Xem mẫu
- đề tài: “Cải cách kinh tế của
Nhật Bản và mối quan hệ kinh tế
Việt Nam – Nhật Bản”.
MỤC TIÊU VÀ PHƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Đề tài tập trung nghiên cứu, hệ thống những vấn đề về cải cách kinh tế của Nhật
Bản, hiệu quả của cuộc các cuộc cải cách đó và sự ảnh hởng của nó tới Việt Nam.
Đánh giá bớc đầu hiệu quả của các cuộc cải cách đó đối với việc thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội của Nhật Bản, Việt Nam và một số tồn tại.
Trên cơ sở đó để có những giải pháp và tìm ra những ảnh hởng của các cuộc cải
cách đó đối với nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng trong các lĩnh vực
kinh tế – xã hội.
II. PHƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đợc mục tiêu trên cần phải có phơng pháp, cách tiếp cận khoa học và
phù hợp. Cơ sở lý luận thực hiện đề tài chủ yếu dựa vào các lý thuyết liên quan đến lợi thế
so sánh, lý thuyết về phát triển thơng mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực
và quốc tế ngày nay.
III. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Lời nói đầu đề cập đến sự cần thiết, mục tiêu, nội dung, ý nghĩa, đề tài.
Chơng I, Đề tài tập trung nghiên cứu về Nhật Bản, quá trình cải cách của Nhật Bản và
tầm ảnh hởng của nó tới nền kinh tế Nhật Bản.
Chơng II, Đề tài tập trung phân tích, đánh giá các cuộc cải cách tài chính của Nhật
Bản và hiệu quả của nó.
Chơng III, Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản. Một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của các cuộc cải cách đó và triển vọng phát triển trong tơng lai.
- Kết luận, Trên cơ sở kết quả nghiên cứu phần kết luận khẳng định những kết quả đạt
đợc và một số kiến nghị nhằm nâng cao mối quan hệ kinh tế Nhật Bản - Việt Nam trong
tơng lai.
CHƠNG I: QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH KINH TẾ CỦA NHẬT BẢN
I. XU HỚNG CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI
Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu hớng quan trọng
trong hoạt động kinh tế quốc tế. Các nớc đang phát triển (trong đó có Việt Nam) cùng với
việc tranh thủ thu hút các nguồn vốn để phát triển cũng khuyến khích, đẩy mạnh việc quan
hệ hợp tác với các nớc phát triển trên thế giới nhằm học hỏi kinh nghiệm cũng nh mở rộng
thị trờng, tận dụng các nguồn tài nguyên, lao động, tăng nguồn thu lợi nhuận cũng nh tăng
cờng ảnh hởng với các nớc khác và. Chính vì những lẽ đó mà đã có rất nhiều quốc gia, tổ
chức quốc tế, các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học đã đa ra, tổng kết những kinh
nghiệm, những vấn đề lý luận, thực tiễn và dự báo về xu hớng phát triển của nền kinh tế
thế giới trong đó có Nhật Bản và Việt Nam.
II. NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN TỪ CUỐI NHỮNG NĂM 1980 ĐẾN NAY
Nhật Bản, một nớc nghèo tài nguyên, không thể đánh mất bất kỳ một cơ hội thơng
mại quốc tế nào nếu đó là cơ hội để phát triển kinh tế và duy trì một mức sống cao. Các
chính sách liên quan tới thơng mại và đầu t do vậy đã chiếm một vị trí nổi bật trong quá
trình phát triển kinh tế. Sau thời kỳ tăng trởng kinh tế cao, ở Nhật Bản đã nảy sinh hàng
loạt vấn đề đòi hỏi nhà nớc phải điều chỉnh chính sách và tiến hành cải cách trên nhiều
lĩnh vực: kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa…
Phạm vi của đề tài đợc xác định là những cải cách đợc tiến hành ở Nhật Bản từ cuối
những năm 80 của thế kỷ 20 đến nay. Những cải cách này đã, đang và sẽ đợc tiến hành với
nội dung và hình thức rất phong phú và đa dạng, cha biết đợc thời gian kết thúc.
