Xem mẫu
- 1
Luận văn
Dịch vụ thương mại và du lịch
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
- 2
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, đang nổi lên một yếu tố có tính quy luật của
sự phát triển kinh tế - xã hội là mức tăng trưởng của dịch vụ vượt trội hơn hẳn so
với sản xuất vật chất và vị trí của nó trong nền kinh tế ngày càng được nâng cao.
Xu hướng phát triển của các nước cho thấy, nền kinh tế càng phát triển
thì ngành dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Tính trung bình ở các
nước phát triển, ngành dịch vụ chiếm khoảng 65% GDP, còn đối với các nước
kém phát triển thì tỷ lệ này dao động trong khoảng từ 35-45%. ở Việt Nam,
trong thời kỳ thực hiện nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, hoạt động
dịch vụ chỉ bó hẹp trong khâu phân phối lưu thông và do nhà nước tổ chức
quản lý. Các loại dịch vụ khác hầu như không có hoặc bị cấm. Cùng với quá
trình chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, ngành dịch vụ đã từng bước hình thành và phát triển đa dạng với tốc độ
nhanh chóng, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Đặc biệt là các ngành dịch vụ mới như thông tin liên lạc, chuyển
giao công nghệ, nghiên cứu khai thác thị trường, tư vấn đầu tư và các loại
dịch vụ mang tính kinh doanh đặc thù như: thương mại, du lịch... đ ã nhanh
chóng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và đóng góp đáng kể
vào tăng trưởng kinh tế.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi biên giới, có cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu
quốc gia, có hệ thống đường sắt, đường bộ rất thuận lợi, nằm cạnh tam giác
kinh tế phát triển Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và nằm trong hành lang
kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - H ải Phòng - Quảng Ninh, là một
trong những cầu nối quan trọng giữa hai thị trường rộng lớn Trung Quốc với
ASEAN, do đó đ ã tạo cho Lạng Sơn nhiều tiềm năng và lợi thế về phát triển
- 3
dịch vụ thương m ại và du lịch; góp phần đ ưa kinh tế dịch vụ Lạng Sơn thực
sự có những chuyển biến sâu sắc trong những năm gần đây và trở thành một
trong những ngành kinh tế năng động của Tỉnh.
Xuất phát từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn về dịch vụ thương mại và
du lịch ; đánh giá thực trạng dịch vụ thương mại và du lịch ở Lạng Sơn hiện
nay; nhằm tìm ra phương hướng và giải pháp hữu hiệu nhất để phát triển dịch
vụ thương mại và du lịch, góp phần đưa kinh tế dịch vụ trở thành một trong
những ngành kinh tế năng động nhất của Tỉnh, vừa là vấn đề cấp bách, vừa là
vấn đề cơ bản lâu dài và có ý nghĩa lý luận thực tiễn thiết thực. Chính vì vậy,
tác giả chọn đề tài: “D ịch vụ thương mại và du lịch trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn” làm luận văn cao học.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến vấn đề dịch vụ thương m ại và du lịch ở nước ta đã có
những công trình khoa học và các nhà nghiên cứu quan tâm. Chẳng hạn như:
- Hồ Viết Chiến (2002), “Kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh
- V ũ Hồng Tiến (2003), “Kinh tế dịch vụ đối với quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay”, Luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận
chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Hồng Lâm (2005), “Kinh tế du lịch ở Thanh Hoá - Thực
trạng và giải pháp phát triển”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Văn Mầu (2004), “Thương mại, du lịch với những mục tiêu
giải pháp 2005” đăng trên Tạp chí Thương mại, số 47.
- 4
- Trần Hào Hùng (2004), “ Cam kết quốc tế của Việt Nam về mở cửa
thị trường dịch vụ: Những cơ hội và thách thức đối với việc đầu tư trực tiếp
nước ngoài”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 1.
- Hoàng Xuân Quế (2004), “ Bàn về hoạt động dịch vụ tài chính tại các
ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Kinh tế phát triển, số 11.
- Nguyễn Đăng Nam, “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của các dịch vụ
tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế”, Tạp chí tài chính, số 10.
- Chu Ngọc Sơn (9/2004), “D ịch vụ việc làm: Thực trạng và giải p háp
nâng cao hiệu quả”, Tạp chí Lý luận chính trị...
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên chỉ nghiên cứu một ngành
cụ thể trong kinh tế dịch vụ của các địa phương hoặc nghiên cứu kinh tế dịch vụ
ở những khía cạnh khác nhau. Riêng ở Lạng Sơn chưa có công trình khoa học
nào nghiên cứu về dịch vụ thương mại và du lịch để đề ra những giải pháp chủ
yếu nhằm phát triển dịch vụ thương mại và du lịch trên địa b àn tỉnh Lạng Sơn
dưới góc độ kinh tế chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề phát triển dịch
vụ thương mại và du lịch; từ thực trạng phát triển dịch vụ thương mại và du
lịch ở tỉnh Lạng Sơn thời gian qua. Luận văn có mục đích đưa ra phương
hướng và giải pháp cơ b ản nhằm thúc đẩy dịch vụ thương mại và du lịch ở
Lạng Sơn trong thời gian tới
3.2. Nhiệm vụ:
- Hệ thống, khái quát những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm thực
tiễn về dịch vụ thương mại và du lịch. Xác định tính tất yếu khách quan của
dịch vụ thương mại và du lịch trong phát triển kinh tế của tỉnh Lạng Sơn.
