Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TÁC ĐỘNG CỦA TÂM LÝ LÀNG XàĐỐI VỚI QUÁ  TRÌNH THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ  NÔNG THÔN NƯỚC TA HIỆN NAY 1
  2. Tháng 04/2011 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tâm lý làng xã là một dạng biểu hiện đặc thù và nổi bật của tâm lý xã hội  trong xã hội Việt Nam, phản ánh những nét tâm lý tiêu biểu nhất của người nông  dân trong một cộng đồng dân cư (làng xã – một loại nhóm lớn). Việc triển khai quy chế dân chủ   ở  nông thôn là một bước phát huy cơ  chế  Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, nhằm khơi dậy một cách   toàn diện vai trò của các tổ  chức trong hệ  thống chính trị  và động viên mạnh mẽ  nhân dân góp phần xây dựng chính quyền ngày càng vững mạnh, phục vụ  đường  lối đổi mới của Đảng, thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông  nghiệp, nông thôn. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn là nhằm phát huy  quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở là công bộc của dân,   có đủ  năng lực và phẩm chất đáp  ứng yêu cầu phát triển và đổi mới đất nước,   ngăn chặn, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà và sách nhiễu nhân dân. Qua nhiều năm triển khai thực hiện, có thể  thấy Quy chế dân chủ  đã nhận  được sự đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân. Nó thể hiện đây là một chủ  trương đúng đắn, hợp lòng dân của Đảng. Song, quá trình thực hiện Quy chế dân   chủ ở cơ sở nông thôn không chỉ chịu sự tác động của các yếu tố tích cực, mà còn   chịu sự tác động của một số yếu tố  tiêu cực, gây trở  ngại cho việc thực hiện quy  chế  này. Một trong những yếu tố  cơ  bản tác động tích cực lẫn tiêu cực đến quá  trình thực hiên Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn là tâm lý làng xã. Tâm lý làng xã và quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn có  mối quan hệ  biện chứng. Tâm lý làng xã có thể  thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình   thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn. Tâm lý làng xã tích cực sẽ thúc đẩy   quá trình thực hiện Quy chế dân chủ. Ngược lại, tâm lý làng xã tiêu cực, lạc hậu   sẽ kìm hãm, gây khó khăn, trở ngại đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở  2
  3. cơ sở. Mặt khác Quy chế dân chủ ở cơ sở sẽ góp phần biến đổi tâm lý làng xã theo  hướng tích cực và khắc phục những tâm lý làng xã tiêu cực đang tồn tại làm hình  thành những đặc trưng mới của tâm lý làng xã ở thời lỳ đổi mới – thời kì đưa nông   thôn phát triển nông nghiệp là chủ  yếu, chuyển dần sang sản xuất theo hướng   công nghiệp, hiện đại hóa. Những tác động qua lại này đều được phản ánh, in dấu   vào bộ mặt tâm lý của người nông dân, cộng đồng dân cư làng xã nông thôn, các tổ  chức và thiết chế  chính trị  ­ xã hội  ở  nông thôn. Nhận diện những tác động, biến  đổi của tâm lý làng xã đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ  ở  cơ  sở  nông  thôn hiện nay là khảo sát mối quan hệ qua lại, tác động qua lại giữa tâm lý làng xã  với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở nông thôn. Việc tìm hiểu tác động của tâm lý làng xã tới việc thực hiện Quy chế dân   chủ   ở  cơ  sở  nông thôn là một nhiệm vụ  cần thiết trong nghiên cứu mối quan hệ  giữa các yếu tố tâm lý xã hội với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở nông thôn   hiện nay. Bởi lẽ, tâm lý làng xã là hạt nhân, là yếu tố trung tâm của các yếu tố tâm   lý xã hội ở nông thôn. Tâm lý làng xã có tác động trên cả hai chiều tích cực và tiêu   cực đối với quá trình thực hiện Quy chế  dân chủ   ở  cơ  sở  nông thôn. Trên cơ  sở  nhận thức như  vậy, tôi quyết định chọn đề  tài: “Tác động của tâm lý làng xã đối  với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay” để làm đề tài   luận văn tốt nghiệp nhằm có những đề xuất, giải pháp phát huy tác động tích cực   và hạn chế  tác động tiêu cực của tâm lý làng xã đối với việc thực hiện Quy chế  dân chủ ở cơ sở nông thôn. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích: Tìm hiểu về  tác động của tâm lý làng xã đối với quá trình thực   hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay. Nhiệm vụ: Thứ nhất: Tìm hiểu một số vấn đề  lí luận chung về  tâm lý làng xã và Quy   chế dân chủ, thực hiện triển khai Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn. Thứ  hai: Tác động của tâm lý làng xã đối với quá trình thực hiện Quy chế  dân chủ ở cơ sở nông thôn. 3
