- Trang Chủ
- Khoa học xã hội
- Luận văn tốt nghiệp: Tác động của tâm lý làng xã đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay
Xem mẫu
- LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TÁC ĐỘNG CỦA TÂM LÝ LÀNG XÃ ĐỐI VỚI QUÁ
TRÌNH THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
NÔNG THÔN NƯỚC TA HIỆN NAY
1
- Tháng 04/2011
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tâm lý làng xã là một dạng biểu hiện đặc thù và nổi bật của tâm lý xã hội
trong xã hội Việt Nam, phản ánh những nét tâm lý tiêu biểu nhất của người nông
dân trong một cộng đồng dân cư (làng xã – một loại nhóm lớn).
Việc triển khai quy chế dân chủ ở nông thôn là một bước phát huy cơ chế
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, nhằm khơi dậy một cách
toàn diện vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị và động viên mạnh mẽ
nhân dân góp phần xây dựng chính quyền ngày càng vững mạnh, phục vụ đường
lối đổi mới của Đảng, thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn là nhằm phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở là công bộc của dân,
có đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng yêu cầu phát triển và đổi mới đất nước,
ngăn chặn, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà và sách nhiễu nhân dân.
Qua nhiều năm triển khai thực hiện, có thể thấy Quy chế dân chủ đã nhận
được sự đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân. Nó thể hiện đây là một chủ
trương đúng đắn, hợp lòng dân của Đảng. Song, quá trình thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở nông thôn không chỉ chịu sự tác động của các yếu tố tích cực, mà còn
chịu sự tác động của một số yếu tố tiêu cực, gây trở ngại cho việc thực hiện quy
chế này. Một trong những yếu tố cơ bản tác động tích cực lẫn tiêu cực đến quá
trình thực hiên Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn là tâm lý làng xã.
Tâm lý làng xã và quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn có
mối quan hệ biện chứng. Tâm lý làng xã có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn. Tâm lý làng xã tích cực sẽ thúc đẩy
quá trình thực hiện Quy chế dân chủ. Ngược lại, tâm lý làng xã tiêu cực, lạc hậu
sẽ kìm hãm, gây khó khăn, trở ngại đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở
2
- cơ sở. Mặt khác Quy chế dân chủ ở cơ sở sẽ góp phần biến đổi tâm lý làng xã theo
hướng tích cực và khắc phục những tâm lý làng xã tiêu cực đang tồn tại làm hình
thành những đặc trưng mới của tâm lý làng xã ở thời lỳ đổi mới – thời kì đưa nông
thôn phát triển nông nghiệp là chủ yếu, chuyển dần sang sản xuất theo hướng
công nghiệp, hiện đại hóa. Những tác động qua lại này đều được phản ánh, in dấu
vào bộ mặt tâm lý của người nông dân, cộng đồng dân cư làng xã nông thôn, các tổ
chức và thiết chế chính trị xã hội ở nông thôn. Nhận diện những tác động, biến
đổi của tâm lý làng xã đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông
thôn hiện nay là khảo sát mối quan hệ qua lại, tác động qua lại giữa tâm lý làng xã
với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở nông thôn.
Việc tìm hiểu tác động của tâm lý làng xã tới việc thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở nông thôn là một nhiệm vụ cần thiết trong nghiên cứu mối quan hệ
giữa các yếu tố tâm lý xã hội với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở nông thôn
hiện nay. Bởi lẽ, tâm lý làng xã là hạt nhân, là yếu tố trung tâm của các yếu tố tâm
lý xã hội ở nông thôn. Tâm lý làng xã có tác động trên cả hai chiều tích cực và tiêu
cực đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn. Trên cơ sở
nhận thức như vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Tác động của tâm lý làng xã đối
với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay” để làm đề tài
luận văn tốt nghiệp nhằm có những đề xuất, giải pháp phát huy tác động tích cực
và hạn chế tác động tiêu cực của tâm lý làng xã đối với việc thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở nông thôn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích: Tìm hiểu về tác động của tâm lý làng xã đối với quá trình thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay.
Nhiệm vụ:
Thứ nhất: Tìm hiểu một số vấn đề lí luận chung về tâm lý làng xã và Quy
chế dân chủ, thực hiện triển khai Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn.
Thứ hai: Tác động của tâm lý làng xã đối với quá trình thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở nông thôn.
3
- Thứ ba: Những giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tác
động tiêu cực của tâm lý làng xã đối với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
nông thôn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu về tác động của tâm lý làng xã đối với quá trình thực hiện
Quy chế dân chủ ở nông thôn hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về tác động của tâm lý làng xã
đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ từ 1998 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được viết và hoàn thành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về vấn đề dân chủ và
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong bài luận văn này tôi sử dụng một số
phương pháp như: so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, phương pháp logic lịch
sử.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương, 13 tiết
4
- NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÂM LÝ LÀNG XÃ VÀ
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ NÔNG THÔN
1.1 Bước đầu xác định khái niệm “tâm lý làng xã”.
Nghiên cứu về tâm lý làng xã với tư cách là một vấn đề tâm lý xã hội còn hết
sức ít ỏi và mới bắt đầu mấy năm trở lại đây. Đời sống kinh tế xã hội của làng
xã ở nước ta trong lịch sử và hiện tại, chủ yếu được nghiên cứu từ góc độ của
khoa học lịch sử, dân tộc học, văn hóa, xã hội học, kinh tế học...Chúng ta còn ít các
nghiên cứu tâm lý học có tính chuyên sâu về tâm lý làng xã, đặc biệt là những
nghiên cứu thực tiễn.