- 5
- Phân tích thực trạng dịch vụ thương mại và du lịch của tỉnh Lạng Sơn
trong những năm qua. Chỉ ra những thành tựu đ ã đạt được, những mặt hạn
chế thông qua việc phân tích thực trạng dịch vụ thương mại và du lịch của
tỉnh Lạng Sơn.
- Xác đ ịnh phương hướng và giải pháp cơ b ản nhằm phát triển dịch vụ
thương mại và du lịch trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
D ịch vụ thương mại và du lịch trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
V ề thời gian luận văn chỉ nghiên cứu dịch vụ thương mại và du lịch của
tỉnh Lạng Sơn từ năm 2000 - 2005.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối,
chính sách, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước; của
Đảng bộ và chính quyền tỉnh Lạng Sơn. Bên cạnh đó có sự chọn lọc tham khảo
các công trình nghiên cứu, các bài viết của nhiều tác giả có liên quan tới đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận nghiên cứu. Các phương
pháp nghiên cứu kinh tế chính trị được sử dụng trong luận văn gồm phương
pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp trừu tượng hoá, thống kê. Trong đó
tác giả chú ý phân tích thực tiễn đối chiếu với lý luận.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về dịch vụ thương mại và du lịch từ góc
độ kinh tế chính trị.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ thương mại và du
lịch ở tỉnh Lạng Sơn. Đề xuất phương hướng và giải pháp khả thi với điều
- 6
kiện kinh tế - xã hội của địa phương nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động dịch
vụ thương mại và du lịch trên địa bàn của tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
- 7
Chương 1
D ịch vụ thương mại và du lịch - Sự cần thiết
phát triển ở Lạng Sơn
1.1. Dịch vụ thương mại và du lịch trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. D ịch vụ
Thuật ngữ dịch vụ lúc đầu dùng để chỉ các hoạt động cung ứng hậu cần
trong quân đội, sau đó được đưa vào các lĩnh vực kinh tế. Ngày nay, dịch vụ
phát triển rất đa dạng, có mặt ở khắp mọi nơi trong đời sống kinh tế-xã hội.
Hiện nay có nhiều tranh luận về khái niệm dịch vụ. Cho tới nay đã có
khá nhiều khái niệm khác nhau về dịch vụ, song từng khái niệm đều có những
hạn chế riêng.
Trong Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Dịch vụ là những công việc phục vụ
trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, dịch vụ là "những hoạt động phục
vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt" [44, tr.671].
Do nhu cầu của con người rất đa dạng tuỳ theo sự phân công lao động nên
có rất nhiều loại dịch vụ: dịch vụ phục vụ sản xuất, kinh doanh; dịch vụ phục vụ
sinh hoạt công cộng; dịch vụ cá nhân dưới hình thức những dịch vụ gia đình.
Như vậy, lâu nay người ta thường quan niệm dịch vụ là ho ạt động của
những ngành phục vụ. Nhưng phục vụ là “làm phần việc của mình, vì lợi ích
chung,... làm những việc giúp ích trực tiếp cho sinh hoạt vật chất hoặc văn
hoá của người khác”. Cách hiểu này là chưa đầy đủ, chưa mô tả được các đặc
trưng của dịch vụ.
Trong kinh tế học hiện đại, dịch vụ được quan niệm rộng rãi hơn nhiều.
D ịch vụ bao gồm toàn bộ các ngành, các lĩnh vực có tạo ra tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) hay tổng sản phẩm quốc dân (GNP), trừ các ngành sản xuất
- 8
các sản phẩm vật chất như công nghiệp (bao gồm cả lâm, ngư nghiệp). Những
ngành như vận tải bao gồm hàng không, xe lửa, ôtô...; thông tin bưu điện; lưu
thông hàng hoá tư liệu sản xuất hoặc vật phẩm tiêu dùng; các lĩnh vực hoạt
động như ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm, du lịch... đều thuộc lĩnh vực dịch vụ.
Theo Các Mác d ịch vụ chỉ cái giá trị sử dụng đặc thù do lao động đem
lại giống như mọi hàng hoá khác nhưng ở đây cái giá trị sử dụng đặc thù của
lao động này được gọi bằng một cái tên đặc biệt là dịch vụ, bởi vì lao động đó
cung cấp những sự phục vụ không phải với tư cách là một đồ vật m à với tư
cách là một sự hoạt động, nhưng điều đó cũng hoàn toàn chẳng phân biệt nó
với một cái máy nào đó, như chiếc đồng hồ chẳng hạn [20, tr.577].