- Những yếu tố (bên trong và bên ngoài) thúc đẩy Nhật Bản cải cách. Đó là sự đổ vỡ
của kinh tế bong bóng, đồng Yên lên giá, hệ thống ngân hàng tài chính lạc hậu, sự già hoá
dân số, bộ máy nhà nớc yếu kém, tình hình chính trị mất ổn định và tình hình quốc tế có
nhiều diễn biến phức tạp tác động mạnh tới kinh tế, xã hội Nhật Bản.
- Những nội dung cơ bản của cải cách kinh tế ở Nhật Bản, trong đó bao gồm các
chính sách và giải pháp tình thế lẫn các chơng trình cải cách kinh tế một cách toàn diện.
Đồng thời, đánh gia một số thành công cũng nh hạn chế của cải cách kinh tế ở Nhật Bản
và cuối cùng vạch ra những vấn đề cần đợc tiếp tục cải cách.
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng nợ đã làm cho nhiều nớc
đang phát triền lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Để thoát khỏi khủng hoảng, suy
- thoái các nớc đang phát triển đã phải cải cách kinh tế theo hớng chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trờng, mở cửa nền kinh tế, thực hiện chiến lợc CNH, hớng về xuất khẩu. Và Nhật
Bản cũng không là ngoại lệ, từ đầu thập niên 1990 đến nay, nền kinh tế Nhật Bản vẫn cha
thoát hẳn ra khỏi cơn suy thoái kéo dài, cho dù cũng đã có sự tăng trởng trở lại của nền
kinh tế với chỉ số dự đoán khoảng 2,4% năm 2003 (tạp chí “Times” số tháng 10/2003).
Sự phát triển không ổn định đi liền với khủng hoảng suy thoái kéo dài là đặc trng cơ
bản của nền kinh tế Nhật Bản trong khoảng hơn thập niên vừa qua. khởi đầu của sự phất
triển đó đợc đánh dấu bởi sự đổ vỡ của nền kinh tế bong bóng Nhật Bản vào đầu thập niên
1990. Tăng trởng kinh tế (GDP) của Nhật Bản trong những năm 1990 đã suy giảm liên tục
với động thái tăng trởng rất chậm chạp và thất thờng. Cụ thể nh sau:
- Từ 1990 đến 1996: với động thái tăng trởng kinh tế: 0,5%; 0,6%; 2,8%; và 3,2%.
- Từ 1997 đến 1999: tiến dần đến tình trạng trầm trọng của khủng hoảng. Khủng hoảng
kinh tế Nhật Bản đợc gắn liền với ảnh hởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính – tiền
tệ Đông á (1997 – 1998). Lần đầu tiên kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, kinh tế
Nhật Bản tăng trởng âm liên tục trong 2 năm liền(1997: - 0,7% và 1998: -1,1%).Năm
1999: kinh tế Nhật Bản phục hồi trở lại nhng tăng trởng còn mong manh: 0,7%.
- Năm 2000: kinh tế Nhật Bản tăng trởng khả quan: 2,4%.
- Năm 2001: suy giảm kinh tế trở lại với chỉ số tăng trởng: -0,4%.
- Năm 2002 đến nay: đang phục hồi yếu 1,6%.
Về đại thể, các chỉ số tăng trởng GDP hàng năm trên đây đã phản ánh khái quát nhất
về mặt định lợng của cuộc khủng hoảng kinh tế Nhật Bản kéo dài suốt thập niên 1990 đến
nay. Nếu so với cuộc khuủng hoảng kinh tế 1973 – 1975 của thế giới T Bản Chủ Nghĩa,
trong đó có Nhật Bản thì mức độ khủng hoảng lần này còn tồi tệ hơn nhiều (cuộc khủng
hoảng 1973 – 1975, năm 1973: tăng trởng GDP của Nhật Bản là 8%, đến năm 1974 tuy có
bị giảm đột ngột đến mức – 1,2%, song đến năm 1975, lại khôi phục trở lại ngay với tăng
trởng 3%, tiếp đó năm 1976 là 4%, từ đó bình quân hàng năm cho đến cuối thập niên 1980
đều đạt tăng trởng khoảng 5%).