  4. Thứ  ba: Những giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế  tác  động tiêu cực của tâm lý làng xã đối với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ  sở  nông thôn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu về tác động của tâm lý làng xã đối với quá trình thực hiện  Quy chế dân chủ ở nông thôn hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về  tác động của tâm lý làng xã  đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ từ 1998 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được viết và hoàn thành trên cơ  sở  lý luận của chủ  nghĩa Mác –  Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về  vấn đề  dân chủ  và   thực hiện Quy chế  dân chủ   ở  cơ  sở. Trong bài luận văn này tôi sử  dụng một số  phương pháp như: so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, phương pháp logic lịch   sử. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương, 13 tiết 4
  5. NỘI DUNG Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÂM LÝ LÀNG XàVÀ  THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ NÔNG THÔN ­­­    ­­­ 1.1  Bước đầu xác định khái niệm “tâm lý làng xã”. Nghiên cứu về tâm lý làng xã với tư  cách là một vấn đề  tâm lý xã hội còn hết   sức ít  ỏi và mới bắt đầu mấy năm trở  lại đây. Đời sống kinh tế  ­ xã hội của làng   xã  ở  nước ta trong lịch sử  và hiện tại, chủ  yếu được nghiên cứu từ  góc độ  của  khoa học lịch sử, dân tộc học, văn hóa, xã hội học, kinh tế học...Chúng ta còn  ít các   nghiên cứu tâm lý học có tính chuyên sâu về  tâm lý làng xã, đặc biệt là những  nghiên cứu thực tiễn. 5
  6. Chính vì vậy mà đến nay, chúng ta vẫn chưa có một khái niệm chính thức về  tâm lý làng xã. Đã đến lúc chúng ta cần xây dựng khái niệm về tâm lý làng xã. Sở  dĩ điều này trở thành một nhiệm vụ nghiên cứu lý luận quan trọng bởi lý bởi lẽ: Thứ  nhất, nước ta là một nước nông nghiệp, có tới gần 80% dân số  sống  ở  nông thôn. Cho nên, tâm lý nông dân là tâm lý là tâm lý rất đặc trưng của người   Việt Nam, nó phản ánh hoạt động thực tiễn của đại đa số người dân Việt Nam. Thứ hai, làng xã là đơn vị hành chính đã tồn tại rất lâu dài trong lịch sử dân tộc  ta. Nó đã từng là “tiểu quốc gia”, một xã hội Việt Nam thu nhỏ  trong hàng ngàn  năm của chế độ phong kiến. Nó ăn sâu vào tiềm thức của người nông dân từ thê hệ  này qua thế  hệ  khác. Nó chi phối suy nghĩ và hành vi của người nông dân (kể  cả  những người nông dân đã rời bỏ  làng xã ra sống ở đô thị  và trở  thành cán bộ  công  chức nhà nước). Thứ ba, khái niệm là cơ sở để chúng ta nghiên cứu những vấn đề nội dung của   tâm lý làng xã. Việc xác định tâm lý làng xã phải chú ý một đến một số  khía cạnh quan trọng   sau:            ­ Tâm lý làng xã là dạng cơ bản của tâm lý xã hội. Nói cách khác, đây là một   hình thức của tâm lý nhóm.             ­ Tâm lý làng xã phản ánh những nét tiêu biểu nhất, đặc trưng nhất của   những người nông dân trong một cộng đồng dân cư.      ­ Tâm lý làng xã được hình thành và phát triển trong một quá trình lịch sử lâu   dài. Nó được sự chắt lọc của thời gian và kiểm nghiệm của lịch sử. Từ những phân tích trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm bước đầu về tâm lý   làng xã: Tâm lý làng xã là một dạng tâm lý xã hội bền vững của một cộng đồng   dân cư cơ bản ở nông thôn, nó phản ánh những nét tâm lý tiêu biểu nhất, đặc trưng   nhất của những người nông dân trong cộng đồng ấy. Tâm lý làng xã là sản phẩm của nền văn minh nông nghiệp Việt Nam, được tạo  nên từ  hoạt động sản xuất, hoạt động đấu tranh, vật lộn với thiên nhiên trải qua  một quá trình hàng ngàn năm. Nền sản xuất nông nghiệp của làng xã Việt Nam trải   qua hàng năm ấy là nền sản xuất tiểu nông, manh mún. Người nông dân làm ra sản  6
  7. phẩm chủ yếu để phục vụ cho gia đình mình, nếu có trao đổi thì cũng một phạm vi   rất hẹp (chợ làng). Nền sản xuất tiểu nông là nền sản xuất mang tính tự  cung tự  cấp rất cao, là nền sản xuất chủ yếu theo kinh nghiệm mà  ở  đó người ta ít thấy   hiện diện của các yếu tố khoa học – kỹ thuật, chính vì vậy mà năng suất lao động  rất thấp. Những đặc điểm này của nền sản xuất nông nghiệp Việt Nam đã in đậm   dấu ấn của nó lên tâm lý làng xã, làm cho tâm lý làng xã trở thành một dạng tâm lý  xã hội rất đặc thù. Là một hình thái của ý thức xã hội, tâm lý làng xã một mặt là sản phẩm của   hoạt động thực tiễn (hoạt động lao động sản xuất và hoạt động sinh hoạt hàng   ngày) của người nông dân, mặt khác, nó tác động tích cực trở  lại hoạt động sống   của người nông dân hoặc theo chiều hướng tích cực hoặc theo chiều hướng tiêu   cực. Những thay đổi về  kinh tế­ xã hội hiện nay  ở  nông thôn trên cơ  sở  phát triển   nền kinh tế thị trường, ứng dụng khoa học – kĩ thuật vào sản xuất, sự hội nhập về  kinh tế, văn hóa với các quốc gia khác...đã tác động lớn đến tâm lý làng xã truyền   thống, làm cho yếu tố tâm lý xã hội này có những thay đổi nhất định. Một số  yếu  tố tâm lý mới sẽ bổ sung vào tâm lý làng xã làm cho nó mang một sắc thái mới. Đó  là những biến đổi về tư duy, tình cảm, thái độ và hành vi của người nông dân trong   điều kiện sản xuất theo hướng kinh tế thị trường. 1.2   Quy chế  dân chủ  và thực hiện triển khai Quy chế  dân chủ   ở  cơ  sở  nông thôn. Chỉ thị số  30/CT­ TW ngày 18 – 02 – 1998 của Ban chấp hành Trung  ương  về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nêu rõ: Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là  mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công  cuộc đổi mới. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách đổi mới  về kinh tế, chính trị, xã hội, phát huy một bước quyền làm chủ của nhân dân, nhờ  đó đã đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội  và bảo vệ Tổ quốc. 7