5
- Chính vì vậy mà đến nay, chúng ta vẫn chưa có một khái niệm chính thức về
tâm lý làng xã. Đã đến lúc chúng ta cần xây dựng khái niệm về tâm lý làng xã. Sở
dĩ điều này trở thành một nhiệm vụ nghiên cứu lý luận quan trọng bởi lý bởi lẽ:
Thứ nhất, nước ta là một nước nông nghiệp, có tới gần 80% dân số sống ở
nông thôn. Cho nên, tâm lý nông dân là tâm lý là tâm lý rất đặc trưng của người
Việt Nam, nó phản ánh hoạt động thực tiễn của đại đa số người dân Việt Nam.
Thứ hai, làng xã là đơn vị hành chính đã tồn tại rất lâu dài trong lịch sử dân tộc
ta. Nó đã từng là “tiểu quốc gia”, một xã hội Việt Nam thu nhỏ trong hàng ngàn
năm của chế độ phong kiến. Nó ăn sâu vào tiềm thức của người nông dân từ thê hệ
này qua thế hệ khác. Nó chi phối suy nghĩ và hành vi của người nông dân (kể cả
những người nông dân đã rời bỏ làng xã ra sống ở đô thị và trở thành cán bộ công
chức nhà nước).
Thứ ba, khái niệm là cơ sở để chúng ta nghiên cứu những vấn đề nội dung của
tâm lý làng xã.
Việc xác định tâm lý làng xã phải chú ý một đến một số khía cạnh quan trọng
sau:
Tâm lý làng xã là dạng cơ bản của tâm lý xã hội. Nói cách khác, đây là một
hình thức của tâm lý nhóm.
Tâm lý làng xã phản ánh những nét tiêu biểu nhất, đặc trưng nhất của
những người nông dân trong một cộng đồng dân cư.
Tâm lý làng xã được hình thành và phát triển trong một quá trình lịch sử lâu
dài. Nó được sự chắt lọc của thời gian và kiểm nghiệm của lịch sử.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm bước đầu về tâm lý
làng xã: Tâm lý làng xã là một dạng tâm lý xã hội bền vững của một cộng đồng
dân cư cơ bản ở nông thôn, nó phản ánh những nét tâm lý tiêu biểu nhất, đặc trưng
nhất của những người nông dân trong cộng đồng ấy.
Tâm lý làng xã là sản phẩm của nền văn minh nông nghiệp Việt Nam, được tạo
nên từ hoạt động sản xuất, hoạt động đấu tranh, vật lộn với thiên nhiên trải qua
một quá trình hàng ngàn năm. Nền sản xuất nông nghiệp của làng xã Việt Nam trải
qua hàng năm ấy là nền sản xuất tiểu nông, manh mún. Người nông dân làm ra sản
6
- phẩm chủ yếu để phục vụ cho gia đình mình, nếu có trao đổi thì cũng một phạm vi
rất hẹp (chợ làng). Nền sản xuất tiểu nông là nền sản xuất mang tính tự cung tự
cấp rất cao, là nền sản xuất chủ yếu theo kinh nghiệm mà ở đó người ta ít thấy
hiện diện của các yếu tố khoa học – kỹ thuật, chính vì vậy mà năng suất lao động
rất thấp. Những đặc điểm này của nền sản xuất nông nghiệp Việt Nam đã in đậm
dấu ấn của nó lên tâm lý làng xã, làm cho tâm lý làng xã trở thành một dạng tâm lý
xã hội rất đặc thù.
Là một hình thái của ý thức xã hội, tâm lý làng xã một mặt là sản phẩm của
hoạt động thực tiễn (hoạt động lao động sản xuất và hoạt động sinh hoạt hàng
ngày) của người nông dân, mặt khác, nó tác động tích cực trở lại hoạt động sống
của người nông dân hoặc theo chiều hướng tích cực hoặc theo chiều hướng tiêu
cực.
Những thay đổi về kinh tế xã hội hiện nay ở nông thôn trên cơ sở phát triển
nền kinh tế thị trường, ứng dụng khoa học – kĩ thuật vào sản xuất, sự hội nhập về
kinh tế, văn hóa với các quốc gia khác...đã tác động lớn đến tâm lý làng xã truyền
thống, làm cho yếu tố tâm lý xã hội này có những thay đổi nhất định. Một số yếu
tố tâm lý mới sẽ bổ sung vào tâm lý làng xã làm cho nó mang một sắc thái mới. Đó
là những biến đổi về tư duy, tình cảm, thái độ và hành vi của người nông dân trong
điều kiện sản xuất theo hướng kinh tế thị trường.