Đó là biểu hiện tổng quát nhất của khủng hoảng kinh tế Nhật Bản qua động thái suy
giảm của tăng trởng GDP hàng năm.
III. CẢI CÁCH TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ CỦA NHẬT BẢN
Các chính sách và biện pháp cải cách kinh tế ở Nhật Bản kể từ đầu thập kỷ 1990 đến
nay có thể đợc chia thành hai cum chính sách và biện pháp chủ yếu, đó là các chính sách
và biện pháp mang tính chất tình thế, và các chơng trình cải cách kinh tế một cách cơ bản
và toàn diện.
1. Các chính sách và giải pháp tình thế
Trớc tình trạng suy thoái kinh tế nghiêm trọng và kéo dài, đồng yên bất ổn định, sự
yếu kém của hệ thống ngân hàng – tài chính, và các vấn đề kinh tế – xã hội khác, Chính
- phủ Nhật Bản đã thực hiện khá nhiều chính sách và giải pháp tạm thời để khôi phục và lấy
lại sức sống cho nền kinh tế. Các chính sách và biện pháp loại này thực ra đã đợc áp dụng
nhiều lần trong các thập kỷ trớc đây khi nền kinh tế Nhật Bản có biểu hiện suy thoái theo
chu kỳ. Nội dung chủ yếu của nó là bơm thêm tiền vào nền kinh tế bằng các chơng trình
kích thích kinh tế trọn gói, tăng đầu t vào các công trình công cộng, giảm thuế, giảm tỷ lệ
lãi suất chiết khấu chính thức,… nhằm kích thích nhu cầu trong nớc.
- Các chơng trình kích thích kinh tế trọn gói: Đây là một giải pháp truyền thống mà
Chính phủ Nhật Bản thờng sử dung để khác phục khủng hoảng chu kỳ. Đó là việc dựa vào
ngân sách bổ sung hoặc các chơng trình kích thích kinh tế trọn gói nhằm kích cầu trong
nớc thông quq việc mỏ rộng các công trình công cộng. Kể từ khi nền kinh tế “bong bóng”
sụp đổ, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện rất nhiều biện pháp cả gói với tổng chi phí lên
tới 107.000 tỷ Yên. Đây chính là những biện pháp can thiệp của Chính phủ mà theo lý
thuyết của Kêyn thì có thể tạo ra những đòn bẩy cho nền kinh tế.
- Cắt giảm thuế và xoá matt phần nợ cho các công ty kinh doanh bất động sản: Đây
cũng là một giải pháp quan trọng nhằm trợ giúp các công ty đang đứng trớc bờ vực thẳm
của sự phá sản sau sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng. Ví dụ, Nội các của thủ tớng
Obuchi đã thực hiện giảm thuế thu nhập 9.000 tỷ Yên (2%GDP). Mức thuế thu nhập cao
nhất của cả cấp quốc gia và cấp địa phơng đã đợc giảm từ 65% xuống còn 50%. Sự giảm
thuế này đợc hy vọng là sẽ thúc đẩy tiêu dùng cá nhân và kích thích tinh thần làm việc
chung. Việc giảm thuế để khuyến khích xây dựng nhà ở cũng đã đợc tiến hành một cách
rộng rãi. Hơn nữa, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định giảm tỷ lệ thuế kinh doanh kết hợp
cả quốc gia và địa phơng từ mức 46,36% xuống 40,87% tơng đơng với 2,4 tỷ tỷ Yên
(0,4% GDP). Thông qua các cuộc cải cách và giảm thuế này, Chính phủ hy vọng giảm
gánh nặng thuế xuống bằng mức trung bình của các nớc đã công nghi ệp hoá.
Cùng với quá trình này, việc lập quyết định về ngân sách quốc gia và cải cách thuế
đã đa vấn đề cơ cấu vào bàn nghị sự. Chính phủ đã tăng ngân sách về nghiên cứu cơ bản
và phát triển 8,1%, các thiết bị thông tin nh máy vi tính, máy photcoppy kỹ thuật số, và
máy điện thoạ kỹ thuật số sẽ đợc thanh lý ngay nếu chúng ít hơn 1 triệu Yên. Để khuyến
khích sử dụng các loại ô tô có hiệu quả và ít gây ô nhiễm môi trờng, thuế xe khách và các
loại xe tải tơng tự sẽ đợc giảm đi.