Những người làm dịch vụ cũng cần nhận được bánh mỳ và các tư liệu
sinh hoạt khác, họ cũng phải trả bằng tiền thu được nhờ làm dịch vụ, và ở đây
cũng như mọi sự trao đổi hàng hoá lấy hàng hoá, vật ngang giá được trao đổi
lấy vật ngang giá, do đó cũng một giá trị nhưng có mặt hai lần: một lần ở giá
người mua, một lần ở giá người bán. Người công nhân chi tiền mua những
dịch vụ hoàn toàn không khác gì chi tiền mua bất cứ loại hàng hoá nào khác.
"Chẳng hạn, mua dịch vụ của bác sĩ hay cố đạo cũng hoàn toàn giống như
mua bánh mỳ hay rượu trắng cho mình vậy" [20, tr.578] vì trong những chi
phí để tái sản xuất sức lao động bao gồm cả những chi phí mua dịch vụ.
D ịch vụ cũng có giá trị sử dụng, nghĩa là cũng đáp ứng một nhu cầu
nào đó của người mua và do những chi phí sản xuất của chúng, chúng cũng có
giá trị trao đổi nữa. Vì thế tổng số sản phẩm tiêu dùng bao giờ cũng lớn hơn
số lượng sản phẩm khi không có dịch vụ và tổng giá trị cũng lớn hơn vì nó
ngang với giá trị của những hàng hoá dùng để nuôi dưỡng những dịch vụ ấy
và giá trị của bản thân những dịch vụ ấy [20, tr.215].
Từ những điều nói trên có thể hiểu khái niệm dịch vụ một cách chung
nhất là: D ịch vụ là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các
- 9
sản phẩm hàng hoá không tồn tại dưới hình thái vật thể nhằm thoả mãn kịp
thời, thuận lợi, hiệu quả hơn các nhu cầu trong sản xuất và đời sống của con
người.
* Đặc điểm của dịch vụ:
- D ịch vụ là một sản phẩm vô hình: sản phẩm dịch vụ không mang hình
thái vật thể độc lập, cụ thể, ngay cả trong trường hợp nó có tính sản xuất vật
chất. Thông thường, một sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra tồn tại hữu
hình. Người sử dụng nó có thể nhìn thấy, cảm nhận được sản phẩm bằng các
giác quan, thể hiện qua hình dáng, mầu sắc, nhãn hiệu... Nhưng đối với sản
phẩm dịch vụ thì người sử dụng không thể sờ thấy, nhìn thấy, cảm nhận đ ược
sản phẩm bằng các giác quan, thử mùi vị, nghe thấy âm thanh của chúng
trước khi sử dụng. Các Mác đã chỉ rõ:
Trong những trường hợp mà tiền được trực tiếp trao đổi lấy
một lao động không sản xuất ra tư b ản, tức là trao đổi lấy một lao
động không sản xuất, thì lao động đó được mua với tư cách là một
sự phục vụ... lao động đó cung cấp những sự phục vụ không phải
với tư cách là một đồ vật, m à với tư cách là một sự hoạt động [21,
tr.576].
Tuy nhiên tính không hiện hữu này có mức độ biểu lộ khác nhau đối với
từng loại dịch vụ, nó có quan hệ tới chất lượng dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ của
khách hàng. Chẳng hạn như đào tạo, trông trẻ, du lịch hoặc nghỉ ngơi trong
khách sạn. Tính không hiện hữu của dịch vụ được biểu lộ qua yếu tố vật chất nào
đó và đó chính là những phương tiện chuyển giao dịch vụ cho khách hàng.
Chính vì đặc điểm này nên trong thực tế việc tiếp cận các loại dịch vụ
thường được thực hiện thông qua những thông tin về uy tín, chất lượng dịch
vụ mặt khác uy tín và chất lượng dịch vụ chỉ đ ược khẳng định khi dịch vụ đã
- 10
được thực hiện. Đây là điểm khác biệt quan trọng giữa kinh doanh dịch vụ với
kinh doanh sản xuất hàng hoá thông thường.
- Việc sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời, nghĩa là sản phẩm
dịch vụ không thể tách rời khỏi nguồn gốc của nó, cho dù đó là con người hay
máy móc tạo ra dịch vụ. Quá trình đưa dịch vụ tới người sử dụng luôn là quá trình
vận động song song giữa sản phẩm dịch vụ và người tạo ra dịch vụ.
Sự phục vụ mà người ca sỹ đem lại cho tôi thoả mãn nhu cầu
về thẩm mỹ của tôi, nhưng cái mà tôi thưởng thức chỉ tồn tại dưới
hình thái hoạt động không tách rời khỏi bản thân người ca sỹ và khi
lao động của người ca sỹ tức là tiếng hát của anh ta chấm dứt thì sự
khoái lạc mà tôi cảm nhận cũng chấm dứt [21, tr.507].
