trình nghệ thuật đặc sắc góp phần
làm đẹp cuộc sống và phần nào có thể bảo tồn được vốn văn hóa của dân tộc mình.
Những thành công mà ông đạt được thật đáng khâm phục. Dù cho cuộc sống đôi lúc
khó khăn, nhưng ông vẫn sống hết mình cho thơ, ông tự khẳng định mình bằng
chính những vần thơ giản dị, thiết thực, gần gũi mà nhiều suy ngẫm.
Nghiên cứu “Thế giới nghệ thuật thơ Y Phương” sẽ góp phần khẳng định
tài năng và đóng góp của nhà thơ cho nền văn học Việt Nam mà nói riêng là thơ ca
Việt Nam hiện đại.
- 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Quá trình lao động nghệ thuật miệt mài của Y Phương đã đóng góp một số
lượng tác phẩm không nhỏ cho nền Văn học Việt Nam hiện đại. Y Phương từng
viết kịch nói, vở kịch “Người núi hoa” được sáng tác năm 1982. Tuy nhiên, lĩnh vực
Y Phương để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả chính là thơ, bao gồm 1
trường ca, 1 tập thơ in chung “ Lửa hồng một góc” và 5 tập thơ in riêng. Bên cạnh
đó, ông còn thử sức ở lĩnh vực tản văn văn xuôi.
Con đường đến với văn chương của Y Phương thật ngẫu nhiên. Khi còn ở
quân đội, đơn vị có mở cuộc thi viết báo tường vào năm 1972, Y Phương tham gia
cùng đồng đội với tinh thần góp vui. Điều bất ngờ với ông là nhóm cán bộ Phòng
Văn nghệ quân đội trong chuyến công tác đã chọn bài khá nhất đăng báo. Những tác
phẩm đầu tiên của Y Phương được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội là “Bếp
nhà trời”, “Dáng một con sông”(Số 6 năm 1973). Kể từ đó “Y Phương nhẩn nha
sống, nhẩn nha thơ” như nhà thơ Trần Mạnh Hảo từng nhận xét. Cho dù đôi lúc
con đường thơ của ông cũng gặp nhiều trắc trở “ rượu nấu xong hết vèo, còn thơ thì
cứ xếp từng xấp để đấy, có bạn tâm giao đến thì đọc, nhâm nhi với nỗi buồn cho
qua ngày” [3,290]. Văn chương như cái nghiệp đeo đuổi nhà thơ. Sự nhẫn nại của
ông với nghề nghiệp đã được đền bù xứng đáng. Tập thơ “Tiếng hát tháng giêng”
được sở Văn hóa thông tin Cao Bằng ra mắt bạn đọc năm 1986 khiến nhiều người
bất ngờ bởi “những phát hiện và lối diễn đạt rất mới, một tư duy thơ của một
người dân tộc, mở mắt ra đã thấy núi án ngữ trước nhà, con đường cũng chảy dọc
núi mà đi … và hình như, tất cả những mảnh miền văn hóa, những gì cội rễ… cũng
từ núi mà thành” [18]. Tập thơ “Tiếng hát tháng giêng” được trao giải A – Hội Nhà
văn (1987).
Thơ Y Phương thu hút sự quan tâm của nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu, phê
bình văn học như: Tế Hanh, Phạm Hổ, Chu Văn Sơn, Nguyễn Hữu Tiến, Trúc
Thông, Hồng Diệu, Thái Vĩnh Linh, Tạ Duy Anh, Đỗ Trung Lai, Trần Mạnh Hảo,
Phạm Quang Trung… Tất cả các bài viết hầu như đều đánh giá cao tài năng của Y
Phương, thể hiện sự đồng cảm với những vần thơ đầy tình cảm với quê hương,
đất nước và dân tộc Tày…, bài nào cũng ẩn chứa những ý thơ hoặc câu thơ hay.
Hiện nay, những bài viết về thơ Y Phương được tập hợp trong tập “Thơ Y
- Phương”, hoặc được đăng rải rác trên các báo trong toàn quốc. Các bài viết tập
trung phân tích nội dung xã hội của các tác phẩm, đồng thời khẳng định nét riêng
độc đáo trong phong cách thơ Y Phương. Thơ của Y Phương thường là thơ tự do,
sáng tác theo cảm hứng ngẫu nhiên.
Hầu hết các bài viết đều nhằm khám phá những nét đẹp riêng của thơ Y
Phương như: quan niệm nghệ thuật, cảm hứng sáng tạo, và nét đặc sắc trong nghệ
thuật …
2.1 Quan niệm nghệ thuật là yếu tố quan trọng làm nên nét đặc sắc của thơ
Y Phương.
Nguyễn Sĩ Đại đưa ra nhận xét: “Y Phương là người có quan niệm sống,
quan niệm nghệ thuật một cách rõ ràng, một nhà thơ có tư tưởng, có quan niệm
nghệ thuật là biểu hiện của một nhà thơ lớn” [6].
Phạm Quang Trung thì thừa nhận:“Y Phương trước sau nhất quán một xác
tín nghề nghiệp” [44]. Như nhiều người cầm bút khác, Y Phương đã trăn trở trên
từng trang viết, “luôn đòi hỏi cao với bản thân” [87,170] trau chuốt lại những vần
thơ đã ra đời, đó cũng là điều hay gặp ở nhiều người sáng tác có ý thức.
Nhận xét chung khi đọc ba tập thơ Tiếng hát tháng giêng, Lời chúc, Đàn
then của Y Phương, Trần Mạnh Hảo khẳng định: “Thơ Y Phương bình dị, chân
chất, hồn nhiên, giấu cất mà không he hé lộ thiên, lặng lẽ mà bùng nổ, nhẩn nha
như chính cuộc đời ông, con người ông” [3, 301].
Tạ Duy Anh cảm nhận về thơ Y Phương “cũng như rượu ngon, thơ ông càng
để lâu càng ngấm thời gian, có điều kiện để ông thanh lọc những tạp chất, trở nên
tinh khiết – cái tĩnh lặng luôn luôn là môi trường của ý tưởng sâu sắc” [3, 290].
Khi giao tiếp với Y Phương, mọi người sẽ có cảm nhận giống như nhà văn
Nguyễn Hữu Tiến: “Y Phương của đời thường và Y Phương trong thơ là một. Bạn
đọc tìm thấy ở thơ anh một tiếng nói chung, ấy là sự đồng lòng, đồng cảm” [3,
271].