1.2 Quy chế dân chủ và thực hiện triển khai Quy chế dân chủ ở cơ sở
nông thôn.
Chỉ thị số 30/CT TW ngày 18 – 02 – 1998 của Ban chấp hành Trung ương
về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nêu rõ:
Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là
mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công
cuộc đổi mới.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách đổi mới
về kinh tế, chính trị, xã hội, phát huy một bước quyền làm chủ của nhân dân, nhờ
đó đã đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc.
7
- Tuy nhiên, nhìn chung, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều
nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách
nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa
đẩy lùi, chưa ngăn chặn được. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” chưa được cụ thể hóa và thể chế hóa thành luật pháp, chậm đi vào cuộc sống.
Như Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII (tháng 6 – 1997) đã nhấn mạnh, lúc này để giữ vững và phát huy được bản
chất tốt đẹp của Nhà Nước ta, phải phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút nhân
dân tham gia quản lí nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục
tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng.
Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân
dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền làm chủ của nhân dân một cách trực tiếp và
rộng rãi nhất.
Muốn vậy, Nhà nước cần ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở có tính pháp lý,
yêu cầu mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện. Quy
chế dân chủ cần được xây dựng cho từng loại cơ sở xã, phường, doanh nghiệp,
bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu, cơ quan hành chính…phù hợp với đặc
điểm của từng loại cơ sở.
Việc xây dựng Quy chế dân chủ ở cơ sở cần quán triệt những quan điểm chỉ
đạo sau:
Đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng
thể của hệ thống chính trị “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Coi trọng cả ba mặt nói trên, không vì nhấn mạnh một mặt mà coi nhẹ hạ thấp các
mặt khác.
Vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực
hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các
cấp, vừa thực hiện tốt các chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để nhân dân bàn
bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng, thiết thực, gắn liền với
lợi ích của mình.
8
- Phát huy dân chủ phải gắn liền phát triển kinh tế xã hội và nâng cao dân
trí, tạo điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả.
Nội dung các quy chế phát huy dân chủ ở cơ sở phải phù hợp với Hiến pháp,
pháp luật, thể hiện tinh thần dân chủ đi đôi với kỉ cương, trật tự, quyền hạn gắn
với trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ; chống quan liêu, mệnh lệnh, đồng thời
chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ vi phạm pháp luật.
Gắn quá trình và thực hiện Quy chế dân chủ với công tác cải cách hành
chính, sửa đổi những cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính không phù hợp.
Quy chế dân chủ ở cơ sở quy định những việc chính quyền địa phương phải
thông tin và công khai để dân biết, những việc dân bàn và quyết định trực tiếp,
những việc dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan Nhà Nước quyết định, những
việc dân giám sát, kiểm tra và các hình thức thực hiện Quy chế dân chủ.
Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là gắn với công cuộc cải cách thể chế,
cải cách hành chính hiện nay để thực hiện phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” bằng bốn loại quyền cụ thể của người dân ở cơ sở trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Cải cách thể chế, xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị ở cơ sở là một
vấn đề rất lớn phải giải quyết để thực hiện dân chủ chính trị từ cơ sở. Quy chế
dân chủ ở xã mà Đảng ban hành hướng chủ yếu vào mục đích này. Tinh thần cơ
bản của Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn là thực hiện triệt để các biện pháp
chống quan liêu, tham nhũng, làm trong sạch thể chế từ cơ sở, nâng cao chất lượng
cán bộ ở cơ sở, coi đó là khâu quyết định hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cơ
sở, của hệ thống chính trị cơ sở. Sự ủy quyền của dân có đảm bảo được lành
mạnh và có làm cho dân thực sự là người chủ hay không, tùy thuộc một phần lớn
vào phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, vào sự đoàn kết, nhất trí, phối hợp
hành động và sự đổi mới phương pháp hoạt động của các tổ chức đảng, chính
quyền, đoàn thể cơ sở.
Những điều khoản quy định trong quy chế và những biện pháp thực hiện
đều nhằm vào phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo thế
chủ động, tích cực của dân, phát triển mạnh mẽ phương thức dân chủ trực tiếp để
9
- dân tự quản, tự quyết định những vấn đề liên quan trực tiếp tới cuộc sống hàng
ngày của họ. Nó phù hợp với đặc điểm tâm lý nông dân và tâm lý cộng đồng làng
xã, phát huy được vai trò và chức năng của xã vừa là một cấp bách hành chính, vừa
có tính chất tự quản, cộng đồng.