Hay là vận tải hàng hoá không để lại dấu vết nào của lao động đã chi
phí vào việc chuyên chở. Nhưng ở đây đối tượng lao động trải qua một sự
thay đổi vật chất nhất định, theo nghĩa là sự thay đổi về không gian, thay đổi
chỗ. Sự thay đổi này là dịch vụ. Khi hàng hoá đến nơi quy định thì sự thay đổi
mà giá trị sử dụng của nó đã trải qua liền biến mất, chỉ còn biểu hiện ở trong
cái giá trị hàng hoá đ ã tăng lên mà thôi.
Cũng có một số dịch vụ nhất định mà kết quả của chúng có thể tồn tại
như một giá trị sử dụng có hình thái độc lập tách khỏi người sản xuất và
người tiêu dùng do đó có thể duy trì sự tồn tại của mình trong khoảng thời
gian đó với tư cách là những hàng hoá có thể bán được, như những tác phẩm
nghệ thuật (như tượng, tranh...) tồn tại tách rời hoạt động nghệ thuật của
người nghệ sỹ đã sáng tạo ra chúng. Nhưng thực ra cái mà tác phẩm đó có thể
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ở đây không phải là bản thân yếu tố vật chất của sản
phẩm tồn tại độc lập mà là cái “hồn” của tác phẩm ấy. Bởi vậy, những dịch vụ
này vẫn là hàng hoá vô hình, thể hiện cái đẹp, cái hay mà người tiêu dùng cảm
thụ được.
- 11
- Tính không mất đi: trong nhiều trường hợp, hoạt động dịch vụ sau khi đã
được thực hiện thì các yếu tố cấu thành dịch vụ không mất đi mà vẫn còn nguyên
vẹn. Nghĩa là quá trình tạo ra dịch vụ được lặp đi lặp lại nhiều lần như một bản
nhạc, một lượng thông tin tư vấn pháp luật... Những yếu tố cấu thành trên không
phải là sản phẩm dự trữ của dịch vụ. Nó chỉ là tiềm năng tạo nên dịch vụ.
- Tính không cất trữ được: Đặc điểm này của dịch vụ là một trong
những cơ sở để phân biệt hoạt động dịch vụ với hoạt động của các ngành sản
xuất vật chất. Với những sản phẩm vật chất có thể tích trữ được trong kho, ví
dụ: có thể sản xuất quần áo mùa hè ngay trong mùa đông và để chúng ở trong
kho chờ đến mùa hè sẽ bán. Nhưng dịch vụ thì thường sản xuất tới đâu tiêu
thụ tới đấy, không tiêu dùng sẽ bỏ phí, vì d ịch vụ không thể tích trữ, để dành
được. Ví dụ: khi xe chở khách, người lái xe tạo ra sự di chuyển đến đâu thì
hành khách sẽ hưởng thụ đến đấy. Nếu xe có 15 chỗ ngồi mà chỉ có 10 người
ngồi thì 5 chỗ còn lại sẽ bị bỏ phí, không thể để dành cho lần sau được.
Do dịch vụ không thể tích trữ nên thông thường người ta chủ yếu điều
tiết cầu khi điều tiết quan hệ cung cầu về dịch vụ
- Tính không ổn định và khó xác định chất lượng
Chất lượng dịch vụ không ổn định mà dao động trong một khoảng rất
rộng, nó tuỳ thuộc vào người cung ứng cũng như vào thời gian và địa điểm
cung ứng dịch vụ.
Ví d ụ: một buổi tư vấn tâm lý với những người bị AIDS thành công
không chỉ phụ thuộc vào trình độ tâm lý của người tư vấn mà còn phụ thuộc
sự hợp tác trung thực, cởi mở của người cần tư vấn... Chính đặc điểm này đã
giải thích nguyên nhân vì sao trong khi lựa chọn người cung ứng dịch vụ,
người mua dịch vụ thường hỏi ý kiến của những người mua trước.
S ự khác nhau giữa sản phẩm vật chất và dịch vụ:
Sản phẩm vật chất Sản phẩm dịch vụ
- Mang tính hữu hình - Mang tính vô hình
- Được trưng bày trước khi mua, bán - Thông thường không được trưng bày
hoặc bán
- 12
- Quyền sở hữu được chuyển giao khi - Không có sự thay đổi về quyền sở hữu
mua bán
- Có thể được cất giữ hay lưu kho - Không thể cất giữ hay lưu kho
- Có thể bán tiếp theo - Không bán được tiếp theo
- Sản xuất và tiêu dùng thường diễn ra ở
- Sản xuất và tiêu dùng thường trùng
thời gian và địa điểm khác nhau. nhau về thời gian và không gian
- Có thể vận chuyển được - Không thể vận chuyển được ngay cả
khi người sản xuất mong muốn
- Có thể xuất khẩu được - Không thể xuất khẩu được
- Khách hàng là bộ phận chỉ trong quá - Khách hàng là một bộ phận trong cả
quá trình sản xuất và tiêu dùng
trình tiêu dùng
- Có thể quan hệ gián tiếp với khách - Trong đại đa số các trường hợp phải
quan hệ trực tiếp với khách hàng
hàng
* Phân loại dịch vụ:
Có nhiều cách phân loại dịch vụ. Dưới đây xin nêu cách phân loại dịch
vụ trong hệ thống phân loại sản phẩm chủ yếu của Tổng cục Thống kê, dựa
theo cách phân loại của Liên Hợp Quốc gồm 5 cấp loại: 10 loại sản phẩm cấp 1,
68 loại sản phẩm cấp 2, 294 loại sản phẩm cấp 3, 1047 loại sản phẩm cấp 4 và
1813 loại sản phẩm cấp 5 [17, tr.9].
