Xem mẫu

  1. 1 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Đề tài "Nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội"
  2. 2 MỤC LỤC MỤC LỤC ..................................................................................................................... 1 MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 3 1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 3 2. Tình hình nghiên cứu. ........................................................................... 4 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. ........................................................... 7 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. .................................... 7 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận. ......................................... 8 6. Kết cấu của tiểu luận............................................................................. 8 NỘI DUNG .................................................................................................................... 9 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI .................................................................................. 9 1.1 Quốc hội. ......................................................................................... 9 1.2 Quyền giám sát của Quốc hội. ........................................................11 1.3 Hiệu lực, hiệu quả giám sát của Quốc hội - khái niệm, mối quan hệ, các tiêu chí đánh giá và điều kiện đảm bảo. ..........................................14 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY. ......................................................................................... 22 2.1 Kết quả đạt được. ...........................................................................22 2.2 Những tồn tại, hạn chế cần khắc phục. ...........................................29 2.3. Nguyên nhân của hạn chế. .............................................................33 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC VÀ HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI. ........................................................... 39 3.1 Tính tất yếu khách quan của việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. .........................................................................39 3.2 Phương hướng nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. .......................................................................................................41 3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. .............................................................................................................43 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 50
  3. 3 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 51 MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Thực hiện nhiệm vụ đó không thể tách rời với việc nâng cao vị trí, vai trò của Quốc hội – cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để hoàn thành được mục tiêu đó thì yêu cầu đặt ra là phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, trong đó tính tối cao của Hiến pháp đựợc đảm bảo và có một cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả đối với hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, mà trước hết là hoạt động giám sát của Quốc hội. Trong những năm qua, cùng với công cuộc cải cách, đổi mới bộ máy nhà nước nói chung, Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội nói riêng cũng đã có nhiều bước đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới của đất nước. Chất lượng và hiệu quả của việc thực hiện các chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước ngày càng được nâng cao, bước đầu đáp ứng được nhu cầu đổi mới và sự tin tưởng và ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn, nhất là đòi hỏi của một Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của dân, do dân và vì dân, Quốc hội còn phải tiếp tục đổi mới cả về nhận thức, lý luận lẫn tổ chức thực hiện các chức năng của mình trong thực tiễn.
  4. 4 Duy trì định hướng đó, Nghị quyết Đại hội X Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra chủ truơng là cần phải “Nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, xác định rõ phạm vi, nội dung cơ chế giám sát của Quốc hội, các ủy ban của Quốc hội”. Đi sâu nghiên cứu việc thực hiện chức năng Hiến định “ giám sát toàn bộ hoạt động của Nhà nước, đặc biệt từ sau khi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội có hiệu lực (8- 2003) cho thấy: mặc dù Quốc hội nước ta đã có nhiều nỗ lực nhằm từng bước hoàn thiện cơ chế pháp lý, cải tiến quy trình, tăng cường điều kiện hỗ trợ để nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát, nhưng xét trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn, giám sát vẫn là khâu yếu nhất và hiệu lực và hiệu quả chưa cao trong tổng thể việc thực hiện các chức năng của Quốc hội, chưa xứng tầm với quyền giám sát tối cao mà Quốc hội được trao. So với yêu cầu đòi hỏi của cuộc sống, quy định của Hiến pháp, pháp luật và nguyện vọng của nhân dân thì giám sát tối cao của Quốc hội còn phải đổi mới một cách mạnh mẽ hơn nữa, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đang tiến hành mạnh mẽ ở nước ta. Tóm lại, mặc dù sự ra đời về Luật hoạt động giám sát của Quốc hội đã giải quyết được nhiều vấn đề liên quan đến chức năng giám sát tối cao của Quốc hội nhưng vẫn đang còn tồn tại nhiều vấn đề về những biện pháp nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. Trong điều kiện nói trên thì việc tổng kết thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc hội từ đó tìm ra nguyên nhân của những hạn chế và tồn tại để đưa ra những giải pháp là những điều rất cần thiết để nâng cao hơn nữa hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu.