Chu Văn Sơn lại chỉ ra sự nghiêm túc trong lao động nghệ thuật của Y
Phương một người vùng cao nhưng đã khắc phục được cái “thô ráp, ngây ngô vốn
là nhược tật của lối cảm đó” [3, 267].
- 2.2 Cảm hứng sáng tạo của Y Phương cũng là vấn đề được nhiều bài viết
đề cập khi tìm hiểu thơ Y Phương.
Tế Hanh cho rằng: “Y Phương bắt đầu tuổi trẻ mình bằng cuộc đời người
lính và bắt đầu đời thơ mình là những bài thơ đánh giặc” [3, 244]. Theo ông, mảng
thơ của Y Phương viết về non nước Cao Bằng rất thiết tha và linh hoạt, còn những
bài thơ nói về mẹ, về con, về người yêu thì mang đậm bản sắc dân tộc.
Nhà thơ Phạm Hổ khi tìm hiểu tập “Tiếng hát tháng giêng” lại khai thác ở
đề tài và chỉ ra ba đề tài chính của tập thơ là:
“ Lòng yêu và niềm tự hào quê hương đất nước, về con người nói chung và
về con người quê hương nói riêng.
Tâm trạng và ý chí người cầm súng đi chiến đấu và ở xa quê hương.
Tình yêu” [3, 249].
Chu Văn Sơn cũng đồng tình “sự tha thiết với xứ sở dân tộc mình chính là
nhịp tim thầm kín bền vững nhất trong từng bài thơ Y Phương, là cốt lõi của giọng
hát Y Phương” [3, 260]. Ngoài ra, “Trong Tiếng hát tháng giêng, Y Phương còn
chứng tỏ sự độc đáo của mình ở một mảng thơ khác – thơ tình” [3, 264].
Đề cập đến nội dung thơ Y Phương, Di Linh khẳng định: “những hình bóng
thiếu nữ Tày, là một hình tượng văn học khỏe khoắn, chủ đạo nhất của thơ Y
Phương”[17].
Theo Nguyễn Hữu Tiến thì “những làn điệu dân ca đa dạng và phong phú ở
Trùng Khánh là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn Y Phương để rồi sau này thơ anh có
sức ngân vang và bay xa” [3, 270]. Có thể nói Y Phương là “một nhà thơ chung thủy
với quê hương” [3, 271].
“Y Phương không yêu dân tộc mình ở đầu lưỡi, lạm dụng chất dân tộc ” [3,
273] – đó là nhận xét của Trúc Thông về tập thơ “Lời chúc” của Y Phương.
Nhận xét về thơ tình Y Phương – Hồng Diệu cho rằng: “Nói chuyện tình yêu
của con người với con người mà kết hợp với thiên nhiên, với tự nhiên như vậy vừa
cổ xưa, vừa hiện đại” [3, 278].
Thái Vĩnh Linh lại tìm thấy “không khí sinh động của cuộc sống miền núi”
[3, 284] trong tập “Đàn then”.
- Kết luận về thơ tình Y Phương, nhà nghiên cứu Phạm Quang Trung cho
rằng:“Tình yêu đích thực bao giờ cũng vậy, nâng đỡ con người ta, hướng con người
ta tới cõi thiêng liêng” [87, 176] và khẳng định nếu không là Y Phương “ thì chúng ta
đã không thể có những bài thơ thắt lòng vì tha thiết yêu mà không thể sống cùng
nhau, song vết thương lòng thì chừng như không lành theo năm tháng” [87, 170].
Nguyễn Sĩ Đại cũng phát hiện thấy thơ Y Phương “có hai mảng đề tài rõ rệt
tình yêu quê hương và chiến tranh” [6].
2.3 Ngoài ra, những nét đặc sắc trong nghệ thuật cũng là vấn đề dễ tìm thấy
trong nhiều bài viết về thơ Y Phương.
Đỗ Trung Lai trong bài viết “Chín tháng – Khúc ca tôn vinh người mẹ chiến
sĩ”, phát hiện trường ca “lời không dài mà gói buộc được nhiều. Thế tức là ý tại
ngôn ngoại, là thơ hay” [3, 295]. Và “Y Phương là một giọng điệu riêng, trộn lẫn
một cách hài hòa lối nghĩ, lối nói của dân tộc anh” [3, 301].
“Bằng bút pháp điêu luyện, ngôn ngữ chọn lọc, giữ được sự tinh tế của tình
cảm pha lẫn cái dung dị, mộc mạc đầy chất núi rừng” [3, 287] là nhận xét của tác
giả Thái Vĩnh Linh.
Từ việc tìm hiểu những bài thơ trong Lời chúc, Hồng Diệu đi đến kết luận
về thơ Y Phương “Có thể nhận ra một đặc điểm của nhà thơ này: diễn đạt ý mình
thật mạch lạc và kín đáo” [3, 280]. Điểm thành công của tập Lời chúc là “cách so
sánh gần với tự nhiên và nhiều khi hồn nhiên, ngộ nghĩnh là một đặc điểm của
người dân tộc thiểu số” [3, 282]. Tập thơ“thấp thoáng cái riêng của anh, hoặc là ở
ý tứ, hoặc là ở câu chữ”[ 3, 282].
Trúc Thông lại nhận thấy Y Phương “không ngừng xoay ngang, xoay dọc,
tìm cách bộc lộ thơ ca ở những nhịp điệu, những hình ảnh, những từ ngữ bản chất
nhất, khêu gợi nhất, cô đọng nhất” [3, 275].
Nguyễn Hữu Tiến đưa ra một nhận định có tính khái quát về phong cách thơ
Y Phương “vừa hiện đại vừa dân tộc là bởi vì anh đã biết kết hợp truyền thống
văn hóa của quê hương với mọi miền quê của đất nước” [3,272].
Với Di Linh thì thơ Y Phương “là một sự lạ lùng quyến rũ đến kì lạ, là một
hương vị mới trong bữa tiệc đã quá nghèo nàn và nhàm chán !” [18].
- Không chỉ vậy, Chu Văn Sơn còn phát hiện ra nét bản chất trong tập “ Tiếng
hát tháng giêng” chính là “yếu tố hiện đại đã tìm thấy một cơ chế kết hợp hợp lí
nào đó với yếu tố truyền thống” [3,269].