Trong hệ thống phân loại sản phẩm chủ yếu, dịch vụ bao gồm: 1. Dịch
vụ thương mại, dịch vụ khách sạn và nhà hàng; 2. D ịch vụ vận tải kho bãi và
thông tin liên lạc; 3. Dịch vụ phục vụ nông nghiệp, khai thác mỏ và công
nghiệp chế biến; 4. Các dịch vụ cá nhân, xã hội công cộng.
- D ịch vụ thương mại, khách sạn, nhà hàng, bao gồm dịch vụ bán buôn,
bán lẻ, đại lý, bảo dưỡng, sửa chữa, khách sạn, nhà hàng, du lịch.
- Dịch vụ vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc gồm vận tải đường bộ, đường
thuỷ, đường sắt, đường hàng không, dịch vụ hỗ trợ vận tải, bưu chính viễn thông.
- Các loại dịch vụ phục vụ nông nghiệp, khai thác mỏ, công nghiệp chế
biến gồm các dịch vụ trung gian tài chính và hỗ trợ cho trung gian tài chính,
kinh doanh bất động sản, cho thuê, thuê mua không kèm người điều khiển,
- 13
máy tính điện tử và các dịch vụ liên quan (lắp đặt phần cứng, cài đ ặt phần
mềm, lập trình...) dịch vụ nghiên cứu và triển khai, dịch vụ pháp lý, kế toán,
kiểm toán, lưu giữ chứng từ sổ sách, thuế, nghiên cứu thị trường, các dịch vụ
kỹ thuật và các dịch vụ khác như quảng cáo, cung cấp bảo mẫu, nhân sự, bảo
vệ, dịch vụ phục vụ nông lâm nghiệp (phục vụ trồng trọt, chăn nuôi, săn bắt)
phục vụ khai thác mỏ và công nghiệp chế biến, nhãn hiệu, bản quyền.
- Dịch vụ cá nhân, xã hội và công cộng bao gồm quản lý hành chính
công, d ịch vụ công, dịch vụ bảo đảm xã hội bắt buộc, giáo dục, sức khoẻ và
xã hội, vệ sinh môi trường, giải trí, văn hoá, thể thao, thẩm mỹ, dịch vụ cho
các tổ chức và đại diện có đặc quyền ngoại giao.
1.1.2. D ịch vụ thương mại
D ịch vụ thương mại là khái niệm chưa có sự thống nhất, chưa có sự
chuẩn hoá. Hiện nay, các tài liệu phân tích khái niệm và nội hàm d ịch vụ
thương mại một cách hệ thống còn quá ít. Tuy nhiên, trong thực tế dịch vụ
thương mại là khái niệm được áp dụng ở các nước mà hoạt động thương mại
dịch vụ chưa phát triển, các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam tại
Điều 5, Khoản 2, Luật Thương mại (năm 1997). Chính vì vậy, dịch vụ thương
mại được hiểu là các loại hình dịch vụ gắn liền và phục vụ cho việc mua bán
hàng hoá - sản phẩm hữu hình.
Từ điển Bách khoa Việt Nam không đưa ra định nghĩa về dịch vụ thương
mại mà chỉ đưa ra định nghĩa về "dịch vụ kinh tế đối ngoại". Theo đó, dịch vụ
kinh tế đối ngoại được hiểu là "những hoạt động thúc đẩy, hỗ trợ các hoạt động
ngoại thương, hợp tác sản xuất, hợp tác khoa học kỹ thuật với nước ngoài, đầu
tư, tín dụng quốc tế và hoạt động hỗ trợ phục vụ khách hàng trong các lĩnh vực
nói trên" [44, tr.671]. Khía cạnh thương mại, mua bán dịch vụ nhằm thu lợi
nhuận không đề cập đến trong nhiều tài liệu hướng dẫn và tài liệu khoa học.