  8. Tuy nhiên, nhìn chung, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều  nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ  quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách   nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa   đẩy lùi, chưa ngăn chặn được. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm   tra” chưa được cụ thể hóa và thể chế hóa thành luật pháp, chậm đi vào cuộc sống. Như Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa  VIII (tháng 6 – 1997) đã nhấn mạnh, lúc này để  giữ  vững và phát huy được bản  chất tốt đẹp của Nhà Nước ta, phải phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút nhân  dân tham gia quản lí nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục   tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng. Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân  dân  ở  cơ  sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ  trương, chính sách của Đảng và   Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền làm chủ của nhân dân một cách trực tiếp và   rộng rãi nhất. Muốn vậy, Nhà nước cần ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở có tính pháp lý,   yêu cầu mọi người, mọi tổ  chức  ở  cơ  sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện. Quy  chế  dân chủ  cần được xây dựng cho từng loại cơ  sở  xã, phường, doanh nghiệp,   bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu, cơ  quan hành chính…phù hợp với đặc  điểm của từng loại cơ sở. Việc xây dựng Quy chế dân chủ ở cơ sở cần quán triệt những quan điểm chỉ  đạo sau: Đặt việc phát huy quyền làm chủ  của nhân dân  ở  cơ  sở  trong cơ chế  tổng   thể của hệ thống chính trị “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.  Coi trọng cả ba mặt nói trên, không vì nhấn mạnh một mặt mà coi nhẹ hạ thấp các   mặt khác. Vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực   hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ  ban nhân dân các  cấp, vừa thực hiện tốt các chế độ  dân chủ  trực tiếp ở cấp cơ sở để  nhân dân bàn   bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng, thiết thực, gắn liền với   lợi ích của mình. 8
  9. Phát huy dân chủ  phải gắn liền phát triển kinh tế  ­ xã hội và nâng cao dân  trí, tạo điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả. Nội dung các quy chế phát huy dân chủ ở cơ sở phải phù hợp với Hiến pháp,  pháp luật, thể hiện tinh thần dân chủ đi đôi với kỉ  cương, trật tự, quyền hạn gắn   với trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ; chống quan liêu, mệnh lệnh, đồng thời  chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ vi phạm pháp luật. Gắn quá trình và thực hiện Quy chế  dân chủ  với công tác cải cách hành  chính, sửa đổi những cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính không phù hợp. Quy chế dân chủ ở cơ sở quy định những việc chính quyền địa phương phải   thông tin và công khai để  dân biết, những việc dân bàn và quyết định trực tiếp,  những việc dân tham gia ý kiến trước khi cơ  quan Nhà Nước quyết định, những  việc dân giám sát, kiểm tra và các hình thức thực hiện Quy chế dân chủ.  Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là gắn với công cuộc cải cách thể chế,  cải cách hành chính hiện nay để  thực hiện phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân   làm, dân kiểm tra” bằng bốn loại quyền cụ thể của người dân ở cơ sở trong tất cả  các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cải cách thể chế, xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị ở cơ sở là một  vấn đề  rất lớn phải giải quyết để  thực hiện dân chủ  chính trị  từ  cơ  sở. Quy chế  dân chủ   ở xã mà Đảng ban hành hướng chủ  yếu vào mục đích này. Tinh thần cơ  bản của Quy chế  dân chủ   ở  cơ  sở  nông thôn là thực hiện triệt để  các biện pháp   chống quan liêu, tham nhũng, làm trong sạch thể chế từ cơ sở, nâng cao chất lượng  cán bộ   ở cơ  sở, coi đó là khâu quyết định hiệu lực, hiệu quả  của chính quyền cơ  sở, của hệ  thống chính trị  cơ  sở. Sự   ủy quyền của dân có đảm bảo được lành   mạnh và có làm cho dân thực sự là người chủ hay không, tùy thuộc một phần lớn   vào phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, vào sự đoàn kết, nhất trí, phối hợp   hành động và sự  đổi mới phương pháp hoạt động của các tổ  chức đảng, chính   quyền, đoàn thể cơ sở. Những điều khoản quy định trong quy chế  và những biện pháp thực hiện  đều nhằm vào phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo thế  chủ động, tích cực của dân, phát triển mạnh mẽ phương thức dân chủ trực tiếp để  9