Chỉ thị số 30 – CT/TƯ ngày 18 – 2 – 1998 của Trung ương Đảng đã nêu rõ
những quan điểm và nội dung chủ yếu, phương châm, phương pháp để xây dựng
và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là ở cơ sở nông thôn:
Thứ nhất là,, đối với những việc cần thông báo để nhân dân biết:
Chính quyền xã có trách nhiệm thông tin kịp thời và công khai để nhân dân
biết những công việc chính sau:
Chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan trực tiếp đến lợi
ích của nhân dân trong xã bao gồm: nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định
của Uỷ ban nhân dân xã và cấp trên có liên quan đến địa phương; các quy định của
pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến dân;
Những quy định của Nhà nước và chính quyền địa phương về đối tượng, mức thu
các loại thuế, lệ phí và các nghĩa vụ khác đối với nhân dân theo quy định của pháp
luật hiện hành; Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội dài hạn và hàng năm của xã;
quy hoạch sử dụng đất đai, dự toán và quyết toán ngân sách xã hàng năm; dự toán
và quyết toán thu chi các quỹ, dự án các khoản huy động đóng góp xây dựng cơ sở
hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng của xã và kết quả thực hiện; các công
trình dự án do Nhà nước, các tổ chức và cá nhân đầu tư, tài trợ trực tiếp cho xã;
chủ trương, kế hoạch vay vốn phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo; điều chỉnh
địa giới hành chính của xã; kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ tiêu cực
tham nhũng của cán bộ xã; công tác phòng chống các tệ nạn xã hội; sơ kết, tổng
kết hoạt động của Hội động nhân dân, Ủy ban nhân dân xã; phương án đồn điền,
đổi thửa phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nông nghiệp, kinh tế trang
trại, hợp tác xã. [10 tr.21]
Ủy ban nhân dân xã có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các thành viên của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp
và Trưởng thôn cùng các cấp thông tin theo quy định tại điều 5 của Quy chế này để
10
- nhân dân biết bằng các hình thức sau: niêm yết công khai văn bản tại trụ sở Ủy ban
nhân dân xã và các trung tâm dân cư, văn hóa, hệ thống truyền thanh của xã, thôn và
các tổ chức văn hóa, thông tin, tuyên truyền cơ sở; tổ chức các cuộc tiếp xúc cử tri
của đại biểu Hội đồng nhân dân xã; tại các kỳ họp của Hội đồng nhân dân xã, các
kỳ họp của Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và của cuộc họp của thôn; gửi văn bản
tới hộ gia đình hoặc Trưởng thôn. [10 tr.23]
Nhân dân phải được tham gia các buổi họp sơ kết 6 tháng, tổng kết cuối
năm, kiểm điểm các hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã. Đảng
bộ, chính quyền xã cần phải tổ chức mỗi năm 2 kỳ, đoàn cán bộ chủ chốt của
xã lần lượt đi tất cả các xóm để nhân dân đóng góp xây dựng trực tiếp về mọi
hoạt động của Đảng, chính quyền cũng như của từng cán bộ chủ chốt.
Thứ hai là, đối với những việc dân bàn và quyết định trực tiếp:
Có thể thấy hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò quan trọng trực tiếp trong
việc tạo điều kiện để nhân dân bàn và quyết định những công việc trực tiếp chủ
yếu như: chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình
phúc lợi công cộng (điện, đường, trường, trạm y tế,nghĩa trang, các công trình văn
hóa, thể thao...); lập thu, chi các quỹ trong khuôn khổ pháp luật; xây dựng hương
ước, quy ước làng văn hóa, nếp sống văn minh, giữ gìn an ninh trật tự, bài trừ mê
tín dị đoan, các tệ nạn xã hội; các công việc nội bộ trong cộng đồng dân cư thôn,
phù hợp với pháp luật của Nhà nước; thành lập Ban giám sát công trình xây dựng
do dân đóng góp; tổ chức bảo vệ sản xuất, kinh doanh giữ gìn an ninh, trật tự an
toàn giao thông, vệ sinh môi trường và các hoạt động khác trên địa bàn xã, thôn. [12
tr.13]
Ngoài những khoản đóng góp quy định tại khoản 1 điều 7 những khoản đóng
góp khác của nhân dân ủng hộ với mục đích tương trợ, nhân đạo, từ thiện, Uỷ ban
nhân dân xã phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tuyên truyền vận động nhân dân theo nguyên
tắc hoàn toàn tự nguyện, không được áp đặt, phân bổ, bình quân nhất loạt. [12
tr.13]
11
- Cấp ủy Đảng lãnh đạo, Ủy ban nhân dân xã xây dựng phương án, chương
trình, kế hoạch. Ủy ban nhân dân xã phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
chỉ đạo, tổ chức nhân dân bàn quyết định bằng các hình thức: họp dân ở từng ấp
thảo luận và biểu quyết công khai hoặc kiểm phiếu kín, lập biên bản gửi Ủy ban
nhân dân xã; họp chủ hộ bàn, biểu quyết công khai hoặc phiếu kín, lập biên bản
gửi Ủy ban nhân dân xã (các cuộc họp này được tiến hành khi có ít nhất hai phần
ba số người trong diện họp tham dự); nếu không họp thì phát phiếu lấy ý kiến của
hộ gia đình. [12 tr.13]
Việc lấy ý kiến, biểu quyết công khai tại cuộc họp hoặc bỏ phiếu kín về
từng vấn đề do nhân dân tự quyết định theo quy định tại điều 7 của Quy chế này
phải được lập biên bản để để báo cáo Uỷ ban nhân dân xã về nội dung cuộc họp
và kết quả của những vấn đề đã biểu quyết. Nếu đa số nhân dân hoặc chủ hộ
đồng ý thì Ủy ban nhân dân xã tổ chức thực hiện có sự giám sát, kiểm tra của Ban
thanh tra nhân dân xã hoặc Ban giám sát công trình do dân cử. Nhân dân có nghĩa vụ
chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định được đa số đồng ý. Nếu xét thấy đa số
quyết định không phù hợp với luật pháp và các quy định của chính quyền địa
phương thì Ủy ban nhân dân xã đề nghị Ủy ban nhân dân huyên xem xét, quyết định.