Đ ến năm 1997, khái niệm dịch vụ thương mại mới được quy định trong
Luật Thương m ại Việt Nam năm 1997 - Đ ạo luật Thương m ại đầu tiên của
- 14
Việt Nam. Luật Thương mại Việt Nam, năm 1997, nêu định nghĩa về dịch vụ
thương mại, theo đó "dịch vụ thương mại gồm những dịch vụ gắn với việc
mua bán hàng hoá" (Điều 5, Khoản 4). Định nghĩa này được cụ thể hoá tại
Điều 45 của Luật - cách liệt kê 13 loại hình dịch vụ được coi là dịch vụ
thương mại đó là: 1. Đại diện cho thương nhân; 2. Môi giới thương mại; 3. Uỷ
thác mua bán hàng hoá; 4. Đ ại lý mua bán hàng hoá; 5. Gia công trong
thương mại; 6. Đấu giá hàng hoá; 7. Đ ấu thầu hàng hoá; 8. D ịch vụ giao nhận
hàng hoá; 9. Dịch vụ giám định hàng hoá; 10. Khuyến mại; 11. Quảng cáo
thương mại; 12. Trưng bày giới thiệu hàng hoá; 13. Hội chợ, triển lãm thương
mại.
Có thể nói, theo cách hiểu của Luật Thương m ại năm 1997, dịch vụ
thương mại được hiểu là d ịch vụ gắn liền với việc mua bán hàng hoá của
thương nhân, gắn liền với hành vi thương mại của thương nhân. Nói một cách
khái quát, dịch vụ thương mại thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại
năm 1997 gồm 13 hành vi cung ứng dịch vụ đ ược trình bày qua sơ đồ sau
Sơ đồ dịch vụ thương mại theo cách hiểu của
Luật Thương mại Việt Nam năm 1997
Đại diện cho thương nhân (Điều 83 - Điều
92)
Môi giới thương mại (Điều 93 - Điều 98)
Uỷ thác mua bán hàng hoá (Điều 99 - Điều
110)
Đại lý mua bán hàng hoá (Điều 111 - Điều
127)
Gia công trong thương mại (Điều 128 -
Dịch
Điều 138)
vụ
Đấu giá hàng hoá (Điều 139 - Điều 140)
thương
mại
Đấu thầu hàng hoá (Điều 141 - Điều 162)
theo
cách
Dịch vụ giao nhận hàng hoá (Điều 163 -
hiểu Điều 171)
- 15
Theo khái niệm về dịch vụ thương mại của Việt Nam năm 1997 thì khi
đánh giá thực trạng dịch vụ thương mại trong thời gian qua cần phải có số liệu
cụ thể để đánh giá thực trạng cung ứng 13 dịch vụ thương mại nói trên. Tuy
nhiên, đây là điều rất khó thực hiện vì số liệu thống kê hẳn như không đi theo
cách quy định, cách hiểu của Luật Thương mại năm 1997. Như vậy, có thể
nói nội hàm khái niệm dịch vụ thương mại ở Việt Nam là hẹp hơn so với các
nước khác. Do vậy, ở Luật thương mại năm 1997, cách hiểu về dịch vụ
thương mại còn tồn tại một số điểm bất cập so với trong luật pháp của các
nước phát triển, cụ thể là trong WTO/ GATS.
Theo tác giả, xuất phát từ thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế và quá
trình đ àm phán gia nhập WTO của Việt Nam thì tác giả cho rằng cần phải
hiểu khái niệm dịch vụ thương m ại theo nghĩa rộng, nó bao gồm không chỉ
những dịch vụ gắn liền với hoạt động mua bán hàng hoá và hành vi thương
mại của thương nhân, mà còn bao trùm cả các hoạt động dịch vụ có tính
thương mại như: cung ứng dịch vụ đầu tư, bảo hiểm, ngân hàng, thông tin
viễn thông, môi giới tư vấn, các vấn đề thương m ại liên quan đến quyền sở
hữu trí tuệ...
Đặc điểm của dịch vụ thương mại
- Tính chất chuyên môn hoá cao.
- Yêu cầu chặt chẽ về tiêu chuẩn kỹ thuật, về chất lượng.
- Là loại hình dịch vụ đòi hỏi những người cung cấp phải có trình độ
chuyên môn khá cao, nhất là phải nắm vững những kiến thức và nghiệp vụ về
thương mại.
1.1.3. D ịch vụ du lịch
Du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ. Sản phẩm của ngành du lịch chủ
yếu là dịch vụ, không tồn tại dưới dạng vật thể, không lưu kho, lưu bãi, không
chuyển quyền sở hữu khi sử dụng. Do vậy, nó cũng mang những đặc tính
chung của dịch vụ.
- 16
Tại điều 4,chương 1, Luật du lịch Việt Nam khái niệm dịch vụ du lịch
được hiểu như sau: “Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành,
vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi, giải trí, thông tin, hướng dẫn và những
dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch” [25, tr.2].
Trên cơ sở những khái niệm chung về dịch vụ, có thể hiểu dịch vụ du
lịch là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa những tổ chức cung
ứng du lịch, khách du lịch và thông qua các hoạt động tương tác đó để đáp
ứng nhu cầu của khách du lịch, đồng thời mang lại lợi ích cho tổ chức cung
ứng dịch vụ.
* Đặc điểm của dịch vụ du lịch
- Tính phi vật chất:
Đây là đặc điểm quan trọng nhất của dịch vụ du lịch. Tính phi vật chất
đã làm cho du khách không thể nhìn thấy hay thử nghiệm sản phẩm từ trước.