  5. 5 Chức năng giám sát Quốc hội đã là đối tượng ngiên cứu từ nhiêu năm nay ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, hầu hết các tài liệu nghiên cứu về chức năng giám sát của Quốc hội mới chỉ đặt trong phạm vi nghiên cứu tổng thể về Quốc hội chứ chưa có nhiều công trình nghiên cứu riêng biệt về vấn đề này. Ở Việt Nam trong một thời gian dài chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu, quy mô về hoạt động giám sát của Quốc hội. Gần đây bắt đầu có một số công trình nghiên cứu về chức năng giám sát của Quốc hội với các luận án tiến sĩ như: “ Tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam” của NCS Phạm Trọng Kỳ, năm 1993; “ Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của NCS Trương Thị Hồng Hà, năm 2007. Ngoài ra còn một số sách chuyên khảo như: “Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội”, Ts Phạm Ngọc Kỳ. NXB Chính trị Quốc gia (1995) “Quyền giám sát của Quốc hội - nội dung và thực tiến từ góc nhìn tham chiếu”, TS. Nguyễn Sĩ Dũng chủ biên. NXB Tư pháp, Hà Nội, 2004; “Thường thức về hoạt động giám sát của Quốc hội”, Ts. Nguyễn Sĩ Dũng chủ biên, NXB Tư pháp, Hà Nội 2006; “Cơ quan lập pháp và hoạt động giám sát” Văn phòng Quốc hội, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2006. Mặc dù dưới các góc độ tiếp cận khác nhau nhưng các tác giả đều khẳng định vị trí pháp lý của Quốc hội trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước Việt Nam với tư cách là cơ quan đại diện cho cử tri cả nước, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Cùng với chức năng lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát là một chức năng quan trọng của Quốc
  6. 6 hội. Các tác giả cũng có cùng nhận định: so với chức năng được pháp luật quy định, trước các yêu cầu đổi mới và kiện toàn bộ máy nhà nước hiện nay thì giám sát vẫn là một khâu yếu, quyền lực và hiệu quả chưa cao, cần có những giải pháp đồng bộ để tăng cường năng lực và nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội. Có thể khái quát một số nhóm nội dung nghiên cứu cơ bản sau đây: Nhóm nghiên cứu chung về chức năng giám sát của Quốc hội: các tác giả tập trung phân tích vị trí , vai trò quyền giám sát trong cơ chế quyền lực Nhà nước, phân tích những vấn đề lý luận về quyền giám sát tối cao của Quốc hội Việt Nam. Ở nội dung này PGS.Ts Nguyễn Đăng Dung trong cuốn “ Sự hạn chế quyền lực Nhà nước” nhấn mạnh vai trò của Quốc hội trong việc kiểm soát các cơ quan hành pháp và coi đây như một chức năng căn bản của Quốc hội. Nhóm nghiên cứu về hiệu lực và hiệu quả giám sát: Vấn đề hiệu lực và hiệu quả giám sát đã được một số tác giả đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu hoặc bài viết liên quan đến tổ chức và hoạt động của Nhà nước nói chung hoặc về hoạt động giám sát của Quốc hội nói riêng. Tuy nhiên chưa có công trình chuyên sâu, riêng biệt về vấn đề này, chưa có công trình nào nghiên cứu về các tiêu chí đánh giá và điều kiện đảm bảo hiệu lực hiệu quả giám sát. Nhóm nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội cho rằng cần đổi mới toàn diện cơ chế giám sát hiện nay, phân định rõ phạm vi giám sát thuộc thẩm quyền của Quốc hội và phạm vi giám sát thuộc thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước khác, tăng cường các điều kiện đảm bào hoạt động giám sát sủa Quốc hội. Nhìn chung có thể thấy rằng đã có một số nghiên cứu khoa học liên quan khá chặt chẽ đến nội dung đề tài của tiểu luận đã đặt ra. Tuy nhiên, các
  7. 7 nghiên cứu này chưa đi sâu một cách tổng thể. Trên cơ sở tổng hợp và chắt lọc những kiến thức từ các tài liệu người viết đi sâu nghiên cứu và cụ thể hóa về vấn đề giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát của Quốc hội. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và thực tiễn , phân tích những cách tiếp cận khác nhau về quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong cơ chế quyền lực Nhà nước để đưa ra cách nhìn nhận tổng thế và hệ thống về quyền giám sát của Quốc hội trong tổ chức quyền lực Nhà nước để làm rõ thêm tầm quan trọng, vai trò của quyền giám sát của Quốc hội trong đời sống chính trị xã hội. Đồng thời cũng đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu lực hiệu quả giám sát của Quốc hội. Nhiệm vụ: Phân thích và làm sang tỏ những vấn đề lý luận về vai trò, nội dung quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong hệ thống tổ chức quyền lực Nhà nước trên cơ sở nghiên cứu các quan niệm về quyền giám sát và các hình thức giám sát của Quốc hội. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội; các tiêu chí đánh giá hiệu lực, hiệu quả giám sát, các điều kiện đảm bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội. Đánh giá thực trạng hiệu lực hiệu quả giám sát của Quốc hội trên cơ sở các tiêu chí đánh giá và phân tích những nguyên nhân, những hạn chế tồn tại. Nêu ra các giải pháp về nhận thức, pháp lý, tổ chức, phương thức, kĩ năng và điều kiện hỗ trợ nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