Hiện thực cuộc sống được Y Phương đưa vào thơ, khiến những vần thơ ông
“vừa dân tộc, vừa hiện đại, vừa cô đúc, vừa khoáng đạt”[ 3, 255], đó là nhận xét
của nhà thơ Phạm Hổ.
Ngoài ra cũng có nhiều nhận xét về những điểm hạn chế của thơ Y Phương.
Tế Hanh chỉ ra sự non nớt trong sáng tác nghệ thuật của Y Phương là “ nhiều
chỗ vụng về đôi khi ngô nghê” [3, 247].
Chu Văn Sơn chỉ ra nhược điểm của tập thơ “Tiếng hát tháng giêng” ở chỗ
“vẫn còn một số bài loãng, lép như Một ngày bình yên, Kỉ niệm đội chiếu bóng,
Hương thơm trái thị” [3, 269].
Theo Trúc Thông, thơ Y Phương “không phải bài nào cũng hay, câu nào cũng
quý, chữ nào cũng đẹp” [3, 275].
Thái Vĩnh Linh chỉ rõ hạn chế của tập “Đàn then” là “một số bài còn lộ
nhiều thô vụng hay giản lược, một số bài có vẻ lời đi qua tứ” [3, 287].
Trần Mạnh Hảo cũng cho rằng, thơ Y Phương “ có nhiều bài hay và cả
nhiều bài thơ chưa hay” [3, 309].
Có thể thấy, điểm gặp nhau của các nhà nghiên cứu về thơ Y Phương là bên
cạnh việc chỉ ra những thiếu sót cần khắc phục của cây bút Y Phương thì họ đều
có chung nhận xét là thơ Y Phương có chất giọng điềm tĩnh, suy tư, trong đó những
bài viết về quê hương Cao Bằng là những sáng tác thành công nhất. Và điều đặc
biệt là thơ Y Phương vừa có tính hiện đại, vừa có tính dân tộc. Tác giả Trần Đăng
Suyền trong sách giáo khoa Ngữ văn 12, Tập I khẳng định: “Những cây bút làm thơ
sau 1975 xuất hiện ngày càng nhiều, đã và đang từng bước khẳng định vị trí của
mình, tiêu biểu là Y Phương với tập Tiếng hát tháng giêng” [63, 15].
Năm 2005, Bộ giáo dục và Đào tạo tuyển chọn bài thơ “Nói với con” của Y
Phương đưa vào giảng dạy chính thức trong chương trình Ngữ văn lớp 9 THCS.
Đó là điều kiện để tác phẩm của ông đến được với đông đảo bạn đọc.
- Qua các bài nghiên cứu, phê bình về thơ Y Phương, chúng tôi nhận thấy các
tác giả đã có đóng góp trong việc chỉ ra những đổi mới trong cách viết của Y
Phương so với các nhà thơ dân tộc đàn anh khác, và phát hiện ra nhiều đặc điểm
thơ Y Phương. Tuy nhiên chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu, khảo sát
một cách toàn diện và có hệ thống về thơ Y Phương để từ đó rút ra những đặc
điểm trong phong cách, nội dung tư tưởng và nghệ thuật thơ Y Phương. Vì lí do
trên, nghiên cứu về thế giới nghệ thuật thơ Y Phương là một việc làm cần thiết, có
ý nghĩa, nhằm đánh giá những thành tựu của một nhà thơ quân đội tiêu biểu, qua đó
có thể thấy được những đóng góp của nhà thơ cho thơ ca Việt Nam.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về thế giới nghệ thuật thơ Y Phương là một việc làm cần thiết,
nhằm đánh giá những thành tựu của Y Phương, qua đó có thể thấy được những
đóng góp của nhà thơ đối với thơ Việt Nam hiện đại.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Mỗi tác phẩm của Y Phương là một công trình nghệ thuật bằng ngôn từ, một
chỉnh thể nghệ thuật đặc sắc, được chi phối bởi quan niệm thẩm mĩ nhất quán. Đối
tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ các sáng tác thơ của Y Phương.
Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài “Thế giới nghệ thuật thơ Y Phương”
phạm vi khảo sát và trích dẫn của luận văn trong các tập thơ sau:
Đàn then – Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1996.
Chín tháng (Trường ca) – Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.
Thơ Y Phương – Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2002.
Thất tàng lồm (Thơ song ngữ) – Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2006.
Ngoài ra, để có thể làm rõ phong cách thơ Y Phương, chúng tôi khảo sát thêm
một số bài viết của chính tác giả đăng rải rác trên các báo. Trong điều kiện và
chừng mực nhất định, chúng tôi so sánh tác phẩm của ông với tác giả người dân tộc
ít người khác như Inrasara để từ đó rút ra những nét riêng biệt ở thơ Y Phương.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thực hiện đề tài “Thế giới nghệ thuật thơ Y Phương”, tác giả luận văn vận
dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử xã hội: Bất cứ một tác phẩm văn học nào
cũng đều xuất hiện trong điều kiện lịch sử xã hội nhất định, và tác phẩm chịu sự
chi phối ở mức độ này hay mức độ khác bởi hoàn cảnh lịch sử xã hội đó. Người
viết vận dụng phương pháp này để tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử xã hội có những
biến cố gì ảnh hưởng đến quá trình sống và sáng tạo nghệ thuật của Y Phương. Từ
đó, hiểu thêm vì sao nhà thơ Y Phương lại có những tác phẩm mang nét độc đáo,
riêng biệt để lại ấn tượng trong lòng độc giả.
Phương pháp so sánh: Để làm rõ phong cách thơ Y Phương với quan niệm
độc đáo về văn chương cùng những nguồn cảm hứng lớn trong thơ ông, người viết
có so sánh đối chiếu với một số tác giả, tác phẩm dân tộc ít người khác.
Phương pháp hệ thống: Sử dụng phương pháp này người viết coi thế giới
nghệ thuật thơ Y Phương là một chỉnh thể toàn vẹn, một hệ thống chặt chẽ, gồm
hai bộ phận liên kết với nhau là nội dung nghệ thuật và hình thức nghệ thuật.Từ
việc vận dụng phương pháp hệ thống nhằm toát lên sự thống nhất giữa quan niệm
nghệ thuật và con người đời thường của tác giả.
Phương pháp loại hình: Vận dụng phương pháp loại hình để tìm hiểu lịch
sử vấn đề, làm rõ những ý kiến khác nhau khi nhận xét, đánh giá về thơ Y Phương.