[12 tr.14]
Thứ ba là, đối với những việc dân làm, tham gia ý kiến, Đảng bộ,
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân quyết định:
Khi những buổi họp dân thực sự có chất lượng, nhân dân thực sự là
chủ về mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, nhân dân có
trách nhiệm góp ý thẳng thắn, không sợ bị trù dập, thì những phương thức thực
hiện dân chủ một cách gián tiếp như đặt hòm thư góp ý, phát phiếu thăm dò ý kiến
phải ít sử dụng. Người dân là chủ thể sáng tạo góp phần xây dựng những dự thảo
nghị quyết, quy chế và kế hoạch cho Đảng bộ, chính quyền các đoàn thể nhân dân,
như: dự thảo quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội dài hạn, hàng năm
của xã, phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất và phương án phát
triển nghành nghề, giải quyết việc làm cho người lao động; dự thảo quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đai ở địa phương và việc quản lý sử dụng có hiệu quả quỹ đất
12
- công ích ở địa phương; dự thảo quy hoạch khu dân cư và đề án định canh, định cư,
vùng kinh tế mới, kế hoạch và dự án huy động và sử dụng các khoản đóng góp của
nhân dân để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng do xã quản lý; dự thảo đề án phân
vạch, điều chỉnh địa giới hành chính xã, đề án chia, thành lập thôn, làng, ấp,bản;
phương án đền bù, giải phóng mặt bằng; giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân xã,...Hay những chương trình có tính quốc gia như dự thảo triển
khai các chương trình quốc gia về y tế, nước sạch, môi trường, an toàn thực phẩm,
kế hoạch hóa gia đình. [12 tr.14]
Phương thức thực hiện những việc dân bàn, tham gia ý kiến, Hội đồng Nhân
dân, Uỷ ban Nhân dân quyết định: Uỷ ban nhân dân xã dự thảo các văn bản, kế
hoạch, phương án và phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã, các đoàn thể nhân
dân tổ chức lấy ý kiến công khai dưới các hình thức: Phát biểu thăm dò ý kiến từng
hộ gia đình; họp nhân dân hoặc chủ hộ thôn, làng, ấp, bản thảo luận, lập biên bản
gửi Uỷ ban Nhân dân xã; họp các đoàn thể, các tổ chức kinh tế để thảo luận, ghi
biên bản gửi Uỷ ban Nhân dân xã; đặt hòm thư góp ý, Uỷ ban Nhân dân xã tổng
hợp ý kiến. [12 tr.15]
Thứ tư là, những việc nhân dân giám sát, kiểm tra:
Nhân dân là những người chủ thật sự của làng, xã, nhất thiết phải được
kiểm tra, giám sát những việc sau: hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân xã; kết quả thực hiện nghị quyết của hệ thống chính trị sau mỗi năm,
mỗi khóa, mỗi kỳ đại hội; hoạt động của đại biểu Hội đồng Nhân dân xã, của cán
bộ Uỷ ban Nhân dân và cán bộ, công chức Nhà nước hoạt động tại địa phương;
giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân; dự toán và quyết toán ngân sách xã; kết quả
nghiệm thu và quyết toán công trình do nhân dân đóng góp xây dựng và các chương
trình dự án do Nhà nước, các tổ chức vá cá nhân đầu tư tài trợ trực tiếp cho xã;
quản lý và sử dụng đất đai; thu chi các khoản lệ phí theo quy định của Nhà nước,
các khoản đóng góp của dân; kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ tiêu
cực, tham nhũng liên quan đến cán bộ xã; việc thực hiện chính sách ưu đãi, chăm
sóc, giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ, những người và gia đình có công với
nước, chính sách bảo hiểm xã hội, cứu tế xã hội. [12 tr.16]
13
- Nhân dân trực tiếp giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc
gián tiếp thông qua các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức đại diện cho mình
hoặc Ban Thanh tra nhân dân bằng các phương thức sau đây: tham gia trực tiếp
(nếu được mời) hoặc thông qua các tổ chức đại diện cho mình trong các cuộc họp
của chính quyền xã bàn về các vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của
mình; tham gia ý kiến đánh giá báo cáo tổng kết công tác sáu tháng và hàng năm của
chính quyền xã; góp ý kiến vào bản kiểm điểm công tác và tự phê bình của Chủ
tịch Hội đồng Nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân xã trong cuộc họp tổng kết
cuối năm; bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức vụ do Hội đồng Nhân dân xã bầu;
phát hiện những cơ quan tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân
và có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí, sử dụng sai mục đích thu, chi ngân sách và các
khoản đóng góp của nhân dân; thực hiện chương trình, dự án và sử dụng quản lý
đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng trái với những quy định của pháp luật và các
hành vi vi phạm pháp luật khác, tố cáo, kiến nghị với chính quyền xã, cơ quan có
thẩm quyền làm rõ, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết. [10 tr. 29]