  8. 8 Tiểu luận nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của nghĩa Mác – Lê nin tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về bản chất Nhà nước và các định hướng xây dựng, hoàn thiện bộ máy Nhà nước. Trong quá trình nghiên cứu đề tài đã sử dụng các phương pháp khoa học : tổng hợp, phân tích, so sánh các tư liệu liên quan đến chức năng giám sát của Quốc hội Việt Nam. Các biện pháp khoa học đã được áp dụng trên nền tảng tư duy biện chứng nhằm đạt được mục đích và thể hiện được các nội dung đề tài. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận. Tiểu luận góp phần nâng cao nhận thức lý luận về quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong tổ chức quyền lực Nhà nước ở nước ta và vấn đề nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát tối cao của Quốc hội trong thực tiến. Tiểu luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu các vấn đề liên quan tới hoạt động giám sát của Quốc hội, cho các nhà hoạt động chính trị thực tiễn. 6. Kết cấu của tiểu luận. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung của tiểu luận gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam hiện nay. Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do trình độ hạn chế nên tiểu luận không tránh khỏi những sai sót, vì vậy rất mong nhận được những ý kiến nhận xét quý báu của thầy cô để tiểu luận được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
  9. 9 Sinh viên Trịnh Thị Hè NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI 1.1 Quốc hội. Giám sát tối cao việc thi hành Hiến pháp và pháp luật là một trong những quyền hạn quan trọng của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để nhận thức được bản chất, nội dung và nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát của Quốc hội thì trước tiên chúng ta cần biết đựợc Quốc hội là gì và có vai trò như thế nào trong hệ thống các cơ quan Nhà nước ở nước ta hiện nay. 1.1.1 Khái niệm. Theo từ điển Tiếng Việt thì quốc hội là quốc dân đại hội, là cơ quan lập pháp tối cao của một nước, do nhân dân bầu ra. Có ý kiến lại cho rằng Quốc hội là một chế định hiến pháp – pháp lý có lịch sử lâu đời và được coi như một nhánh quyền lực trong hệ thống tổ chức quyền lực Nhà nước. Và mới đây lại có ý kiến cho rằng Quốc hội là một thiết chế chính trị, xã hội, pháp lý. Sự ra đời và phát triển của Quốc hội gắn liền với sự phát triển của Nhà nước và Pháp luật. Tuy nhiên, để có một khái niệm chính xác nhất, xác định đúng vị trí pháp lý của Quốc hội trong bộ máy Nhà nước cần phải xuất phát từ những quy định của Hiến pháp. Điều 83 chương VI trong Hiến pháp năm 1992 ghi rõ: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
  10. 10 Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.” Như vậy có thể nói khái niệm mà Hiến pháp quy định là khái niệm rõ ràng và chính xác nhất, nó thể hiện rõ bản chất của Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây cũng chính là sự quán triệt tư tuởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về một Nhà nước kiểu mới, khác với các kiểu Nhà nước trước đây trong lịch sử. 1.1.2 Vai trò của Quốc hội. Vai trò của Quốc hội ở từng nước và từng thời điểm có khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và truyền thống của từng quốc gia hay từng giai đoạn lịch sử. vai trò của Quốc hội hôm nay thể hiện ở những điểm sau: Quốc hội là cơ quan có tính chất đại diện: Do được hình thành trên cơ sở bầu cử nên Quốc hội mang trọng trách đại diện cho quyền lựoi và lợi ích của toàn thể các giai tầng trong xã hội, đại diện cho lợi ích dân tộc. Quốc hội đảm bảo sự ổn định trong hệ thống chính trị: bởi vì Quốc hội là diễn đàn đặc quyền sinh hoạt chính trị, thảo luận các vấn đề của quốc gia và chính sách của Chính phủ; là cầu nối quan trọng giữa dân chúng và các cơ quan quyền lực hành pháp, là nơi thỏa hiệp của những quyền lợi, thế lực chính trị khác nhau; là nơi bảo vệ quyền lợi cho những ai có ít khả năng hơn để tác động lên đời sống chính trị. Quốc hội ở nhiều nước tượng trưng cho truyền thống chính trị, là chỉ số quan trọng của đời sống chính trị. Quốc hội là sự hợp thức hóa quyền lực Nhà nước của nhân dân.