Từ đó giúp người viết có cái nhìn khái quát, toàn diện hơn khi nghiên cứu thế giới
nghệ thuật thơ Y Phương.
Phương pháp liên ngành: Nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn cần sử
dụng nhiều loại hình tri thức thì tác phẩm được nghiên cứu mới có chiều sâu. Áp
dụng phương pháp liên ngành để hiểu thêm về phong tục, văn hóa dân tộc Tày tồn
tại trong tác phẩm của Y Phương.
Ngoài ra người viết còn sử dụng các phương pháp khác như thống kê, phân
tích tác phẩm văn học dựa trên những đặc trưng thể loại và những phạm trù của lí
luận thi pháp làm phương tiện khảo sát.
Để hoàn thành tốt được luận văn, người viết còn gặp gỡ và trao đổi trực tiếp
với nhà thơ Y Phương tại trại sáng tác Lâm Đồng vào tháng 12 năm 2008.
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Việc nghiên cứu “Thế giới nghệ thuật thơ Y Phương ” góp phần khẳng định
những đóng góp của Y Phương trong nền thơ Việt Nam hiện đại.
Luận văn tìm hiểu thơ Y Phương trên bình diện thế giới nghệ thuật, đây là
một cách tiếp cận mới. Thế giới nghệ thuật thơ Y Phương được hình thành từ quan
niệm nghệ thuật nhất quán, từ cách nhìn về con người và cuộc đời. Quá trình tìm
hiểu thơ Y Phương người viết nhận thấy những nhận thức về quê hương Cao
Bằng, con người và tình yêu chính là nguồn cảm hứng dạt dào của nhà thơ. Người
viết cũng cố gắng chỉ ra giọng điệu riêng trong sáng tạo nghệ thuật của Y Phương.
Luận văn có thể là một tài liệu tham khảo cần thiết cho việc tìm hiểu thơ
Việt Nam hiện đại.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Nghiên cứu “Thế giới nghệ thuật thơ Y Phương”, trước tiên người viết trình
bày các quan niệm nghệ thuật của Y Phương. Đây là tiền đề để đi vào tìm hiểu
những nguồn cảm hứng lớn của nhà thơ. Từ đó tác giả luận văn tìm ra những nét
đặc sắc về nội dung cũng như nghệ thuật của thơ Y Phương. Để thực hiện những
yêu cầu trên, ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được tổ chức thành 3
chương như sau:
Chương 1: Quan niệm nghệ thuật của Y Phương
Chương 2: Nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ Y Phương
Chương 3: Nét đặc sắc trong nghệ thuật thơ Y Phương
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT CỦA Y PHƯƠNG
1.1 Cuộc đời và văn nghiệp
Tên khai sinh của Y Phương là Hứa Vĩnh Sước, các bút danh: Y Phương,
Chu Văn Păn, Hứa Hiếu Lễ. Ông sinh ngày 24 tháng 12 năm 1948. Quê ở xã Lăng
- Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Cuộc đời nhà thơ Y Phương “ dù không
cay đắng nhưng cũng nhiều nỗi muộn phiền” [17], và chính những nỗi phiền muộn
đã là nỗi ám ảnh trong cuộc đời và thơ ông. Sinh trưởng trong một gia đình dân tộc
Tày, ông cụ thân sinh là Hứa Văn Cường một thầy tào chữa bệnh cho nhiều
người. Mẹ ông là Nông Thọ Lộc một phụ nữ đảm đang. Thuở nhỏ, Y Phương có
mơ ước học được những phép thuật của cha, những bài thuốc cứu người… để sau
này nối nghiệp cha làm thầy mo, chữa bệnh. Thế nhưng ông cụ thân sinh biết Sước
không hợp với nghề này nên không mặn mà truyền nghề. Y Phương biết những bài
cúng, bài than, học chữ từ cha. 9 tuổi, Y Phương mới bắt đầu học trường cấp một
thị trấn Trùng Khánh và tập nói tiếng Kinh. Niềm đam mê văn chương đã có trong
ông từ rất sớm. Bạn bè thời ấu thơ của ông là sách. Mỗi sáng được mẹ cho 5 xu để
ăn quà, ông đã dành dụm số tiền ít ỏi này mua sách đọc. Cải cách ruộng đất diễn ra,
mặc dù sau đó đã được sửa sai nhưng để lại không ít chuyện đau buồn cho người
dân. Y Phương cũng là một nạn nhân của cuộc cách mạng ấy, gia đình bị quy kết
thành phần, tất cả những người có chữ, nhất là chữ Pháp, đều bị gọi đi làm cỏ vê
(làm khổ sai, cải tạo). Dù học chưa hết cấp III, Y Phương đã ý thức “lí lịch” không
đẹp đẽ của gia đình, ông quyết tâm làm lại cuộc đời bằng việc xung phong đi bộ
đội. Là con một, Hứa Vĩnh Sước đã trải qua cuộc đời người lính đặc công, và đến
với thơ ca thật tình cờ.
Những bài thơ đầu tiên được in báo năm 1973 là “Bếp nhà trời”, “Dáng một
con sông” khiến Y Phương có cảm giác hạnh phúc và sung sướng. Y Phương nhập
ngũ năm 1968, phục vụ quân đội đến năm 1981 thì chuyển về công tác tại Cao
Bằng. Ông bắt đầu thực hiện giấc mơ hồi trẻ là được đi học, trước hết học
Trường Điện ảnh Việt Nam từ 1976 đến 1979, rồi học khóa II (19821986) Trường
Viết văn Nguyễn Du. Năm 1986 về công tác tại Sở Văn hóa Thông tin Cao Bằng và
từ 1991 là Phó giám đốc Sở Văn hóa Thông tin. Từ 1993, ông là Chủ tịch Hội văn
học Nghệ thuật Cao Bằng, Uỷ viên BCH, Trưởng ban kiểm tra Hội Nhà văn Việt
Nam khóa VI. Hiện nay ông công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam.
Y Phương từng được Giải A cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ Quân đội, Giải
thưởng loại A của Hội Nhà văn Việt Nam (1987) với tập thơ Tiếng hát tháng giêng,
Giải A của Hội đồng Văn học dân tộc – Hội Nhà văn Việt Nam với tập
- thơ Lời chúc, Giải B của UBTQ liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam
với tập trường ca Chín tháng (2001), Giải B của Bộ Quốc phòng với trường
ca Chín tháng (2001). Ông được vinh dự nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học
Nghệ thuật năm 2007.