Nhằm khuyến khích việc quốc tế hoá đồng Yên, Chính phủ đã ban hành hệ thống bỏ
thầu mở đối với các trái phiếu ngắn hạn, đây là matt hình thức mi ễn thuế thu nhập đặc biệt
đối với các trái phiếu Chính phủ cho những ngời không phải c dân Nhật Bản. Chính phủ
cũng đã quyết định huỷ bỏ thuế giao dịch chứng khoán và ban hành một hệ thống thuế đã
đợc củng cố trong năm 2001.
- Giảm lãi suất chiết khấu chính thức: Trớc tình trạng sản xuất đình trệ, nhu cầu đầu t
trong nớc giảm sút, Chính phủ Nhật Bản đã liên tục giảm lãi suất cho vay chính thức của
ngân hàng nhằm kích thích đầu t. Đây cũng là một trong những hớng cơ bản của chính
sách kích cầu trong nớc. Trong suốt những năm 1990, lãi suất chính thức đã luôn đợc giảm
- đi trớc tình trạng kinh tế suy thoái. Ngân hàng trung ơng Nhật Bản đã duy trì một tỷ lệ lãi
suất thấp tới mức cha từng có trong lịch sử Nhật Bản (0,5%) trong suốt nhiều năm liên tục
và thậm chí hiện nay đã xuống tới mức sấp sỉ con số không nhằm phuch hồi và lấy lại sinh
khí cho nền kinh tế.
2. Các chơng trình cải cách kinh tế một cách cơ bản và toàn diện
Nguyên nhân sâu xa gây ra tình trạng trì trệ kéo dài của nền kinh tế Nhật Bản là sự
bất cập hay những hạn chế của mô hình kinh tế Nhật Bản trớc bối cảnh mới của tình hình
kinh tế quốc tế, sự lạc hậu của hệ thống ngân hàng tài chính mang nặng tính bao cấp, sự
cứng nhắc cũng nh thiếu minh bạch của bộ máy hành chính trong việc quản lí và điều hành
nền kinh tế… Chính vì vậy, để khắc phục một cách triệt để tình trạng kinh tế suy thoái đòi
hỏi phải tiến hành những cải cách toàn diện hệ thống kinh tế Nhật Bản. Tuy nhiên, không
phải vấn đề này đã đợc nhận thức và thực hiện ngay từ đầu thập kỷ1990 sau khi những
“bong bóng” kinh tế bất đông sản sụp đổ đẩy nền kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng suy
thoái nghiêm trọng và kéo dài. Mà phải đến 1996, sau khi hàng loạt các chơng trình kích
thích kinh tế trọn gói, nh đã đề cập đến ở trên, không đem lại hiệu quả, Chính phủ Nhật
Bản dới sự lãnh đạo của Thủ tớng Hashimoto mới ban hành một loạt các chơng trình cải
các liên quan đến nhiều mặt hoạt động của nền kinh tế xã hội Nhật Bản. Có 6 chơng trình
cải cách lớn đã đợc đa ra, trong đó có 3 chơng trình liên quan đến cải cách kinh tế. Đó là:
Điều chỉnh chính sách kinh tế; Cải cách cơ cấu kinh tế; và Cải cách hành chính. Sau đây là
một số nội dung cơ bản nhất của các chơng trình cải cách này.
Thứ nhất, để thực hiện cải cách cơ câu kinh tế, Chinh phủ Nhật Bản một mặt đã áp
dụng các giải pháp hỗ trợ đối với một số nghành công nghiệp đang bị sa sút nh luyện kim,
đóng tầu, hoá chất… nhằm ngăn chặn nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp đang hoạt
động trong các lĩnh vực này. Các giải pháp chủ yếu nh tài trợ qua ngân sách, kích thích đổi
mới trang thiết bị qua thực hiện khấu hao nhanh, áp dụng giải pháp miễn thuế và hỗ trợ
thất nghiệp… Mặt khác, Chính phủ đã thực thi các giải pháp để khuyến khích đầu t vào
các nghành công nghệ mới nh u đãi về thuế để khuyến khích các hoạt động đầu t nghiên
cứu triển khai (R&D), thực hiện trợ cấp cho các chơng trình và dự án quan trọng có qui
mô lớn, và các dự án trong các lĩnh vực mới có nhiều rủi ro. Chính phủ cũng thực hiện hỗ
trợ cho công tác nghiên cứu tại các trờng, các viện và kêu gọi vốn của khu vực t nhân tập
trung vào nghiên cứu cơ bản, sáng chế quy trình công nghệ mới.