  11. 11 1.2 Quyền giám sát của Quốc hội. Quốc hội được biết đến trong hệ thống tổ chức quyền lực Nhà nước là cơ quan có quyền lập pháp, nhưng xuất phát từ vai trò đại diện mà cùng với chức năng lập pháp thì chức năng giám sát với những quyền hạn về giám sát đã và đang trở thành một một chức năng đặc thù của Quốc hội. Hoạt động giám sát là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, mang tính tất yếu khách quan của tất cả các Nhà nước, ở mọi thời đại lịch sử. Quyền giám sát của Quốc hội Việt Nam là quyền giám sát tối cao bắt nguồn từ vị trí pháp lý tối cao của Quốc hội trong bộ máy Nhà nước. 1.2.1 Khái niệm. Giám sát tối cao là quyền của Quốc hội trong quá trình thực hiện hoạt động theo dõi, kiểm tra, đánh giá, kiến nghị về hoạt động tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với toàn bộ Nhà nước đồng thời đưa ra các biện pháp về trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm chính trị đối với đối tượng bị giám sát nhằm mục đích phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý các vi phạm có thể hoặc đã xảy ra. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội thể hiện ở những đặc trưng cơ bản. Đó là tính quyền lực nhà nước cao nhất và tính chất tối cao về chủ thể giám sát, phạm vi giám sát, hệ quả giám sát. Chủ thể quyền giám sát tối cao duy nhất chỉ có Quốc hội ( theo đúng nghĩa là toàn thể đại biểu Quốc hội tại kỳ họp quốc hội). Phạm vi giám sát tối cao theo cách hiểu là “giám sát toàn bộ hoạt động của Nhà nước” sẽ đặt Quốc hội trước rất nhiểu thách thức cả về khía cạnh lý luận và thực tiễn. Khi đã phân định cho nhiều cơ quan chức năng của Nhà nước làm công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm soát thì Quốc hội chỉ giữ cho mình quyền giám sát đối với các cơ quan Nhà nước cấp cao ở trung
  12. 12 ương, tức là các cơ quan do Quốc hội bầu ra hoặc phê chuẩn, mà trong đó giám sát hoạt động của Chính phủ là chủ yếu. Đối tượng của giám sát tối cao là một yếu tố quan trọng để phân biệt hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội với hoạt động giám sát của các cơ quan khác cũng được pháp luật quy định chức năng giám sát. Theo quy định của pháp luật, hoạt động giám sát của Quốc hội tác động lên các đối tượng là các cơ quan và các chức danh cấp cao của bộ máy Nhà nước, tập trung là cơ quan hành pháp và tư pháp. Về hệ quả giám sát tối cao: Quốc hội có quyền áp dụng những biện pháp chế tài cao nhất mang tính quyền lực Nhà nước để xử lý những vấn đề nảy sinh trong quá trình giám sát (như hủy bỏ các văn bản của các cơ quan Nhà nước trái Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội…) hoặc quy trách nhiệm đối với chức danh bị giám sát (ỏ phiếu tín nhiệm…). “Chế tài” giám sát chỉ mang tính khen chê, ca ngợi hoặc phê phán và quy trách nhiệm chính trị mà không có hậu quả pháp lý trực tiếp. 1.2.2 Vai trò giám sát của Quốc hội trong việc thực hiện quyền lực Nhà nước của Quốc hội. Thứ nhất, giám sát là yếu tố quan trọng hạn chế sự lạm quyền từ phía các cơ quan Nhà nước, bảo đảm cho pháp luật được thực thi, bảo đảm quyền và lợi ích của công dân. Mục tiêu của giám sát là để bảo đảm rằng hoạt động của các cơ quan Nhà nước tuân thủ những quy định pháp luật do Quốc hội đề ra và lợi ích của nhân dân được bảo đảm. Bất luận mọi quốc gia nào một khi hình thành Nhà nước đều phải chú trọng việc giữ gìn, duy trì và bảo vệ pháp chế tức là đòi hỏi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và mọi công dân phải thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật do Nhà nước ban hành. Giám sát của Quốc hội là một phương thức hữu hiệu nhất để cân bằng quyền lực và bảo đảm cho quyền lực Nhà nước được thực thi có hiệu quả. Để làm được điều