1.2 Quan niệm nghệ thuật của Y Phương
Cao Bằng quê hương Y Phương xưa kia vào thế kỉ XV là kinh thành của
nhà Mạc. Đây là vùng đất kì lạ, các ngọn núi từ thấp đến cao đều lao vút lên, nhọn
hoắt. Theo Tạ Duy Anh nơi đó “giữa bình minh và hoàng hôn là cuộc sống sôi sục.
Nó vừa bí ẩn, buồn chết đi được, vừa đầy cám dỗ. Có một chất thơ dịu ngọt cứ
thấm dần vào tâm hồn bạn bất cứ ai sinh ra ở đấy đều ít nhiều là một nhà
thơ” [3, 290]. Có thể khẳng định núi non Cao Bằng góp phần tạo nên chất nghệ sĩ
dồi dào trong con người Y Phương. Nhập ngũ từ năm 1968, Y Phương là một chiến
sĩ đặc công. Con đường đến với thơ ca của ông thật ngẫu nhiên. Từng thể nghiệm
qua nhiều nghề, nhưng cuối cùng: “Tất cả sự thể nghiệm ấy chỉ cho ông câu trả lời
diễu cợt: nếu không trở thành nhà thơ thì ông sẽ chẳng thành gì hết!” [3, 291]. Và
từ đó, Y Phương ở hẳn lại với thơ. Y Phương là một nhà thơ có phong cách riêng
bởi khi sáng tác ông luôn đi tìm cái mới, cái độc đáo. Thực tế, trong văn chương
nghệ thuật không mới, không độc đáo thì khó lòng tạo được ấn tượng, thu hút được
độc giả và không có chỗ đứng trong thế giới nghệ thuật.
Thế giới nghệ thuật là một “khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ
thuật. Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng sáng tác nghệ thuật là một thế giới
riêng được sáng tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng, khác với thế giới thực tại vật
chất hay thế giới tâm lí của con người mặc dù nó phản ánh các thế giới ấy. Thế
giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian riêng, có qui luật tâm lí riêng, có quan
hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng… chỉ xuất hiện một
cách có ước lệ trong sáng tác nghệ thuật” [56, 302303]. Với Y Phương điều quan
trọng nhất là phải biết sống và giữ gìn khuôn phép, kể cả trong thơ và đời sống
thực. Ông từng tâm niệm: “Cuộc đời tôi sống và viết như tờ giấy này, có thể nhàu
nát và rách nhưng không mất lề” [55, 543]. Y Phương trong cuộc sống đời thường
và Y Phương trong thơ là một, người đọc dễ tìm thấy ở ông một tiếng nói chung,
đồng cảm. Với một cách nói thật khiêm tốn, nhà thơ thổ lộ: “Những gì mình làm
- được đấy là của ông bà cả thôi” [3, 270]. Văn chương với Y Phương là một trò
chơi ngôn ngữ phục vụ cho chính bản thân nhà thơ và cho người đọc. Ông cho rằng:
“Cho đến bây giờ tôi vẫn cho văn chương là một thứ chơi. Chơi cho mình thích và
cho người ta thích” [51, 252]. Tác phẩm của Y Phương gắn với chiều sâu thế giới
nội tâm của ông. Những vần thơ của Y Phương được khơi nguồn từ sự sống, từ
cuộc đời cụ thể, những trải nghiệm của ông. Khi cuộc sống đã trải qua biết bao
thăng trầm thì tác phẩm của Y Phương thể hiện triết lí với nhiều trăn trở và suy
ngẫm. Quan niệm văn chương của ông hiện rõ điều này: “Văn chương là một việc
làm trả ơn những người sinh thành và nuôi dưỡng mình” [55, 776].
Trong suốt quá trình sáng tạo nghệ thuật, Y Phương luôn quan sát, chiêm
nghiệm cuộc sống từ nhiều phương diện khác nhau. Cuộc sống đa dạng, phong phú
nhiều chiều ấy đã tác động đến tâm trạng Y Phương vì thế quan niệm về văn
chương, về thơ của ông cũng phong phú, sống động và nhiều ý nghĩa. Và kết tụ
trong quan niệm về ngôn từ của nhà thơ “theo dòng chữ được hình thành trên cơ sở
tự ý thức rất cao, có hạt nhân khoa học chứ không phải chỉ là những ý nghĩ cảm
tính” [65, 373].
1.2.1 Sống và viết như tờ giấy không thể để mất lề.
Từ ngàn xưa ông, bà đã răn dạy “Giấy rách phải giữ lấy lề”, nguyên tắc
sống và nguyên tắc cầm bút của Y Phương cũng thế. Con người nhà thơ mộc mạc,
giản dị trong cả đời thường. Tuổi thơ của Y Phương được bao bọc bởi những câu
chuyện tưởng như huyền thoại, về một người cha đầy bí ẩn của chính mình chính
cái lí lịch ấy trở thành một tì vết tạo trắc trở cho nhà thơ khi muốn hòa nhập cùng
cộng đồng. Nguyên tắc sống ấy đã theo suốt người lính đặc công từ các chiến
trường ở mặt trận phía nam và biên giới phía bắc cho đến khi rời quân ngũ trở thành
nhà thơ thực sự. Sống giữa thủ đô Hà Nội là một dịp để nhà thơ tự nhận thức về
mình và dân tộc mình. Ông vẫn giao tiếp với vợ con bằng tiếng Tày để giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc. Nhà thơ cảm thấy buồn khi con em dân tộc ít người quên đi
nguồn cội, quên đi bản sắc văn hóa. Y Phương tâm sự: “Cứ phải sống thẳng băng
như đường mực. Người làng dạy tôi như vậy Nhất định không bao giờ quỳ gối và
nói lời cong để lấy lòng mọi người” [29]. Nhiều người từng quan niệm đời chỉ
sống một lần vì thế phải sống sao cho đáng sống, Y Phương cũng vậy: “Ai cũng chỉ
- sống một lần. Nên ta tranh thủ sống. Tích cực sống. Nhiệt tình sống. Hăm hở sống.