  10. dân tự  quản, tự  quyết định những vấn đề  liên quan trực tiếp tới cuộc sống hàng   ngày của họ. Nó phù hợp với đặc điểm tâm lý nông dân và tâm lý cộng đồng làng   xã, phát huy được vai trò và chức năng của xã vừa là một cấp bách hành chính, vừa   có tính chất tự quản, cộng đồng. Chỉ thị số  30 – CT/TƯ  ngày 18 – 2 – 1998 của Trung  ương Đảng đã nêu rõ   những quan điểm và nội dung chủ  yếu, phương châm, phương pháp để  xây dựng  và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là ở cơ sở nông thôn:  Thứ nhất là,, đối với những việc cần thông báo để nhân dân biết: Chính quyền xã có trách nhiệm thông tin kịp thời và công khai để  nhân dân   biết những công việc chính sau:  Chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan trực tiếp đến lợi  ích của nhân dân trong xã bao gồm: nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định  của Uỷ ban nhân dân xã và cấp trên có liên quan đến địa phương; các quy định của  pháp  luật  về   thủ  tục  hành chính,  giải  quyết  các  công  việc  liên  quan  đến  dân;   Những quy định của Nhà nước và chính quyền địa phương về đối tượng, mức thu  các loại thuế, lệ phí và các nghĩa vụ khác đối với nhân dân theo quy định của pháp  luật hiện hành; Kế  hoạch phát triển kinh tế ­ xã hội dài hạn và hàng năm của xã;  quy hoạch sử dụng đất đai, dự toán và quyết toán ngân sách xã hàng năm; dự  toán   và quyết toán thu chi các quỹ, dự án các khoản huy động đóng góp xây dựng cơ sở  hạ  tầng, các công trình phúc lợi công cộng của xã và kết quả  thực hiện; các công  trình dự  án do Nhà nước, các tổ  chức và cá nhân đầu tư, tài trợ  trực tiếp cho xã;   chủ trương, kế hoạch vay vốn phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo; điều chỉnh  địa giới hành chính của xã; kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ  tiêu cực  tham nhũng của cán bộ  xã; công tác phòng chống các tệ  nạn xã hội; sơ  kết, tổng   kết hoạt động của Hội động nhân dân,  Ủy ban nhân dân xã; phương án đồn điền,  đổi thửa phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nông nghiệp, kinh tế trang  trại, hợp tác xã. [10 tr.21]      Ủy ban nhân dân xã có trách nhiệm phối hợp với Uỷ  ban Mặt trận Tổ  quốc Việt Nam, các thành viên của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp   và Trưởng thôn cùng các cấp thông tin theo quy định tại điều 5 của Quy chế này để  10
  11. nhân dân biết bằng các hình thức sau: niêm yết công khai văn bản tại trụ sở Ủy ban  nhân dân xã và các trung tâm dân cư, văn hóa, hệ thống truyền thanh của xã, thôn và  các tổ chức văn hóa, thông tin, tuyên truyền cơ sở; tổ chức các cuộc tiếp xúc cử tri   của đại biểu Hội đồng nhân dân xã; tại các kỳ họp của Hội đồng nhân dân xã, các   kỳ họp của Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên   của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và của cuộc họp của thôn; gửi văn bản  tới hộ gia đình hoặc Trưởng thôn. [10 tr.23] Nhân dân phải được tham gia các buổi họp sơ kết 6 tháng, tổng kết cuối  năm, kiểm điểm các hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã. Đảng  bộ, chính quyền xã cần phải tổ chức mỗi năm 2 kỳ, đoàn cán bộ chủ chốt của  xã lần lượt đi tất cả  các xóm để  nhân dân đóng góp xây dựng trực tiếp về  mọi   hoạt động của Đảng, chính quyền cũng như của từng cán bộ chủ chốt. Thứ hai là, đối với những việc dân bàn và quyết định trực tiếp: Có thể thấy hệ thống chính trị ở cơ  sở có vai trò quan trọng trực tiếp trong  việc tạo điều kiện để  nhân dân bàn và quyết định những công việc trực tiếp chủ  yếu như: chủ  trương và mức đóng góp xây dựng cơ  sở  hạ  tầng và các công trình   phúc lợi công cộng (điện, đường, trường, trạm y tế,nghĩa trang, các công trình văn  hóa, thể  thao...); lập thu, chi các quỹ  trong khuôn khổ  pháp luật; xây dựng hương   ước, quy ước làng văn hóa, nếp sống văn minh, giữ gìn an ninh trật tự, bài trừ  mê  tín dị đoan, các tệ nạn xã hội; các công việc nội bộ  trong cộng đồng dân cư  thôn,  phù hợp với pháp luật của Nhà nước; thành lập Ban giám sát công trình xây dựng   do dân đóng góp; tổ  chức bảo vệ sản xuất, kinh doanh giữ gìn an ninh, trật tự  an   toàn giao thông, vệ sinh môi trường và các hoạt động khác trên địa bàn xã, thôn. [12  tr.13] Ngoài những khoản đóng góp quy định tại khoản 1 điều 7 những khoản đóng  góp khác của nhân dân ủng hộ với mục đích tương trợ, nhân đạo, từ thiện, Uỷ ban  nhân dân xã phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên của  Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tuyên truyền vận động nhân dân theo nguyên  tắc hoàn toàn tự  nguyện, không được áp đặt, phân bổ, bình quân nhất loạt. [12  tr.13] 11