Thứ hai, cùng với các biện pháp kích cầu của Chính phủ, các công ty Nhật Bản đã
thực hiện hàng loạt các giải pháp nh:
+ Cắt giảm chi phí sản xuất, trớc hết là chi phí lao động. Trong suốt những năm
1990, các công ty Nhật Bản đã hết sức hạn chế việc tuyển thêm công nhân mới, giảm công
nhân hợp đồng, khuyến khích những ngời cao tuổi về hu sớm, và ép các xí nghiệp vừa và
nhỏ làm thầu khoán phải giảm tối đa các chi phí sản xuất phụ tùng. Kết quả là thất nghiệp
gia tăng và các công nhân thờng xuyên còn đợc tuyển mộ phải làm thêm giờ song tiền
lơng lại không đợc tăng một cach tơng ứng. Chính vì thế trong suốt những năm 1990,
- những cơ hội tìm kiếm công ăn việc làm tại các công sở nhà nớc lẫn khu vực t nhân cho
những ngời dân ở Nhật Bản ở độ tuổi lao động, đặc biệt là những sinh viên mới và đang
chuẩn bị tốt nghiệp ra trờng, đã trở nên rất khó khăn. Đối với những ai lần đầu tiên đi tìm
kiếm công ăn việc làm thì quả thật là cơ hội rất mỏng manh. Bởi vì phần đông các công ty
Nhật Bản trong những năm này luôn ở trong tình trạng suy thoái, họ phải co nhỏ lại quy
mô họat động kinh doanh để tránh tổn thất và sa thải công nhân. Một số nhỏ các công nhân
đợc thuyên chuyển tới các xí nghiệp vừa và nhỏ với những công việc mang tính chất tạm
thời.
+ Tiến hành thu hẹp và giảm đầu t vào nhiều khâu sản xuất cần nhiều lao động,
không còn cạnh tranh đợc với hàng nhập khẩu, đồng thời chuyển chúng sang các nớc
Đông Á. Đó là các nghành sản xuất phụ tùng ô tô, lắp ráp đồ điện, điện tử, dệt… Hớng
thích ứng này đã dẫn tới nguy cơ của sự “trống rỗng” nền công nghiệp trong nớc mà các
sách báo đã đề cập đến rất nhiều. Theo các số liệu thống kê của 14 nghành công nghiệp, tỷ
lệ đầu t ra nớc ngoài trong những năm giữa thập kỷ 90 bình quân đều đạt trên 27%, vợt xa
mức 1,8% vào năm 1986. Trong đó công nghiệp chế tạo tăng mạnh nhất. Ví dụ, đằu t ra
nớc ngoài trong ngành chế tạo ô tô đã tăng từ 4,8% năm 1986 lên 38,1% năm 1995 (Tạp
chí “Kinh tế hệ” số tháng 7/1996). Tỷ trọng sản xuất ở nớc ngoài (chỉ mối quan hệ
giữatổng ngạch tiêu thụ của các xí nghi ệp ở nớc ngoài thuộc ngành chế tạo với tổng ngạch
tiêu thụ của ngành chế tạo trong nớc) đã tăng từ 3% năm 1985 lên 6,4% năm 1990 và
7,4% năm 1993, trong đó nghành sản xuất máy điện tăng lên 12,6%, máy móc vận tải tăng
lên 17,3% (Sách trắng đầu t, Hội Chấn hng mậu dịch Nhật Bản năm 1995).