Sống như cháy đến giọt cuối cùng. Sống phải đáng sống. Sống không làm con bù
nhìn” [29]. Ông phần nào bộc bạch quan niệm sống qua thơ:
Anh tự biết mình như chén nước
Chớ rót đầy
(Chén nước)
Quan niệm về lao động nghệ thuật của Y Phương thật nghiêm túc nhất là
khi ông đã quyết định ở hẳn lại với thơ. Y Phương có quan niệm sống, quan niệm
nghệ thuật một cách rõ ràng và có thể khẳng định “ một nhà thơ có tư tưởng, có
quan niệm nghệ thuật là biểu hiện của một nhà thơ lớn ” [6]. Y Phương viết đều
đặn kể từ khi bài thơ đầu tiên được đăng báo năm 1973, tuy có những lúc “ thơ xếp
từng xấp, có bạn tâm giao đến thì đọc, nhâm nhi với nỗi buồn cho qua ngày” [3,
290]. Y Phương viết thật lòng với những gì ông trông thấy và cảm nhận được, ông
viết như đang tâm sự với bạn đọc. Đôi khi đọc thơ Y Phương người đọc bắt gặp
những suy nghĩ của chính mình mà nhà thơ đã nói hộ. Những vần thơ Y Phương là
lời nhắn nhủ, khuyên răn hãy giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Tày:
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
( Nói với con)
Với Y Phương không có văn học thiểu số hay văn học đa số mà: “ chỉ có tác phẩm
văn học hay hoặc dở mà thôi. Chỉ có nhà văn thực sự tài năng và… Tác phẩm văn
học có giá trị cao tự nó đã nói lên điều đó” [19]. Lời nói khắc cốt ghi tâm mà nhà
thơ Y Phương học được ở nhà văn bậc đàn anh Vi Hồng: “Mình là người Tày, phải
- hiểu biết cặn kẽ, thấu đáo và chỉ viết những gì gắn bó máu thịt với người vùng
mình. Tuyệt đối không vay mượn. Ở đời có vay có trả, chẳng ai cho không ai cái gì
bao giờ. Tự làm lấy Phận sự của nhà văn miền núi là làm sao giúp cho dân tộc
mình canh chừng với kẻ ác, cái ác…Người miền núi thật thà ngây thơ nên rất dễ
mắc lừa” [30]. Đọc thơ Y Phương, đặc biệt những bài tản văn giới thiệu phong tục
tập quán của người Tày càng thấm thía hơn quan niệm sống và viết của nhà thơ.
Đúng như Y Phương bộc bạch: “Cuộc đời tôi sống và viết như tờ giấy này, có
thể nhàu nát và rách nhưng không mất lề” [55, 543].
1.2.2 Viết văn như một cuộc chơi đầy hứng khởi
Văn chương là “thuật ngữ có nhiều nghĩa và sắc thái. Nghĩa rộng là tác
phẩm văn học nói chung, không phân biệt triết học, chính trị, lịch sử, văn hóa, quân
sự. Nghĩa hẹp hơn là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ, thường chỉ tác phẩm
thơ.” [56, 401]. Thơ là một hoạt động tinh thần rất phong phú và tinh tế trong đời
sống con người. Dù thơ là thể loại văn học được sản sinh ra từ sớm thế nhưng tìm
một định nghĩa đúng đắn và hoàn chỉnh cho thơ là điều không đơn giản. “ Thơ trong
quá khứ là sản phẩm sáng tạo phức hợp nhất, tinh tế nhất của những thành tựu văn
hóa cổ xưa. Đó còn là vì thơ được các văn nhân, học giả xưa luôn xem là thể tài
văn chương quan trọng bậc nhất, đồng thời bộc lộ rõ nhất đặc thù của văn theo
nghĩa hẹp nhất của từ này” [86, 89]. Trong quá trình sáng tác “khi mà vai trò của
ngôn ngữ trong nghệ thuật thơ ca được chú ý nhiều hơn thì tất yếu sẽ xuất hiện
các quan niệm khác nhau. Có người cho rằng văn chương là một trò chơi, có người
khẳng định thơ là một vũ khí, lại có người cho rằng thơ là sự biểu đạt tâm trạng cá
nhân hay cộng đồng” [65, 387]. Văn chương theo Y Phương là tác phẩm nghệ thuật
ngôn từ bằng thơ. Ông tìm đến thơ để thể hiện những tâm tư, nỗi lòng, những điều
mắt thấy, tai nghe. Với Y Phương, văn chương – thơ là một thứ chơi. Sáng tác văn
chương là một trò chơi ngôn ngữ, bởi mỗi tác phẩm nghệ thuật là một công trình
bằng ngôn từ, công trình ấy được xây dựng bằng các con chữ theo dụng ý nghệ
thuật của nhà thơ. Để có được những công trình nghệ thuật đặc sắc thì người nghệ
sĩ phải thức cùng trang viết, trăn trở, suy ngẫm trên từng con chữ. Trò chơi ngôn
ngữ ấy Y Phương đưa ra yêu cầu bản thân ông phải thích và người khác cũng phải
thích. “Người khác thích” chính là việc Y Phương quan tâm đến độc giả, bởi lẽ
- trong quá trình sáng tác văn chương mối quan hệ giữa nhà văn và công chúng rất
mật thiết. Khi đề cập đến mối quan hệ giữa nhà văn với độc giả nhà thơ Y Phương
cho rằng: “giữa nhà văn, nhà thơ với độc giả chỉ là những người bạn thông tin với
nhau về tâm hồn, thông qua hình tượng nghệ thuật nhà văn và bạn đọc không hề
có khoảng cách Và coi họ như những người bạn thì mới có thể bộc bạch hết lòng
mình” [13]. Theo lí luận văn chương thì bốn thành tố tạo nên chu kì một quá trình
sáng tác và thưởng thức văn học bao gồm: thời đại, nhà văn, tác phẩm, bạn đọc,
trong đó nhà văn chủ thể sáng tạo đóng vai trò quan trọng nhất. Khi ví văn chương
với trò chơi “là phải thấy hết sự tự nguyện, đam mê, không vụ lợi; chơi được cho
mình thích và người khác thích thì đã hàm chứa những điều cao cả và tốt đẹp trong
đó rồi” [6].