  12. Cấp   ủy Đảng lãnh đạo,  Ủy ban nhân dân xã xây dựng phương án, chương  trình,   kế hoạch.   Ủy   ban   nhân   dân   xã phối   hợp   với Ủy   ban   Mặt   trận   Tổ quốc  chỉ đạo, tổ chức nhân dân bàn quyết định bằng các hình thức: họp dân  ở  từng  ấp  thảo luận và biểu quyết công khai hoặc kiểm phiếu kín, lập biên bản gửi Ủy ban   nhân dân xã; họp chủ  hộ  bàn, biểu quyết công khai hoặc phiếu kín, lập biên bản  gửi  Ủy ban nhân dân xã (các cuộc họp này được tiến hành khi có ít nhất hai phần   ba số người trong diện họp tham dự); nếu không họp thì phát phiếu lấy ý kiến của  hộ gia đình. [12 tr.13] Việc lấy ý kiến, biểu quyết công khai tại cuộc họp hoặc bỏ  phiếu kín về  từng vấn đề  do nhân dân tự quyết định theo quy định tại điều 7 của Quy chế này  phải được lập biên bản để để báo cáo Uỷ ban nhân dân xã về nội dung cuộc họp  và kết quả  của những vấn đề  đã biểu quyết. Nếu đa số  nhân dân hoặc chủ  hộ  đồng ý thì Ủy ban nhân dân xã tổ chức thực hiện có sự giám sát, kiểm tra của Ban   thanh tra nhân dân xã hoặc Ban giám sát công trình do dân cử. Nhân dân có nghĩa vụ  chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định được đa số  đồng ý. Nếu xét thấy đa số  quyết  định không phù hợp  với luật pháp  và  các  quy  định của  chính  quyền  địa  phương thì Ủy ban nhân dân xã đề nghị Ủy ban nhân dân huyên xem xét, quyết định.   [12 tr.14] Thứ  ba  là, đối  với  những  việc  dân  làm,  tham  gia  ý kiến,   Đảng  bộ,  Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân quyết định: Khi những buổi họp dân thực sự có chất lượng, nhân dân thực sự là  chủ về mọi mặt của  đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, nhân dân có  trách nhiệm góp ý thẳng thắn, không sợ bị trù dập, thì những phương thức thực  hiện dân chủ một cách gián tiếp như đặt hòm thư góp ý, phát phiếu thăm dò ý kiến  phải ít sử dụng. Người dân là chủ thể sáng tạo góp phần xây dựng những dự thảo  nghị quyết, quy chế và kế hoạch cho Đảng bộ, chính quyền các đoàn thể nhân dân,  như: dự thảo quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế ­ xã hội dài hạn, hàng năm  của xã, phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất và phương án phát  triển nghành nghề, giải quyết việc làm cho người lao động; dự thảo quy hoạch, kế  hoạch sử dụng đất đai ở địa phương và việc quản lý sử dụng có hiệu quả quỹ đất  12
  13. công ích ở địa phương; dự thảo quy hoạch khu dân cư và đề án định canh, định cư,  vùng kinh tế mới, kế hoạch và dự án huy động và sử dụng các khoản đóng góp của  nhân dân để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng do xã quản lý; dự thảo đề án phân  vạch, điều chỉnh địa giới hành chính xã, đề án chia, thành lập thôn, làng, ấp,bản;  phương án đền bù, giải phóng mặt bằng; giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội  đồng nhân dân xã,...Hay những chương trình có tính quốc gia như dự thảo triển  khai các chương trình quốc gia về y tế, nước sạch, môi trường, an toàn thực phẩm,  kế hoạch hóa gia đình. [12 tr.14] Phương thức thực hiện những việc dân bàn, tham gia ý kiến, Hội đồng Nhân  dân, Uỷ  ban Nhân dân quyết định: Uỷ  ban nhân dân xã dự  thảo các văn bản, kế  hoạch, phương án và phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã, các đoàn thể nhân   dân tổ chức lấy ý kiến công khai dưới các hình thức: Phát biểu thăm dò ý kiến từng   hộ gia đình; họp nhân dân hoặc chủ hộ thôn, làng, ấp, bản thảo luận, lập biên bản   gửi Uỷ ban Nhân dân xã; họp các đoàn thể, các tổ  chức kinh tế để  thảo luận, ghi   biên bản gửi Uỷ  ban Nhân dân xã; đặt hòm thư  góp ý, Uỷ  ban Nhân dân xã tổng  hợp ý kiến. [12 tr.15] Thứ tư  là, những việc nhân dân giám sát, kiểm tra: Nhân  dân là những  người  chủ thật sự của  làng,  xã,   nhất thiết  phải được  kiểm tra, giám sát những việc sau: hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban  nhân dân xã; kết quả thực hiện nghị   quyết của hệ thống chính trị  sau mỗi năm,  mỗi khóa, mỗi kỳ đại hội; hoạt động của đại biểu Hội đồng Nhân dân xã, của cán   bộ  Uỷ  ban Nhân dân và cán bộ, công chức Nhà nước hoạt động tại địa phương;   giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân; dự  toán và quyết toán ngân sách xã; kết quả  nghiệm thu và quyết toán công trình do nhân dân đóng góp xây dựng và các chương   trình dự  án do Nhà nước, các tổ  chức vá cá nhân đầu tư  tài trợ  trực tiếp cho xã;  quản lý và sử dụng đất đai; thu ­ chi các khoản lệ phí theo quy định của Nhà nước,   các khoản đóng góp của dân; kết quả  thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ  tiêu   cực, tham nhũng liên quan đến cán bộ  xã; việc thực hiện chính sách  ưu đãi, chăm  sóc, giúp đỡ  thương binh, gia đình liệt sĩ, những người và gia đình có công với  nước, chính sách bảo hiểm xã hội, cứu tế xã hội.  [12 tr.16]  13