Vì vậy, đối với du khách khi họ chưa tiêu dùng dịch vụ du lịch thì nó vẫn là
trừu tượng. Dịch vụ thường xuyên đồng hành với những sản phẩm vật chất
nhưng d ịch vụ mãi mãi tồn tại tính phi vật chất của mình. Chính vì vậy mà du
khách thực sự rất khó khi đánh giá dịch vụ. Điều đó đòi hỏi các nhà cung ứng
dịch vụ du lịch cần phải cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết và những
thông tin này phải nhấn mạnh lợi ích của dịch vụ đối với du khách khiến cho
họ thấy hài lòng và quyết định mua dịch vụ của mình.
Tính đồng thời của sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch:
Đây là một đặc điểm hết sức quan trọng thể hiện sự khác biệt giữa dịch
vụ và hàng hoá. Đối với hàng hoá (vật chất) quá trình sản xuất và tiêu dùng
dịch vụ diễn ra đồng thời, sản phẩm dịch vụ du lịch không thể lưu kho được.
Ví dụ: Thời gian nhàn rỗi của nhân viên du lịch vào lúc không có khách
không thể để dành cho lúc cao điểm, một phòng khách sạn không cho thuê
được trong ngày thì coi như mất dịch vụ, do đó mất một nguồn thu... Chính vì
- 17
đặc điểm này nên cung cầu về dịch vụ cũng không thể tách rời nhau và điều
hết sức quan trọng là tạo ra sự ăn khớp giữa cung và cầu trong du lịch là hết
sức quan trọng.
- Tính không chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ:
Khi người tiêu dùng mua những sản phẩm vật chất thì họ có quyền sở
hữu đối với sản phẩm đó. Nhưng đối với dịch vụ du lịch thì lại khác. Khi
khách hàng mua dịch vụ du lịch, điều đó có nghĩa là khách hàng chỉ đang mua
quyền hưởng thụ dịch vụ du lịch do nhà cung ứng dịch vụ mang lại chứ không
thể mua được quyền sở hữu dịch vụ đó của nhà cung ứng dịch vụ du lịch.
- Sự tham gia của khách du lịch trong quá trình tạo ra dịch vụ:
Đ ặc điểm này nói lên rằng khách du lịch ở một chừng mực nào đó đã
trở thành nội dung của quá trình sản xuất.
Do tính đồng thời của sản xuất và tiêu dùng dịch vụ nên ở đó có gặp
gỡ giữa hai chủ thể là người sản xuất và khách hàng. Sự gắn liền họ trong sự
tác động qua lại này trong dịch vụ được khẳng định sự phụ thuộc vào mức độ
lành nghề, khả năng cũng như ý nguyện của người tiêu dùng và người cung
cấp dịch vụ. Do khách du lịch có yêu cầu, sở thích, trình độ cũng như khả
năng cảm nhận và đánh giá rất đa dạng, nên đòi hỏi tính sáng tạo trong quá
trình sản xuất của các nhà cung ứng dịch vụ du lịch để thoả mãn tối đa nhu
cầu của du khách. Mức độ hài lòng của du khách phụ thuộc nhiều vào sự sẵn
sàng cũng như khả năng của nhân viên làm dịch vụ, khả năng thực hiện được
ý nguyện của khách hàng. Ngoài sự hưởng thụ những lợi ích do nhà cung ứng
mang lại, sự phản hồi của người tiêu dùng còn có tác động đến khả năng phục
vụ và mức độ hoàn thành của dịch vụ. Người tiêu dùng đồng thời trở thành
người sáng tạo trong quá trình sản xuất dịch vụ. ở đây, sự tham gia về trí tuệ
của khách hàng trong quá trình tạo ra dịch vụ được xác định là sự phối hợp
cùng sản xuất.
- 18
- Tính không th ể di chuyển của dịch vụ du lịch:
V ì các c ơ sở du lịch vừa là nơi sản xuất vừa là nơi cung ứng dịch
vụ nên d ịch vụ du lịch thuộc loại không di chuyển đ ược, nếu muốn tiêu
d ùng d ịch vụ th ì khách b ắt buộc phải đến các cơ sở du lịch. Để nâng cao
c hất lượng dịch vụ v à đem lại hiệu quả kinh doanh, ngo ài việc lựa chọn
đ ịa điểm du lịch thích hợp còn đ òi hỏi các cơ sở du lịch phải tiến h ành các
ho ạt động xúc tiến, quảng bá mạnh mẽ để kéo đ ược du khách đến với
đ iểm du lịch.
- Tính thời vụ của dịch vụ du lịch:
D ịch vụ du lịch có đặc trưng rất rõ nét ở tính thời vụ, ví dụ các khách
sạn ở các khu nghỉ mát thường vắng khách vào mùa đông nhưng lại rất đông
khách vào mùa hè. Chính đặc tính cầu cao của dịch vụ đã dẫn tới tình trạng dễ
mất cân đối về cung cầu dịch vụ, chất lượng dịch vụ có nguy cơ giảm sút khi
gặp cầu cao điểm vừa gây lãng phí cơ sở vật chất lúc trái vụ.