Y Phương đến với cuộc sống, với công việc sáng tạo bằng tâm hồn giàu
cảm xúc và khả năng quan sát tinh tế. Từ đó, nhà thơ phát hiện ý nghĩa sâu xa trong
từng sự vật hiện tượng rồi truyền những cảm xúc của mình vào thế giới nội tâm
của người đọc. Để trở thành một nhà thơ có phong cách riêng, tạo dấu ấn trong
lòng độc giả thì bản thân Y Phương đã không ngừng trau dồi tư tưởng, tình cảm,
vốn sống, nhân cách sống, vốn văn hóa, nghệ thuật viết… Đối tượng mà ông thực
sự quan tâm chính là độc giả mà độc giả đầu tiên lại chính là bản thân tác giả. Chỉ
khi tác giả cảm thấy yêu thích đứa con tinh thần của mình thì ông mới để đứa con
ra tiếp xúc với bạn đọc. Theo Y Phương, độc giả trình độ ngày càng cao vì thế bản
thân nhà thơ phải thường xuyên trau dồi kiến thức để theo kịp độc giả, và “nhà văn
nào có ý định răn dạy người đời là một sai lầm lớn ” [13]. Hơn nữa, sáng tác cũng
như thưởng thức nghệ thuật đều nhằm thỏa mãn nhu cầu được giao tiếp. Vì thế
“trong sáng tác, dù ít dù nhiều, tác giả cũng phải đứng về phía người đọc mà viết,
cho nên trong ngôn ngữ của tác giả đã có ngôn ngữ của người đọc” [52, 62].
Quá trình sáng tác của các nhà văn nhà thơ không ai giống ai. Để một tác
phẩm nghệ thuật ra đời có thể cần một thời gian dài suy ngẫm, cũng có thể chỉ một
thời gian ngắn do cảm hứng sáng tác bất ngờ. Lao động nghệ thuật “ trên địa hạt
chữ đâu chỉ thuần túy là trò chơi, đó thực chất là cuộc đấu tranh để khẳng định sự
hiện diện của cái tôi nghệ sĩ trước áp lực của văn học, của thiết chế xã hội, chính
trị kết đọng trong ngôn từ” [65, 373]. Tác phẩm nghệ thuật sống với bạn đọc là do
- tìm được sự đồng điệu với thị hiếu thẩm mĩ của độc giả. Bài “ Mùa hoa” là một
minh chứng. Bài thơ ra đời khi tác giả đang học ở Trường viết văn Nguyễn Du,
tình cờ nghe được một câu chuyện đùa liên quan đến sự phồn thực của người Tày
và “câu chuyện ấy trở thành nỗi bức xúc nội tại thôi thúc mình sáng tác… Mình đã
viết những câu thơ theo cách tư duy và xây dựng hình tượng của người Tày… có lẽ
vì thế mà bài thơ đã tìm được lối riêng đến với bạn đọc ” [8]. Bài thơ đã đi vào lòng
độc giả. Tạ Duy Anh trong “Người gảy khúc đàn trời” khi nói về sự tiếp nhận bài
“Mùa hoa” của Y Phương đã khẳng định: “Chính mắt tôi đã thấy nhiều thiếu nữ
nắn nót chép vào sổ tay những câu thơ dễ nhớ kia. Còn ở Thái Nguyên, một lần vào
một đêm trăng suông, mắt tôi nhìn và tai tôi nghe thấy gã con trai vừa đi dặt dẹo
vừa hát những lời trên. Gã có vẻ như bước ra từ bài thơ, giọng ngọt lịm ” [3, 292].
Có thể thấy “câu, chữ của tác phẩm văn học là kí hiệu thể hiện cho thế giới nghệ
thuật được sáng tạo bằng tinh thần ấy, và thế giới ấy cũng chỉ được bộc lộ trọn
vẹn hình thức nghệ thuật của nó trong thưởng thức, cảm thụ của người đọc, tức là
trong tồn tại tinh thần đích thực của nó” [82, 26].
Văn chương có nhiều chức năng, nhưng khi nhắc đến văn chương thì ai cũng
biết khía cạnh giải trí là vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, “ trong những khoái cảm mà
nghệ thuật đem lại còn có loại khoái cảm thưởng thức, tiếp nhận một cách vô tư.
Vì vậy có thể khẳng định tác dụng giải trí như một chức năng độc lập của văn học
và nghệ thuật nói chung” [52, 59]. Văn chương là một trò chơi. Theo Phạm Quang
Trung, “văn chương đem lại cho ta nỗi mênh mông, dâng hiến cho ta niềm hân hoan
Ý nghĩa đích thực của văn chương có lẽ là vậy, biến tài sản tinh thần của người
viết gửi gắm qua tác phẩm thành nỗi riêng tây có sức lay động tâm trí mỗi người ”
[44]. Mặc dù văn chương là thứ chơi, nhưng lẽ tồn tại đích thực của văn chương là
vì con người,và qua chất nghệ thuật để phục vụ cho con người. Cũng giống như
những người nghệ sĩ tài ba khác, trước sau ông vẫn nhất quán một xác tín nghề
nghiệp:
Cao hơn cơm là nước
Cao hơn nước là khí trời
Cao hơn khí trời là em bồcâulơmơthơ của ta.
(Bồ câu)
- Y Phương hiểu rõ “không quan tâm tới khía cạnh giải trí là bỏ sót một khả năng tác
động và tự giới hạn tầm ảnh hưởng của văn học trong đời sống thực tiễn " [52, 59].
Thơ Y Phương thường ngắn gọn mà xúc tích, thông qua con chữ, nhà thơ muốn nói
với bạn đọc thật nhiều điều. Bài thơ “Chơi râu” là một minh chứng “Buộc nhiều
người phải giật mình”:
Trời bảo:
Ứ thèm chơi với ta đâu.
Tùy thôi.
Trời bảo:
Ta là đồ linh tinh, đồ dở hơi.
Tùy thôi.
Trời không chơi thì ta ngồi ta chơi râu ta.
(Chơi râu)
Nói tóm lại, Y Phương cũng như bao nghệ sĩ khác “là người cho đứa con tinh
thần của mình một cuộc đời. Nhưng cuộc đời ấy ngắn ngủi hay dài lâu, anh ta
không định đoạt được. Quyền năng ấy thuộc về công chúng” [65, 430].
1.2.3 Viết văn như là một cách tri ân cuộc đời
Trả ơn là trách nhiệm của tất cả mọi người có ý thức đối với những người
có công sinh thành và nuôi dưỡng. Từ xa xưa, tục ngữ đã có câu “Uống nước nhớ
nguồn”. Y Phương trả ơn bằng cách góp phần bảo tồn văn hóa và chữ viết. Có thể
xem tập thơ “Thất tàng lồm” là việc làm trả ơn đó. Y Phương tâm sự: “Riêng tôi,
tôi tự phải có trách nhiệm với việc bảo tồn văn hóa và chữ viết của dân tộc mình
nên dẫu nhuận bút có thấp, thậm chí không có thù lao, tôi vẫn tiếp tục sáng tác
bằng cả hai thứ tiếng. Trong dòng thơ song ngữ ấy, Ngược gió Thất tàng lồm là
tập đầu tiên…” [8].