  14. Nhân dân trực tiếp giám sát hoạt động của cơ  quan, tổ  chức, cá nhân hoặc  gián tiếp thông qua các tổ  chức chính trị  ­ xã hội, các tổ  chức đại diện cho mình   hoặc Ban Thanh tra nhân dân bằng các phương thức sau đây: tham gia trực tiếp   (nếu được mời) hoặc thông qua các tổ chức đại diện cho mình trong các cuộc họp  của chính quyền xã bàn về các vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của  mình; tham gia ý kiến đánh giá báo cáo tổng kết công tác sáu tháng và hàng năm của  chính quyền xã; góp ý kiến vào bản kiểm điểm công tác và tự  phê bình của Chủ  tịch Hội đồng Nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân xã trong cuộc họp tổng kết   cuối năm; bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức vụ  do Hội đồng Nhân dân xã bầu;  phát hiện những cơ quan tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân   và có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí, sử dụng sai mục đích thu, chi ngân sách và các   khoản đóng góp của nhân dân; thực hiện chương trình, dự  án và sử  dụng quản lý  đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng trái với những quy định của pháp luật và các   hành vi vi phạm pháp luật khác, tố  cáo, kiến nghị với chính quyền xã, cơ  quan có   thẩm quyền làm rõ, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết. [10 tr. 29] Với  ý nghĩa đó, hệ thống chính trị cơ  sở, trong đó trực tiếp là chính quyền  và Đảng bộ xã, phải có vai trò tích cực, chủ   động trong việc tổ chức thực hiện  và tạo  điều kiện cho người dân được phát huy những quyền của họ trong các hoạt  động trên với các hình thức: nhân dân giám sát hoạt động và tư  cách đại biểu Hội   đồng nhân dân, các thành viên Ủy ban nhân dân; Có quyền khiếu kiện, khiếu nại, tố  cáo các hành vi xâm phạm quyền làm chủ  của nhân dân, vi phạm pháp luật, tham  nhũng, tiêu cực của đại biểu Hội đồng nhân dân và các thành viên của Ủy ban nhân;  các kỳ họp của Hội đồng nhân dân xã mời đại diện các tổ  chức đoàn thể tham dự  và mời đại diện nhân dân dự  thính; thông qua các tổ  chức:  Ủy ban Mặt trận Tổ  quốc, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ  Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông   dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Người cao tuổi; thông qua Ban thanh tra nhân dân   được thành lập và hoạt động theo pháp luật; Ủy ban nhân dân xã chịu trách nhiệm   tổ chức việc tiếp dân, giải quyết kịp thời các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công  dân theo đúng quy định của pháp luật; khi phát hiện có dấu hiệu tham nhũng, tiêu   cực, sử dụng sai mục đích, lãng phí trong việc thu, chi ngân sách, các khoản đóng  14
  15. góp, các loại quỹ và quản lý đất đai, nhân dân có quyền yêu cầu làm rõ, Hội đồng   nhân dân, Ủy ban nhân dân, người quản lý trực tiếp phải cung cấp và giải trình đầy  đủ các việc nói trên mà không có bất cứ một hạn chế nào. [12 tr. 17] Trách nhiệm của các cơ  quan, tổ chức, và cá nhân đối với việc giám sát và  kiểm tra của nhân dân: mời đại diện của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và   các thành viên của Mặt trận Tổ  quốc cùng cấp, các đối tượng liên quan trực tiếp  tham gia các cuộc họp của chính quyền xã bàn bạc các vấn đề liên quan đến quyền  và lợi ích trực tiếp của nhân dân địa phương, xem xét, giải quyết các kiến nghị của  cơ quan, tổ chức, cá nhân theo thẩm quyền và thông báo kết quả giải quyết cho tổ  chức, cá nhân có kiến nghị, trình cơ  quan có thẩm quyền các vụ  việc vượt quá   thẩm quyền; Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã có trách nhiệm gửi   cho Trưởng thôn bản kiểm điểm công tác và tự  phê bình tại cuộc họp tổng kết   hàng năm để  Trưởng thôn tổ chức nhân dân đóng góp ý kiến; hàng năm, Mặt trận   Tổ  quốc xã tổ  chức lấy phiếu tín nhiệm của các thành viên Mặt trận đối với các   chức vụ  chủ chốt do Hội đồng nhân dân xã bầu ra. Nếu tỷ  lệ số  phiếu tín nhiệm  thấp dưới 50% số người tham gia thì Mặt trận Tổ quốc xã đề nghị Hội đồng nhân  dân xã xem xét, miễn nhiệm; trưởng thôn phối hợp với Trưởng thôn ban công tác  Mặt trận có trách nhiệm tổ  chức cuộc họp thu nhập ý kiến của nhân dân về  các  vấn đề  do nhân dân tự  quyết định, tổng hợp, báo cáo một cách chính xác, khách   quan, trung thực ý kiến góp ý của nhân dân bằng các văn bản gửi chính quyền xã;  nhân dân không được tụ  tập đông người khiếu kiện vượt cấp, gây mất trật tự  an  ninh và chống đối người thi hành công vụ trong khi các kiến nghị  đang được xem   xét, giải quyết theo quy định của pháp luật. [10 tr. 30] Trong những điều dân biết, Quy chế  nhấn mạnh tới chính sách, pháp luật   nhà nước, các quy định thủ tục hành chính, kế hoạch phát triển kinh tế ­ xã hội dài   hạn và hàng năm của xã, đặc biệt là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, dự toán  và quyết toán ngân sách xã hàng năm, các dự  án, các nguồn tài trợ, các kết quả  thanh tra, kiểm tra, xử lý, và dân có quyền được biết bằng văn bản niêm yết công   khai, bằng truyền thanh, bằng hội nghị  và chất vấn khi tiếp xúc. Đây thực sự  là  một bước tiến lớn, pháp lý hóa, thể  chế  hóa quyền làm chủ  của nhân dân. Trong   15