  13. 13 đó, các Nhà nước đều tìm cách thiết lập một cơ chế giám sát hữu hiệu nhất để ngăn chặn sự vi phạm pháp luật, đặc biệt là chống lại tính trách nhiệm của các đối tượng giám sát được đề cao. Chính bởi vậy, khi Quốc hội có khả năng áp đặt chế độ trách nhiệm cho các đối tượng chịu sự giám sát buộc họ phải tuân thủ thì điều đó chứng tỏ giám sát của Quốc hội có hiệu lực và Quốc hội có thực quyền. Thứ hai, giám sát phản ánh mức độ thực hiện chức năng đại diện Quốc hội. Quốc hội là cơ quan đại diện cho quyền và lợi ích của các tầng lớp nhân dân và càng ngày tính đại diện càng được mở rộng do cách thức bầu Quốc hội ngày càng dân chủ hơn. Việc xác định và thực hiện đúng đắn vai trò sẽ giúp cho Quốc hội có khả năng giám sát hiệu lực và hiệu quả, xác định đúng vấn đề cần giám sát và theo đuổi đến cùng việc thực hiện các kiến nghị giám sát. Mặt khác, việc thực hiện có hiệu lực và hiệu quả quyền giám sát được trao sẽ khẳng định vai trò đại diện cho lơi ích quốc gia và toàn dân của Quốc hội. Ngoài ra, với việc thực hiện quyền giám sát Quốc hội còn có vai trò như “cầu nối” giữa nhân dân với Chính phủ - cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất. Thông qua các hoạt động giám sát, đặc biệt là khi chất vấn, khi kết hợp được với công luận một cách hữu hiệu thì khả năng kiểm soát Chính phủ của Quốc hội sẽ tăng lên. Thứ ba, giám sát quan hệ chặt chẽ và tác động mạnh mẽ đến hoạt động lập pháp. Lập pháp và giám sát là hai chức năng cơ bản của Quốc hội và giữa chúng có mối quan hệ tương hỗ mật thiết. Hoạt động lập pháp tạo cơ sở pháp lý và cơ sở chính trị để Quốc hội tiến hành hoạt đông giám sát. Về phần mình, hoạt động giám sát của Quốc hội có mối quan hệ tuơng hỗ trực tiếp đến hoạt động lập pháp. Giám sát với mục đích là nhằm đảm bảo việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật nhưng đồng thời giám sát còn nhằm phát hiện ra những kẻ hở những quy định pháp luật chưa phù hợp với cuộc sống
  14. 14 để kịp thời sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện hoặc giúp Quốc hội có những quyết định đúng đắn, phù hợp với yêu cầu cuộc sống. Giám sát cũng còn là nguồn để nắm tình hình đất nước, thu thập ý kiến công chúng về các chính sách quan trọng của quốc gia để sửa đổi, hình thành các chính sách mới , tạo nên một nguồn quan trọng để hình thành nên những kến nghị lập pháp. 1.2.3 Mối quan hệ giữa giám sát của Quốc hội với thanh tra, kiểm tra, kiểm sát của các cơ quan Nhà nước. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội là một yếu tố của cơ chế đảm bảo và tăng cường pháp chế, giữ vững trật tự pháp luật, bao gồm một hệ thống các yếu tố có tác động qua lại với nhau. Qua việc phân tích những đặc thù mang tính pháp lý trong hoạt động giám sát của Quốc hội, kiểm tra giám sát của Chính phủ, kiểm sát của Viện kiểm sát và kiểm tra, giám sát của Tòa án ta thấy rằng: Hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát là một dạng lao động quyền lực với mục đích chung là đảm bảo không có vi phạm Hiến pháp và lạm dụng quyền lực từ phia Nhà nước. Sự khác nhau của các hoạt động kiểm tra giám sát giữa các cơ quan là ở cấp độ, đối tượng, phạm vi, nội dung, phương thức thực hiện và hậu quả pháp lý của nó. Hoạt động giám sát của các cơ quan Nhà nước chứa đựng trong đó tính hệ thống, tính đồng bộ và tính thống nhất. Do đó, không thể tách quyền giám sát của Quốc hội ra một cách độc lập, đơn lẻ, riêng biệt mà phải đặt nó trong hoạt động giám sát của Nhà nước nói chung để nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. 1.3 Hiệu lực, hiệu quả giám sát của Quốc hội - khái niệm, mối quan hệ, các tiêu chí đánh giá và điều kiện đảm bảo. 3.1.1 Khái niệm và mối quan hệ giữa hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. a. Hiệu lực