+ Tăng cờng nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp, bán thành phẩm, và linh kiện,
đặc biệt là những sản phẩm đợc sản xuất từ những cơ sở chế tạo của Nhật Bản ở nớc ngoài
và nâng cao hơn nữa giá cả hàng xuất khẩu để bù lại những thiệt hại do s tăng giá của
đồng Yên gây ra. Ví dụ trong năm 1995, nhiều công ty xuất khẩu của Nhật Bản đã tăng giá
hàng xuất khẩu từ 10 – 15%. Điều này đã khiến cho hàng nhập khẩu dễ có điều kiện thâm
nhập hơn vào thị trờng Nhật Bản trong khi đó hàng xuất khẩu từ Nhật Bản lại khó đợc
chấp nhận hơn đối với ngời tiêu dùng nớc ngoài. Theo số liệu thống kê, xuất khẩu của
Nhật Bản trong name 1995 chỉ tăng có 2,6%so với 5,1% vào năm 1994, trong khi đó, nhập
khẩu tăng tới 9,2% so với 8,4% vào năm 1994. Do xuất khẩu giảm và nhập khẩu tăng, cán
cân mậu dịch thặng d của Nhật Bản đã giảm đi đáng kể. Song điều đáng nói là trong khi
thặng d mậu dịch với Mỹ và EU giảm đi thì thặng d mậu dịch của Nhật Bản với Châu Á
vẫn tiếp tục tăng nhanh, chứng tỏ Châu Á ngày càng trở thành một thị trờng xuất khẩu
quan trọng của Nhật Bản. Ví dụ, xuất khẩu của Nhật Bản sang Châu Á trong 6 tháng đầu
năm 1995 đã lên tới 99,8 tỷ đôla, cao hơn cả xuất khẩu của Nhật Bản sang Mỹ và EU cộng
lại (97,3 tỷ đôla). (Trịnh Ngọc - Kinh tế Nhật Bản phục hồi trong sự trì trệ. Nghiên cứu
Nhật Bản, số 1(5), 3/1996).
- + Tăng cờng liên doanh, liên kết với nớc ngoài trong việc nghi ên cứu và phát triển
các sản phẩm mới. Đồng thời tến hành đào tạo lại lao động, hợp nhất các cơ sở sản xuất
không có hiệu quả, hoặc bán lại cho các nhà đầu t nớc ngoài…
Thứ ba, trong lĩnh vực tài chính, “Bing Bang” đợc coi là một trong những cuộc cải
cách có vị trí quan trọng hàng đầu. Đây là một cuộc cải cách toàn diện, sâu sắc, và triệt để
với mục tiêu cơ bản là: làm cho thi trờng tài chính Nhật Bản năng động hơn, linh hoạt hơn,
tự do hơn, minh bạch, chuẩn mực hơn và có thể sánh vai với những trung tâm tài chính lớn
nh New York và Luân Đôn. Những nội dung chủ yếu của cuộc cải cách này là:
+ Mở rộng sự lựa chọn cho các nhà đầu t và những ngời đi vay.
+ Cải tiến chất lợng phục vụ của các trung gian tài chính và thúc đẩy sự cạnh tranh
giữa các ngân hàng.
+ Phát triển một thị trờng đem lại nhiều lợi ích hơn.
+ Thiết lập những khung khổ pháp lý và những quy định đáng tin cậy cho sự giao
dịch bình đẳng, minh bạch.