Trả ơn nơi đã sinh ra ông – Trùng Khánh, Y Phương viết về quê hương bằng
tất cả tấm lòng mình. Trùng Khánh là vùng đất đầy tinh thần thượng võ và giàu
truyền thống văn hóa. Những làn điệu dân ca ở Trùng Khánh đã nuôi dưỡng tâm hồn
nhà thơ Y Phương, nên nhà thơ thường nói: “Những gì mình làm được, đấy là của
- ông bà cả thôi”. Với Nguyễn Hữu Tiến câu nói của Y Phương “thể hiện đức khiêm
tốn, lòng tôn kính của anh đối với di sản văn hóa dân tộc ” [3, 271]. Y Phương viết
rất nhiều về Trùng Khánh. Những bài thơ viết về quê hương là những sáng tác
thành công nhất của Y Phương, như Lên Cao Bằng, Phòng tuyến Khau Liêu, Tên
làng, Nói với con… Có thể khẳng định “anh là một nhà thơ chung thủy với quê
hương” [3, 271]. Sự tha thiết với xứ sở dân tộc mình là nhịp tim thầm kín bền vững
nhất trong từng bài thơ của Y Phương và là cốt lõi trong giọng hát Y Phương. Vì
tâm nguyện “Văn chương là một việc làm trả ơn những người sinh thành và nuôi
dưỡng mình” nên ý muốn bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc của nhà thơ rất lớn.
Y Phương có thể vẽ chân dung những người con của dân tộc mình, quê mình bằng
những đường nét chắc chắn của nhận thức và tin yêu. Y Phương khái quát hình ảnh
họ, bên trong cái vẻ thô sơ là vẻ đẹp kì vĩ của sử thi:
Da thịt người da thịt đất đai
Cùng một màu đồng hun lặng lẽ
Nặng nhọc cười
Nặng nhọc người đàn bà đeo gùi
Nặng nhọc hai bầu vú mọng căng như nước
Nặng nhọc hai bầu vú phì nhiêu như đất
Đất nước
Sinh ra từ ngực người đàn bà
Theo Trúc Thông, “Y Phương không yêu dân tộc mình ở đầu lưỡi, lạm dụng
chất dân tộc. Qua tất cả những cảnh huống sinh hoạt vật chất và tinh thần hiện
thực, những đam mê và đau khổ trần trụi, những chìm lặng không sao nói hết và
những sự thật cuộc đời… Y Phương tiếp tục phát hiện về dân tộc mình ” [3, 273].
Vì mong muốn trả ơn nên ý thức về quê hương, về cội nguồn trong thơ ông không
phải là những cảm xúc mơ hồ bất chợt đến mà có chỗ vịn chắc chắn, có nguồn cơn
sâu xa. Khi sáng tác thơ song ngữ “Ngược gió Thất tàng lồm”, ông ý thức
rõ: “Sáng tác thơ bằng tiếng dân tộc là rất cần thiết. Đó cũng là một cách tốt nhất
để góp phần bảo tồn văn hóa và chữ viết” [8].
- Khi Y Phương rời xa quê hương cũng là một dịp để nhà thơ tự kiểm nghiệm
tình cảm của mình với dân làng. Sống giữa thủ đô Hà Nội nhà thơ cảm thấy cô
đơn: “Người thì ở Hà Nội, nhưng hồn lại trở về làng Người làng tôi là
thảo dân. Thảo dân nên được bền như đất, giàu có như đất, ngọt ngào như đất,
nhân ái khoan dung như đất. Ôi người làng tôi. Họ đẹp biết chừng nào ” [29]. Nhớ
về họ, Y Phương viết những bài tản văn như: Còn có một cái tết vía trâu, Về Trùng
Khánh đắm trong mưa hạt dẻ, Hội tung còn làng tôi, Tết anh cả, Cầu và cây số
mệnh, Bận rộn như lửa, Chuyện ma gà và những giấc mơ đầy trứng, Hỏi người
lòng cũng nông như vậy, Làm sao biết yêu sâu?...
1.3 Từ quan niệm nghệ thuật đến “cái tôi” sáng tạo trong thơ Y Phương
Trong bất cứ thể loại văn học nào, con người bao giờ cũng là đối tượng
miêu tả và khám phá. Tìm hiểu con người là khát vọng chân chính của các nhà thơ,
nhà văn. “Văn học là nhân học, đối tượng thể hiện chủ yếu của nó là con người.
Không thể lí giải một hệ thống văn thơ mà bỏ qua con người được. Không thể lí
giải một hệ thống văn thơ mà bỏ qua con người được thể hiện ở trong đó” [82,
116]. Con người là một hình tượng nghệ thuật, mà hình tượng nghệ thuật có thể
hiểu “là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo
trong những tác phẩm nghệ thuật. Nói tới hình tượng nghệ thuật người ta thường
nghĩ tới hình tượng con người, bao gồm cả hình tượng một tập thể người với
những chi tiết biểu hiện cảm tính phong phú” [56, 147]. Hình tượng con người trung
tâm xuyên suốt các tác phẩm của Y Phương chính là hình tượng người lính trong
chiến tranh và hình tượng người phụ nữ. Với người lính, chiến tranh là môi trường
để họ rèn luyện và bộc lộ phẩm chất. Còn hình tượng người phụ nữ là những con
người cụ thể, gần với miền núi. Nhà thơ cho rằng người phụ nữ đẻ ra thế giới,
cần phải trân trọng và tôn vinh người phụ nữ.
Y Phương sớm trải qua cuộc đời người lính. Những trải nghiệm trong chiến
tranh đã tạo cho Y Phương có cái nhìn chân thật, gần gũi về người lính. Trong sáng
tác “quá trình vũ trang kiến thức là công việc thường xuyên, bền bỉ của mỗi nhà
văn” [52, 102]. Vì thế những trải nghiệm cuộc sống này là vốn tư liệu quí giá để
nhà thơ sáng tác các tác phẩm về chiến tranh, đặc biệt là tạo dựng hình ảnh người
lính. Có thể xem Y Phương bắt đầu đời thơ của mình bằng những bài thơ viết về
nguon tai.lieu . vn