  15. 15 Theo các nhà biên soạn từ điển: “ Hiệu lực là khả năng đưa đến kết quả nhất định”. Theo từ điển Hán - Việt (Đào Duy Anh, 2001, NXb Khoa học xã hội. Hà Nội) thì hiệu lực là từ ghép của “ hiệu” với nghĩa là trao cho, giao phó và “lực” có nghĩa là sức mạnh. Như vậy, về mặt ngữ nghĩa có thể hiểu “hiệu lực” hàm chứa sức mạnh quyền uy để thực hiện một công việc có kết quả trên thực tiễn. Nói cách khác, “hiệu lực” có thể được hiểu là mức độ hiện thực hoá sức mạnh, khả năng tác động của chủ thể lên đối tượng chịu sự tác động được thể hiện trên kết quả trong thực tiễn. Điều kiện để đảm bảo một quyết định hay hoạt động quản lý đạt được hiệu lực và đạt được mục tiêu đề ra là chúng phải hợp pháp và hợp lý. Giám sát là một hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước nên hiệu lực giám sát vừa mang những đặc tính chung của hiệu lực quản lý nhà nước vừa có những đặc thù riêng thể hiện vai trò giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hiệu lực của hoạt động giám sát cũng bị chi phối bởi yếu tố hợp pháp và hợp lý. Những quy định pháp luật về vị trí, vai trò và thẩm quyền của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội đã tạo nên giá trị, sức mạnh pháp lý nhất định cho các hoạt động giám sát và bắt buộc các đối tượng chịu sự giám sát phải thực hiện. Khi các chủ thể giám sát thực hiện đúng thẩm quyền, hoạt động giám sát tuân thủ đúng các quy định pháp luật thì hiệu lực pháp lý của nó sẽ cao, sẽ khiến cho các đối tượng chịu sự giám sát phải tuân thủ. Chính vì vậy, hiệu lực giám sát cũng được đánh giá thông qua mức độ thực thi các nghị quyết, kiến nghị về giám sát của Quốc hội. b. Hiệu quả Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động giám sát thông qua mức độ tác động của hoạt động này vào các đối tượng giám sát. Hiệu quả giám sát của Quốc hội cao hay thấp phụ thuộc vào việc Quốc hội thực hiện chức năng
  16. 16 giám sát của mình theo quy định của pháp luật đến đâu cũng như những kết luận kiến nghị từ hoạt động giám sát có được các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm chỉnh hay không, việc xử lý các vi phạm theo các đề xuất, kiến nghị đó đến mức độ nào tức là mức độ hiệu lực của giám sát. Muốn đạt được hiệu quả giám sát thì trước hết, các chủ thể giám sát phải thực hiện đúng chức năng giám sát như luật định và đảm bảo cho các kiến nghị , đề xuất của mình được thực hiện nghiêm chỉnh. Chính vì vậy mà trong báo cáo công tác của Quốc hội nhiệm lỳ khoá IX (1992 – 1997) đã nhấn mạnh: “hiệu quả và hiệu lực giám sát của Quốc hội được đánh giá bằng tác động của các quyết định , kết luận và kiến nghị của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội thông qua các hoạt động giám sát.” 1.3.2 Mối quan hệ giữa hiệu lực và hiệu quả Khi nghiên cứu hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội cần phải xét mối quan hệ giữa chúng với nhau. Do hiệu lực là sự tác động của hoạt động giám sát vào các quan hệ xã hội, còn hiệu quả là kết quả đạt được do sự tác động nói trên, nên giữa hiệu lực và hiệu quả có mối quan hệ khăng khít mà trong đó hiệu lực là tiền đề, điều kiện của hiệu quả, còn hiệu quả là thước đo đánh giá hiệu lực. Có thể nói rằng, hiệu lực là cơ sở của hiệu quả, là một trong những yếu tố ảnh hưởng sâu sắc tới hiệu quả. Nhưng ở một khía cạnh khác, khi đánh giá hiệu lực thì hiệu quả lại trở thành cơ sở để đánh giá hiệu lực hay nói cách khác hiệu quả là minh chứng cụ thể cho mức độ hiệu lực của hoạt động mà chúng ta cấn đánh giá. Trong mối quan hệ giữa hiệu lực và hiệu quả giám sát thì hiệu lực giám sát đạt được khi có sự tự giác chấp hành nghiêm chỉnh của các đối tượng chịu sự giám sát đối với các kết luận, đề xuất đúng đắn rút ra từ hoạt động, kết quả giám sát cụ thể và hiệu quả giám sát lại là yếu tố quan trọng bảo đảm hiệu lực.