  16. những điều mà dân quyết định trực tiếp, đáng lưu ý là dân bàn và quyết định về  chủ  trương, mức đóng góp xây dựng cơ  sở  hạ  tầng, các công trình phúc lợi công   cộng, lập thu, chi các loại quỹ trong khuôn khổ luật, giám sát công trình xây dựng,   bảo vệ  sản xuất, kinh doanh, xây dựng hương  ước, quy  ước làng văn hóa. Đó là   một số  điểm nổi bật về  sự  chuyển biến tích cực trong nhận thức về  quyền và   nghĩa vụ, về các biện pháp giải quyết vấn đề dân chủ cho nông dân ở làng xã trong   việc ban hành và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cuộc vận động Quy chế  dân chủ   ở  nông thôn và các loại hình cơ  sở  nói   chung đã được nhiều năm và cần có những sơ kết, tổng kết bước đầu ở một số địa   phương và cả  nước, cần đi sâu nghiên cứu, tác động vào tâm lý nông dân, tâm lý   cộng đồng làng xã để cuộc vận động có tính cách mạng này ở nông thôn đạt được   kết quả cao hơn và vững bền hơn. Tóm lại, xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ  ở cơ sở, đặc biệt là ở  cơ  sở nông thôn, là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, đáp ứng được  đòi hỏi bức xúc và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Ban hành, triển khai  thực hiện Quy chế  dân chủ   ở  cơ  sở  là hợp lòng dân, là một chủ  trương có tính   chiến lược nhất quán của Đảng và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua một thời gian triển khai xây dựng và thực hiện, Quy chế dân chủ ở cơ  sở đang thực sự làm thay đổi bộ mặt xã hội nông thôn, đang là động lực thúc đẩy  kinh tế ­ xã hội nông thôn phát triển, góp phần giải phóng mọi tiềm năng, khơi dậy  trí sáng tạo của nông dân, góp phần đấu tranh có hiệu quả các tệ nạn tiêu cực trong  bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Quy   chế còn những hạn chế  nhất định, chưa đạt yêu cầu đề  ra. Vì vậy, tiếp tục triển  khai thực hiện triệt để, sâu rộng Quy chế dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là ở nông thôn   theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là một  yêu cầu cấp bách trước mắt nhưng cũng có tính chiến lược, lâu dài, không chỉ làm  trong một đợt, một thời gian ngắn mà phải chú ý thường xuyên và kiên định.  16
  17. Chương 2 TÁC ĐỘNG CỦA TÂM LÝ LÀNG XàĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH THỰC  HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ NÔNG THÔN HIỆN NAY ­­­    ­­­ 17
  18. Tâm lý làng xã vốn đã ăn sâu vào nhận thức, tình cảm của người nông dân.  Sự tác động của tâm lý làng xã đến việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông  thôn hiện nay thể hiện ở hai mặt tích cực và tiêu cực. Sự tác động đó được thể  hiện ở những khía cạnh sau: 2.1  Tác động của tâm lý cộng đồng làng xã đến việc thực hiện Quy chế  dân chủ ở cơ sở nông thôn Tâm lý cộng đồng hình thành một cách phổ  biến và biểu hiện một cách tự  nhiên trong đời sống của làng xã. Đã là thành viên của một cộng đồng làng xã thì   không chỉ  có tình cảm với nhau, mà còn có nghĩa vụ  giúp người khác hay được   người khác giúp mình trong sản xuất, trong sinh hoạt kể  cả  trong đấu tranh với  địch họa, thiên tai để bảo vệ làng. Sự khước từ hoặc lảnh trốn khỏi cộng đồng tất  sẽ  bị dư luận của làng lên án, sẽ  bị  cô lập và sẽ  tự  tách ra khỏi cộng đồng. Đó là  sự trừng phạt về lương tâm. Trong cuộc sống còn khó khăn nhiều về  kinh tế, còn  phụ thuộc vào thiên nhiên, vào sự quản lý xã hội thì cá nhân chỉ  có thể  gắn bó và   dựa vào cộng đồng để  tự  khẳng định được mình. Họ  sợ  dư  luận, sợ  cô đơn, sợ  tách biệt, bị  day dứt lương tâm khi không hòa đồng vào tập thể, khi không được   giúp đỡ và không giúp đỡ người khác lúc khó khăn. Người nông dân ý thức rất rõ là   chỉ hành động trong cộng đồng, cá nhân mới có sức mạnh, mới có thể  giải quyết  được các công việc lớn của gia đình và làng xã. Một biểu hiện rất đặc trưng của tâm lý cộng đồng trong quan hệ tình cảm là  tình làng nghĩa xóm. Tình cảm cộng đồng đóng vai trò rất quan trọng trong sự ảnh   hưởng của tâm lý cộng đồng đến nhận thức và hành vi của người nông dân. Đó là  sự thể hiện tính cộng đồng của làng xã trong quan hệ tình cảm. Nó phản ánh tinh  thần đoàn kết, tương trợ  giúp đỡ  lẫn nhau của cộng đồng, cả  cộng đồng vì mỗi  người, mỗi người vì cả  cộng đồng. Tình cảm này thấm nhuần nghĩa vụ  đạo đức  giữa các thành viên trong cộng đồng với nhau. Tình cảm cộng đồng hình thành trong hoạt động chung của cộng đồng làng   xã – hoạt động lao động và sinh hoạt hàng ngày. Khu vực canh tác chung, nguồn   nước chung, nơi hội họp chung, nơi thờ phụng chung là cơ  sở  để  nảy sinh những  hiểu biết, đồng cảm, gắn bó, chia sẻ  và giúp đỡ  nhau. Trong tình cảm cộng đồng   18