Với ý nghĩa đó, hệ thống chính trị cơ sở, trong đó trực tiếp là chính quyền
và Đảng bộ xã, phải có vai trò tích cực, chủ động trong việc tổ chức thực hiện
và tạo điều kiện cho người dân được phát huy những quyền của họ trong các hoạt
động trên với các hình thức: nhân dân giám sát hoạt động và tư cách đại biểu Hội
đồng nhân dân, các thành viên Ủy ban nhân dân; Có quyền khiếu kiện, khiếu nại, tố
cáo các hành vi xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân, vi phạm pháp luật, tham
nhũng, tiêu cực của đại biểu Hội đồng nhân dân và các thành viên của Ủy ban nhân;
các kỳ họp của Hội đồng nhân dân xã mời đại diện các tổ chức đoàn thể tham dự
và mời đại diện nhân dân dự thính; thông qua các tổ chức: Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông
dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Người cao tuổi; thông qua Ban thanh tra nhân dân
được thành lập và hoạt động theo pháp luật; Ủy ban nhân dân xã chịu trách nhiệm
tổ chức việc tiếp dân, giải quyết kịp thời các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công
dân theo đúng quy định của pháp luật; khi phát hiện có dấu hiệu tham nhũng, tiêu
cực, sử dụng sai mục đích, lãng phí trong việc thu, chi ngân sách, các khoản đóng
14
- góp, các loại quỹ và quản lý đất đai, nhân dân có quyền yêu cầu làm rõ, Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, người quản lý trực tiếp phải cung cấp và giải trình đầy
đủ các việc nói trên mà không có bất cứ một hạn chế nào. [12 tr. 17]
Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, và cá nhân đối với việc giám sát và
kiểm tra của nhân dân: mời đại diện của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các thành viên của Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, các đối tượng liên quan trực tiếp
tham gia các cuộc họp của chính quyền xã bàn bạc các vấn đề liên quan đến quyền
và lợi ích trực tiếp của nhân dân địa phương, xem xét, giải quyết các kiến nghị của
cơ quan, tổ chức, cá nhân theo thẩm quyền và thông báo kết quả giải quyết cho tổ
chức, cá nhân có kiến nghị, trình cơ quan có thẩm quyền các vụ việc vượt quá
thẩm quyền; Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã có trách nhiệm gửi
cho Trưởng thôn bản kiểm điểm công tác và tự phê bình tại cuộc họp tổng kết
hàng năm để Trưởng thôn tổ chức nhân dân đóng góp ý kiến; hàng năm, Mặt trận
Tổ quốc xã tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của các thành viên Mặt trận đối với các
chức vụ chủ chốt do Hội đồng nhân dân xã bầu ra. Nếu tỷ lệ số phiếu tín nhiệm
thấp dưới 50% số người tham gia thì Mặt trận Tổ quốc xã đề nghị Hội đồng nhân
dân xã xem xét, miễn nhiệm; trưởng thôn phối hợp với Trưởng thôn ban công tác
Mặt trận có trách nhiệm tổ chức cuộc họp thu nhập ý kiến của nhân dân về các
vấn đề do nhân dân tự quyết định, tổng hợp, báo cáo một cách chính xác, khách
quan, trung thực ý kiến góp ý của nhân dân bằng các văn bản gửi chính quyền xã;
nhân dân không được tụ tập đông người khiếu kiện vượt cấp, gây mất trật tự an
ninh và chống đối người thi hành công vụ trong khi các kiến nghị đang được xem
xét, giải quyết theo quy định của pháp luật. [10 tr. 30]
Trong những điều dân biết, Quy chế nhấn mạnh tới chính sách, pháp luật
nhà nước, các quy định thủ tục hành chính, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội dài
hạn và hàng năm của xã, đặc biệt là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, dự toán
và quyết toán ngân sách xã hàng năm, các dự án, các nguồn tài trợ, các kết quả
thanh tra, kiểm tra, xử lý, và dân có quyền được biết bằng văn bản niêm yết công
khai, bằng truyền thanh, bằng hội nghị và chất vấn khi tiếp xúc. Đây thực sự là
một bước tiến lớn, pháp lý hóa, thể chế hóa quyền làm chủ của nhân dân. Trong
15
- những điều mà dân quyết định trực tiếp, đáng lưu ý là dân bàn và quyết định về
chủ trương, mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công
cộng, lập thu, chi các loại quỹ trong khuôn khổ luật, giám sát công trình xây dựng,
bảo vệ sản xuất, kinh doanh, xây dựng hương ước, quy ước làng văn hóa. Đó là
một số điểm nổi bật về sự chuyển biến tích cực trong nhận thức về quyền và
nghĩa vụ, về các biện pháp giải quyết vấn đề dân chủ cho nông dân ở làng xã trong
việc ban hành và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Cuộc vận động Quy chế dân chủ ở nông thôn và các loại hình cơ sở nói
chung đã được nhiều năm và cần có những sơ kết, tổng kết bước đầu ở một số địa
phương và cả nước, cần đi sâu nghiên cứu, tác động vào tâm lý nông dân, tâm lý
cộng đồng làng xã để cuộc vận động có tính cách mạng này ở nông thôn đạt được
kết quả cao hơn và vững bền hơn.