- Tính không đồng nhất của dịch vụ du lịch:
Khác với các hoạt động dịch vụ khoa học, dịch vụ sản xuất, dịch vụ đời
sống khác, dịch vụ du lịch chỉ thoả mãn nhu cầu cho khách du lịch trong suốt
thời gian đi du lịch như: nhu cầu nghỉ ngơi, vui chơi giải trí... Do khách hàng
rất muốn chăm sóc như là những con người riêng biệt nên dịch vụ du lịch rất
khó đưa ra các tiêu chuẩn dịch vụ nhằm làm tho ả mãn tất cả khách hàng trong
mọi hoàn cảnh vì sự thoả mãn đó phụ thuộc vào sự cảm nhận và trông đợi của
từng khách hàng.
- Tính không đồng đều về sản lượng:
Sản lượng của dịch vụ du lịch phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu đa dạng,
phong phú của du khách. Nhu cầu này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau như thời tiết, tình hình chính trị- x ã hội, an ninh quốc phòng, thiên tai,
dịch bệnh... Chính điều đó đã làm thay đổi số lượng du khách, từ đó kéo theo
- 19
sản lượng dịch vụ du lịch cũng thay đổi theo từng ngày trong tuần, từng tuần
trong tháng, từng tháng trong năm và giữa năm này so với năm khác.
Căn cứ vào khái niệm dịch vụ du lịch thì các yếu tố cơ bản tham gia
vào quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ chỉ gồm khách du lịch và người
cung ứng du lịch.
Chất lượng dịch vụ du lịch chính là mức phù hợp của dịch vụ của các
nhà cung ứng du lịch thoả mãn các yêu cầu của khách du lịch thuộc thị trường
mục tiêu.
Mô hình chất lượng dịch vụ
Thông Nhu cầu Kinh
cá nhân
tin nghiệm
bằng từ
Chỉ tiêu đánh Chất lượng
Dịch vụ
giá chất lượng dịch vụ được
trông
dịch vụ cảm nhận
đợi
1. Sự tin cậy 1. Chất lượng
2. Tinh thần dịch vụ vượt
trách nhiệm quá trông đợi.
Dịch vụ
3. Sự đảm bảo 2. Chất lượng
cảm nhận
4. Sự đồng cảm dịch vụ thoả
5. Tính hữu mãn.
hình 3. Chất lượng
1.2. Sự cần thiết phát triển dịch vụ thương mại và du lịch đối với nền kinh tế
nói chung và Lạng Sơn nói riêng
1.2.1. Vai trò của dịch vụ thương mại và du lịch đối với nền kinh tế
1.2.1.1. Vai trò của dịch vụ thương mại trong nền kinh tế
- 20
Các Mác cho rằng, dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hoá,
khi mà kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, đòi hỏi phải có một sự lưu thông trôi
chảy, thông suốt, liên tục để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người
thì d ịch vụ phát triển. Như vậy, bằng cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế, Các
Mác đã chỉ ra nguồn gốc ra đời và động lực phát triển của dịch vụ, mà ở đ ây
chính là các dịch vụ thương mại.
D ịch vụ thương mại có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, thể hiện ở
các điểm sau:
Một là, dịch vụ thương mại góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông phân
phối hàng hoá, thúc đẩy thương mại hàng hoá phát triển trong phạm vi quốc
gia cũng nh ư quốc tế:
D ịch vụ thương mại là cầu nối giữa sản xuất v à tiêu dùng, gắn sản
x u ất với thị trường, giữa thị trường trong n ước và th ị trường quốc tế. Việc
mua và bán những sản phẩm từ sản xuất, vừa l à điều kiện bắt buộc, vừa là
kết quả của sản xuất hàng hoá. D ịch vụ th ương m ại càng phát triển sẽ thúc
đ ẩy mở rộng sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất v à sử dụng có hiệu quả
nh ững tiềm năng và lợi thế của từng địa phương, từng quốc gia. Các Mác
q uan niệm rằng: Khi thị trường, nghĩa là lĩnh vực trao đổi mở rộng ra thì
q ui mô sản xuất cũng tăng lên, sự phân công trong sản xuất cũng trở nên
sâu sắc hơn.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, để hoạt động sản xuất nông
nghiệp phát triển thì rất cần những sản phẩm của công n ghiệp như máy móc,
thuốc trừ sâu... và ngược lại, công nghiệp muốn phát triển lại cần những
nguyên liệu, lương thực do nông nghiệp sản xuất ra. Dịch vụ thương mại có
chức năng vô cùng quan trọng là cầu nối thúc đẩy phát triển sản xuất đồng
thời phục vụ sả n xuất. Dịch vụ thương mại ở đây không chỉ là bán tư liệu,
nguyên liệu sản xuất mà còn làm nhiệm vụ môi giới để tiêu thụ sản phẩm
nguon tai.lieu . vn