  17. 17 Như vậy “hiệu lực” và “hiệu quả” là hai khái niệm không thể tách rời. Một khi hiệu lực giám sát được đảm bảo thì đương nhiên hiệu quả của hoạt động giám sát sẽ tốt hơn và ngược lại khi hiệu quả giám sát tốt là minh chứng cho hiệu lực giám sát. Tuy nhiên để tính hiệu quả hoạt động giám sát của một chủ thể, bên cạnh đảm bảo về mặt hiệu lực, phải tính toán những đầu tư, chi phí (thời gian, vật chất, nguồn lao động…)cần phải ở mức tối ưu. 1.3.3 Các tiêu chí đánh giá hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội. Hiện nay việc xác định những tiêu chí đánh giá hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội vẫn chưa được nghiên cứu nhiều vì vậy đây là vấn đề mới mẻ và đang còn nhiều những ý kiến khác nhau. Dưới đây là những tiêu chí cơ bản nhất nhằm đánh giá hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội. a. Các tiêu chí đánh giá hiệu lực hoạt động giám sát của Quốc hội. - Mức độ thể hiện thẩm quyền của các chủ thể giám sát ( Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội). Một yếu tố quyết định tính hiệu lực và hiệu quả của hoạt động giám sát của Quốc hội là mỗi chủ thể giám sát phải thực hiện đúng và đầy đủ phạm vi thẩm quyền theo luật định. Hiệu lực giám sát của Quốc hội phụ thuộc rất nhiều vào khả năng thực thi một cách đầy đủ, trọn vẹn thẩm quyền giám sát trên thực tế của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Ở đây còn có sự đánh giá mức độ bảo vệ quyền và lợi ích của cử tri và thái độ đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội. Điều này thể hiện ở các khả năng của các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong việc phản ánh đúng đắn và chính xác các kiến nghị của cử tri cho các đối tượng chịu sự giám sát, thể hiện tâm tư, nguyện vọng của cử tri cũng như khả năng bảo vệ quyền và lợi
  18. 18 ích của họ trên diễn đàn Quốc hội. Để đạt được điều này quả là không đơn giản khi đại biểu Quốc hội chịu sự ràng buộc của nhiều cơ chế và quy định đan xen khi họ phải gánh trên vai nhiều gánh nặng của cơ cấu, của trách nhiệm. Ở khía cạnh này, giám sát của Quốc hội đạt hiệu lực khi Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội ý thức được đầy đủ vai trò đại diện của mình, có khả năng sử dụng đúng và tối đa thẩm quyền mà mình được trao, có khả năng sử dụng linh hoạt và hiệu quả những công cụ giám sát đặc thù của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất trong quá trính thực hiện giám sát. Đây chính là thước đo khả năng đại diện và mức độ thực hiện chức năng đại diện của Quốc hội và đại biểu Quốc hội đối với cử tri. - Khả năng của Quốc hội ban hành các kiến nghị xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Nói một cách khác thì đây là khả năng của Quốc hội trong việc áp đặt chế độ trách nhiệm chính trị đối với các cơ quan, chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Điều này dựa trên triết lý: Nếu chính sách do chính phủ đề ra mà sự minh bạch không được làm rõ thông qua giám sát của Quốc hội thì giám sát không thành công. Nếu chính sách do chính phủ đề ra không đạt được mục đích mà Quốc hội không có ý kiến hoặc không thể làm rõ trách nhiệm thì coi như Quốc hội chưa giám sát. Trên thực tế thì có thể xác định mức độ này thông qua khả năng tranh luận của Quốc hội trong quá trình chất vấn, xét báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát, khả năng đề xuất kiến nghị trong quá trình tiến hành các hình thức giám sát khác, mức độ thực hiện các nghị quyết về giám sát của Quốc hội, các kiến nghị của các đoàn giám sát và cuối cùng là khả năng của Quốc hội trong việc làm rõ trách nhiệm của các đối tượng bị giám sát. - Ý thức, thái độ của các đối tượng chịu sự giám sát trong việc chấp hành, thực hiện các kiến nghị giám sát.