Tóm lại, xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là ở cơ
sở nông thôn, là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, đáp ứng được
đòi hỏi bức xúc và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Ban hành, triển khai
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là hợp lòng dân, là một chủ trương có tính
chiến lược nhất quán của Đảng và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Qua một thời gian triển khai xây dựng và thực hiện, Quy chế dân chủ ở cơ
sở đang thực sự làm thay đổi bộ mặt xã hội nông thôn, đang là động lực thúc đẩy
kinh tế xã hội nông thôn phát triển, góp phần giải phóng mọi tiềm năng, khơi dậy
trí sáng tạo của nông dân, góp phần đấu tranh có hiệu quả các tệ nạn tiêu cực trong
bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Quy
chế còn những hạn chế nhất định, chưa đạt yêu cầu đề ra. Vì vậy, tiếp tục triển
khai thực hiện triệt để, sâu rộng Quy chế dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là ở nông thôn
theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là một
yêu cầu cấp bách trước mắt nhưng cũng có tính chiến lược, lâu dài, không chỉ làm
trong một đợt, một thời gian ngắn mà phải chú ý thường xuyên và kiên định.
16
- Chương 2
TÁC ĐỘNG CỦA TÂM LÝ LÀNG XÃ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH THỰC
HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ NÔNG THÔN
HIỆN NAY
17
- Tâm lý làng xã vốn đã ăn sâu vào nhận thức, tình cảm của người nông dân.
Sự tác động của tâm lý làng xã đến việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông
thôn hiện nay thể hiện ở hai mặt tích cực và tiêu cực. Sự tác động đó được thể
hiện ở những khía cạnh sau:
2.1 Tác động của tâm lý cộng đồng làng xã đến việc thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở nông thôn
Tâm lý cộng đồng hình thành một cách phổ biến và biểu hiện một cách tự
nhiên trong đời sống của làng xã. Đã là thành viên của một cộng đồng làng xã thì
không chỉ có tình cảm với nhau, mà còn có nghĩa vụ giúp người khác hay được
người khác giúp mình trong sản xuất, trong sinh hoạt kể cả trong đấu tranh với
địch họa, thiên tai để bảo vệ làng. Sự khước từ hoặc lảnh trốn khỏi cộng đồng tất
sẽ bị dư luận của làng lên án, sẽ bị cô lập và sẽ tự tách ra khỏi cộng đồng. Đó là
sự trừng phạt về lương tâm. Trong cuộc sống còn khó khăn nhiều về kinh tế, còn
phụ thuộc vào thiên nhiên, vào sự quản lý xã hội thì cá nhân chỉ có thể gắn bó và
dựa vào cộng đồng để tự khẳng định được mình. Họ sợ dư luận, sợ cô đơn, sợ
tách biệt, bị day dứt lương tâm khi không hòa đồng vào tập thể, khi không được
giúp đỡ và không giúp đỡ người khác lúc khó khăn. Người nông dân ý thức rất rõ là
chỉ hành động trong cộng đồng, cá nhân mới có sức mạnh, mới có thể giải quyết
được các công việc lớn của gia đình và làng xã.
Một biểu hiện rất đặc trưng của tâm lý cộng đồng trong quan hệ tình cảm là
tình làng nghĩa xóm. Tình cảm cộng đồng đóng vai trò rất quan trọng trong sự ảnh
hưởng của tâm lý cộng đồng đến nhận thức và hành vi của người nông dân. Đó là
sự thể hiện tính cộng đồng của làng xã trong quan hệ tình cảm. Nó phản ánh tinh
thần đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau của cộng đồng, cả cộng đồng vì mỗi
người, mỗi người vì cả cộng đồng. Tình cảm này thấm nhuần nghĩa vụ đạo đức
giữa các thành viên trong cộng đồng với nhau.