  19. “cái tôi” và “cái chúng ta” được dung hợp với nhau. Tình cảm cộng đó càng được   tôi luyện, hun đúc và biến thành sức mạnh đoàn kết trong sự  nghiệp đấu tranh  chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, khi chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội  chủ  nghĩa, tình cảm cộng đồng cũng có mặt tiêu cực, nhiều khi trở  thành trở  lực  kìm hãm sự  phát triển kinh tế  và xã hội. Bỡi lẽ, nó níu kéo những cá nhân muốn  vươn lên, tách khỏi cộng đồng để  làm giàu chính đáng, để  bộc lộ  năng lực riêng   của mình. Cuộc điều tra tâm lý nhân dân của Viện tâm lí học tiến hành tại Hòa   Bình, Thái Bình, Thanh Hóa năm 1995 cho thấy, gần 30% nông dân được hỏi cho là   sự phân hóa giàu nghèo, hoạt động kinh doanh  ở  nông thôn hiện nay là không thể  chấp nhận được. Trong trong cuộc điều tra tâm lí nông dân tại 7 tỉnh đại diên cho   cả  nước do Viện tâm lý học tiến hành năm 1999 – 2000, có 39,7% nông dân cho   rằng việc phát triển trang trại  ở nông thôn dẫn đến phân hóa giàu nghèo, dẫn đến   quan hệ   ông chủ  và người làm thuê, dẫn tới bóc lột và mất danh dự  của con   người…    Ở đây có sự thống nhất của hai mặt đối lập. Trong cộng đồng làng xã, tính  tư  hữu, tiểu nông và cá nhân của người nông dân thể  hiện rất rõ nhưng trong các   hoạt động lao động sản xuất và công việc chung của làng xã, trong giao tiếp hằng   ngày, tính cộng đồng lại thể  hiện rất rõ nét.  Ở  đây, “cái tôi” và “cái chúng tôi”  dường như  rất khó phân biệt rạch ròi, rất dễ  hoán vị  và đổi chỗ  cho nhau. Nhân  cách của người nông dân dường như được tạo nên từ hai thành tố: “cái tôi” và “cái   hoạt động”. Hai yếu tố này không hề mâu thuẫn với nhau, mà trái lại, kết hợp rất   linh hoạt và hài hòa trong con người và cộng đồng của người nông dân . Với người nông dân Việt Nam, tâm lý cộng đồng vừa là sản phẩm, vừa là   phương tiện hành động, vừa là yếu tố  không thể  thiếu được trong đời sống của  họ. Hoạt động của cá nhân dù trong lao động sản xuất hay trong sinh hoạt đều  mang tính cộng đồng. Được hình thành, phát triển và tồn tại qua nhiều thế hệ, tâm  lý cộng đồng in đậm và thể hiện thường xuyên trong nhận thức và hành vi của mỗi   người nông dân và có sức sống mãnh liệt trong đời sống nông thôn. 19
  20. Từ khi chúng ta phát triển nền nông nghiệp nông thôn theo hướng kinh tế thị  trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn (tức là   thực hiện sự thay đổi cơ  bản trong hoạt động lao động sản xuất và tổ  chức cuộc  sống của người nông dân) thì tâm lý cộng đồng càng được mở  rộng và phát triển,   ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người nông dân hiện nay. Sự  tác động của tâm lý cộng đồng làng xã đến việc thực hiện Quy chế  dân chủ ở nông thôn hiện nay thể hiện ở hai mặt tích cực và tiêu cực. * Tác động tích cực Tâm lý cộng đồng có tác động tích cực vì nó tạo ra bầu không khí đoàn kết,   nhất trí trong bàn bạc, quyết định và giám sát các chủ  trương, kế hoạch liên quan  tới sự  phát triển kinh tế  ­ xã hội của địa phương. Tâm lý cộng đồng sẽ  là cơ  sở  quan trọng phối hợp hành động và thống nhất cao về  nhận thức để  đi đến quyết  định phù hợp với nguyện vọng của đa số  nhân dân trong quá trình nhân dân tham  gia giải quyết những vấn đề  lớn của địa phương. Khi có được những quyết định  hợp lòng dân thì các quyết định đó sẽ được người dân thực hiện tự nguyện, nhanh   chóng và có hiệu quả cao, trong làng xã sẽ có bầu không khí thoải mái, ấm cúng và   phấn khởi. Tinh thần đoàn kết, nhất trí của tâm lý cộng đồng là yếu tố quan trọng trong   cuộc đấu tranh chống tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác ở nông thôn hiện  nay. Đảng và Nhà nước ta đã xác định, tham nhũng hiện nay đã trở  thành “quốc  nạn” không chỉ   ở  các đô thị  mà  ở  cả  nông thôn. Trong cuộc điều tra cơ  bản toàn   quốc về tâm lý nông dân tại 7 tỉnh đại diện cho các vùng kinh tế trong cả nước của   Viện Tâm lý năm 1999 – 2000, có 60, 5% số nông dân được hỏi rằng tham nhũng là   vấn đề  tiêu cực bức xúc nhất, đứng đầu trong số  các hiện tượng tiêu cực ở  nông   thôn hiện nay. Tâm lý cộng đồng cũng có vai trò tích cực trong việc đấu tranh chống các tệ  nạn xã hội ở nông thôn. Trong những năm gần đây, tệ nạn xã hội có xu hướng tăng   không chỉ  ở đô thị  mà  ở  cả  nông thôn. Ở  nông thôn tệ  nạn cờ  bạc, số  đề, nghiện  rượu phát triển, các tệ  nạn ma túy mại dâm đã xuất hiện. Cuộc điều tra tâm lý   nông dân tại 7 tỉnh (Yên Bái, Nam Định, Nghệ  An, Bình Định, Lâm Đồng, Tây  20
nguon tai.lieu . vn