  19. 19 Hiệu lực giám sát sẽ được xác định thông qua việc các đối tượng bị giám sát thực hiện các nghị quyết, kiến nghị ở mức độ nào, các quan hệ xã hội có liên quan được thay đổi ra sao sau khi được các đối tượng xử lý… Ở đây, cần dựa trên các kết quả cụ thể (hiệu quả) để nhìn nhận, đánh giá xác định hiệu lực từ khía cạnh sức mạnh tác động của các kiến nghị giám sát và mức độ tuân thủ của các đối tượng giám sát. Nếu sau khi các hoạt động giám sát của Quốc hội được triển khai, các kiến nghị giám sát được đưa ra, các đối tượng chịu sự giám sát tuân thủ một cách nghiêm chỉnh và các vấn đề được giám sát có chuyển biến theo nội dung những kiến nghị của Quốc hội, có tác động tích cực đến đời sống kinh tế - xã hội và tâm lý của nhân dân thì điều đó cho thấy, hoạt động giám sát của Quốc hội đã có hiệu lực. - Sự đánh giá của dư luận xã hội về kết quả hoạt động giám sát của các chủ thể giám sát về mức độ chấp hành của các đối tượng giám sát. Quốc hội là cơ quan đại diện nên ý kiến phản hồi của cử tri, của các tấng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội…về các hoạt động của Quốc hội, trong đó có hoạt động giám sát là hết sức quan trọng. Thông qua các con đường khác nhau: trực tiếp (qua các cuộc tiếp xúc cử tri, qua đơn thư..) hay gián tiếp (thông qua các phương tiện thông tin đại chúng) cử tri có thể nêu ý kiến đánh giá kết quả giám sát của Quốc hội trong việc chọn nội dung, chuyên đề giám sát, cách thức tổ chức và chất lượng các kết luận, kiến nghị giám sát, cũng như đánh giá về thái độ, ý thức của đối tượng chịu sự giám sát trong việc chấp hành các kiến nghị giám sát. Sự đánh giá của dư luận xã hội tích cực hay tiêu cực đối với hoạt động giám sát sẽ phản ánh được mức độ hiệu lực của hoạt động này. b. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội. - Mức độ đạt được mục đích, yêu cầu giám sát đặt ra.
  20. 20 Khi tiến hành bất cứ một hoạt động nào trong chương trình giám sát Quốc hội đều nhằm đạt một mục đích cụ thể. Mục đích của giám sát là điều mà các chủ thể khi tiến hành giám sát hướng tới và mong muốn đạt được. Hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta tập trung vào các mục đích cơ bản là đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội và cao hơn là để đảm bảo quyền và lợi ích cho các tầng lớp nhân dân. Việc so sánh, đối chiếu kết quả đạt được sau khi tiến hành giám sát với mục đích đặt ra trước khi tiến hành giám sát sẽ cho thấy hiệu quả trong quá trình thực hiện quyền giám sát của Quốc hội. Mức độ đạt được của mục đích đề ra đã trở thành tiêu chuẩn, thước đo cho việc đánh giá hiệu quả giám sát, là khuôn khổ cho việc đánh giá thực tế. - Kết quả cụ thể đạt được do tác động của hoạt động giám sát. Điều này được xác định thông qua sự thay đổi của các quan hệ xã hội trước và sau khi tiến hành giám sát. Để đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và hoạt động giám sát nói riêng, trước hết phải căn cứ vào mức độ thay đổi của các quan hệ trước và sau khi có hoạt động giám sát. Một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả giám sát của Quốc hội là phải căn cứ vào những kết quả tực tế đạt được dưới tác động của hoạt động giám sát. Do đó việc xác định được những kết quả cụ thể và có sự so sánh trước và sau khi giám sát sẽ là minh chứng cho hiệu quả hoạt động giám sát. - Số lượng hoạt động giám sát. Đây là tiêu chí mang tính định lượng thể hiện số lượng các báo cáo công tác, các chuyên đề đã trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp, số lượng các chất vấn và trả lời chất vấn, số lượng các đoàn giám sát, số lượng các nghị quyết giám sát chuyện đề, các kiến nghị giám sát. Đây là những con
nguon tai.lieu . vn