Tình cảm cộng đồng hình thành trong hoạt động chung của cộng đồng làng
xã – hoạt động lao động và sinh hoạt hàng ngày. Khu vực canh tác chung, nguồn
nước chung, nơi hội họp chung, nơi thờ phụng chung là cơ sở để nảy sinh những
hiểu biết, đồng cảm, gắn bó, chia sẻ và giúp đỡ nhau. Trong tình cảm cộng đồng
18
- “cái tôi” và “cái chúng ta” được dung hợp với nhau. Tình cảm cộng đó càng được
tôi luyện, hun đúc và biến thành sức mạnh đoàn kết trong sự nghiệp đấu tranh
chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, khi chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, tình cảm cộng đồng cũng có mặt tiêu cực, nhiều khi trở thành trở lực
kìm hãm sự phát triển kinh tế và xã hội. Bỡi lẽ, nó níu kéo những cá nhân muốn
vươn lên, tách khỏi cộng đồng để làm giàu chính đáng, để bộc lộ năng lực riêng
của mình. Cuộc điều tra tâm lý nhân dân của Viện tâm lí học tiến hành tại Hòa
Bình, Thái Bình, Thanh Hóa năm 1995 cho thấy, gần 30% nông dân được hỏi cho là
sự phân hóa giàu nghèo, hoạt động kinh doanh ở nông thôn hiện nay là không thể
chấp nhận được. Trong trong cuộc điều tra tâm lí nông dân tại 7 tỉnh đại diên cho
cả nước do Viện tâm lý học tiến hành năm 1999 – 2000, có 39,7% nông dân cho
rằng việc phát triển trang trại ở nông thôn dẫn đến phân hóa giàu nghèo, dẫn đến
quan hệ ông chủ và người làm thuê, dẫn tới bóc lột và mất danh dự của con
người…
Ở đây có sự thống nhất của hai mặt đối lập. Trong cộng đồng làng xã, tính
tư hữu, tiểu nông và cá nhân của người nông dân thể hiện rất rõ nhưng trong các
hoạt động lao động sản xuất và công việc chung của làng xã, trong giao tiếp hằng
ngày, tính cộng đồng lại thể hiện rất rõ nét. Ở đây, “cái tôi” và “cái chúng tôi”
dường như rất khó phân biệt rạch ròi, rất dễ hoán vị và đổi chỗ cho nhau. Nhân
cách của người nông dân dường như được tạo nên từ hai thành tố: “cái tôi” và “cái
hoạt động”. Hai yếu tố này không hề mâu thuẫn với nhau, mà trái lại, kết hợp rất
linh hoạt và hài hòa trong con người và cộng đồng của người nông dân .
Với người nông dân Việt Nam, tâm lý cộng đồng vừa là sản phẩm, vừa là
phương tiện hành động, vừa là yếu tố không thể thiếu được trong đời sống của
họ. Hoạt động của cá nhân dù trong lao động sản xuất hay trong sinh hoạt đều
mang tính cộng đồng. Được hình thành, phát triển và tồn tại qua nhiều thế hệ, tâm
lý cộng đồng in đậm và thể hiện thường xuyên trong nhận thức và hành vi của mỗi
người nông dân và có sức sống mãnh liệt trong đời sống nông thôn.
19
- Từ khi chúng ta phát triển nền nông nghiệp nông thôn theo hướng kinh tế thị
trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn (tức là
thực hiện sự thay đổi cơ bản trong hoạt động lao động sản xuất và tổ chức cuộc
sống của người nông dân) thì tâm lý cộng đồng càng được mở rộng và phát triển,
ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người nông dân hiện nay.
Sự tác động của tâm lý cộng đồng làng xã đến việc thực hiện Quy chế
dân chủ ở nông thôn hiện nay thể hiện ở hai mặt tích cực và tiêu cực.
* Tác động tích cực
Tâm lý cộng đồng có tác động tích cực vì nó tạo ra bầu không khí đoàn kết,
nhất trí trong bàn bạc, quyết định và giám sát các chủ trương, kế hoạch liên quan
tới sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Tâm lý cộng đồng sẽ là cơ sở
quan trọng phối hợp hành động và thống nhất cao về nhận thức để đi đến quyết
định phù hợp với nguyện vọng của đa số nhân dân trong quá trình nhân dân tham
gia giải quyết những vấn đề lớn của địa phương. Khi có được những quyết định
hợp lòng dân thì các quyết định đó sẽ được người dân thực hiện tự nguyện, nhanh
chóng và có hiệu quả cao, trong làng xã sẽ có bầu không khí thoải mái, ấm cúng và
phấn khởi.
Tinh thần đoàn kết, nhất trí của tâm lý cộng đồng là yếu tố quan trọng trong
cuộc đấu tranh chống tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác ở nông thôn hiện
nay. Đảng và Nhà nước ta đã xác định, tham nhũng hiện nay đã trở thành “quốc
nạn” không chỉ ở các đô thị mà ở cả nông thôn. Trong cuộc điều tra cơ bản toàn
quốc về tâm lý nông dân tại 7 tỉnh đại diện cho các vùng kinh tế trong cả nước của
Viện Tâm lý năm 1999 – 2000, có 60, 5% số nông dân được hỏi rằng tham nhũng là
vấn đề tiêu cực bức xúc nhất, đứng đầu trong số các hiện tượng tiêu cực ở nông
thôn hiện nay.
Tâm lý cộng đồng cũng có vai trò tích cực trong việc đấu tranh chống các tệ
nạn xã hội ở nông thôn. Trong những năm gần đây, tệ nạn xã hội có xu hướng tăng
không chỉ ở đô thị mà ở cả nông thôn. Ở nông thôn tệ nạn cờ bạc, số đề, nghiện
rượu phát triển, các tệ nạn ma túy mại dâm đã xuất hiện. Cuộc điều tra tâm lý
nông dân tại 7 tỉnh (Yên Bái, Nam Định, Nghệ An, Bình Định, Lâm Đồng, Tây
20
nguon tai.lieu . vn