Trên cơ sở những hớng cải cách cơ bản nói trên, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành
và thực hiện hàng loạt các chính sách và biện pháp cải cách cụ thể đối với từng lĩnh vực
của hệ thống tài chính. Trong đó, đặc biệt là các chính sách cơ cấu lại Bộ Tài Chính, chính
sách tăng cờng vai trò của Ngân hàng trung ơng Nhật Bản, chính sách cơ cấu lại các ngân
hàng thơng mại, chính sách nới lỏng các quy chế tạo điều kiện cho sự phát triển của các thị
trờng vốn độc lập và sự thâm nhập vào các công việc kinh doanh lẫn nhau của các cơ quan
tài chính nhằm tăng cờng khả năng cạnh tranh của chúng, các chính sách về lãi suất tín
dụng, tỷ giá đồng Yên, và thị trờng chứng khoán, các chính sách về thuế, thu chi ngân
sách và bảo hiểm…(Hệ thống tài chính Nhật Bản: những đặc trng cơ bản và cuộc cải cách
hiện nay; chủ biên Trần Quang Minh, Nxb KHXH, Hà Nội, 2003). Chi tiết quá trình
thực hiện cải cách tài chính “Bing Bang” của Nhật Bản đợc chỉ rõ trong bảng sau:
Tiến trình thực hiện “Big Bang” của Nhật Bản
Các khoản mục 1997 1998 1999 2000 2001
1. Mở rộng sự lựa chọn cho các
nhà đầu t và các tổ chức tăng
nguồn vốn
- Tự do hoá giao dịch vốn và
4/98
kinh doanh noại hối trong
10/98
nớc cũng nh ngoài nớc
12/98
- Thực hiện tài khoản chứng
khoán chung
12/98
- Tự do hoá hoàn toàn các loại
- chứng khoán
- Giới thiệu việc bán uỷ thác 9/98
đầu t không cần qua quầy
của ngân hàng và các tổ
12/98
chức khác
2/97
- Tăng khả năng thanh toán của
ABS và các khoản nợ khác
- Mở rộng định nghĩa về chứng
khoán
- Cải cách chế độ lơng hu
2. Cải tiến chất lợng các loại
dịch vụ và đẩy mạnh cạnh
tranh
3/98
- Khai thác sử dụng các công
ty cổ phần
10/99
- Xoá bỏ những hạn chế trong
hoạt động kinh doanh ở các
12/98
chi nhánh của các tổ chức
tài chính
- Chuyển từ chế độ cấp giấy 10/99
phép sang chế độ dăng ký
10/99
đối với các công ty chứng
khoán
- Tự do hoá mức hoa Cho
phép các ngân hàng phát
hành thẳng trái phiếu và cổ
phiếu
3. Sử dụng thị trờng thân
thiện, nhiều hơn
- Cải tiến mua bán ngoại tệ và 12/98
xoá bỏ mức ấn dịnh cho
các loại chứng khoán có
12/98
trong danh sách
- Tăng cờng chức năng của thị
4/99
trờng đăng ký qua máy
- Xoá bỏ thuế giao dịch chứng 4/99
- khoán và thuế ở thị trờng
h ối đ oái
- Xoá bỏ một phần thuế của
những ngời có JGBs
4. Cải tiến khung pháp lý cho
việc trao đổi bình đẳng và
minh bạch
4/99
- Thực hiện ngay các biện
pháp hành động đúng
12/98
- Tăng cờng chế độ công khai
tình hình kinh doanh của
các doanh nghiệp 3/01
- Cải cách các tiêu chuẩn về
kế toán: đánh gia kế toán
thị trờng bằng điểm
CHƠNG II: MỘT SỐ THÀNH CÔNG BỚC ĐẦU CỦA CẢI CÁCH KINH TẾ Ở
NHẬT BẢN
Có thể thấy t sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực Đông á Nhật Bản đã
có những cố gắng xúc tiến mạnh hơn chơng trình cải cách nền kinh tế của mình. Trên thực
tế cuộc khủng hoảng đã làm bộc lộ rõ những điểm hạn chế trong bản thân nền kinh tế Nhật
Bản, nhất là trong hệ thống Tài chính Ngân hàng buộc Nhật Bản phải có sự cải cách toàn
diện. Nhìn lại các cuộc cải cách trong những năm gần đây ta thấy Nhật Bản không chỉ chú
trọng vào phơng diện tạo cầu, kích cầu mà còn chú ý cả khía cạnh cung của nền kinh tế
nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý trên cơ sởphát triển mạnh các ngành kinh tế kỹ thuật
cao.
Trên phơng diện cầu, Chính phủ Nhật Bản đã có nhiều chơng trình kích thích kinh
tế hàng năm nhằm mở rộng đầu t. Bên cạnh đó là những cố gắng tập trung giải quyết các
khoản nợ khó đòi, nhằm tạo sự lành mạnh trong hệ thống ngân hàng, kích thích các hoạt
động đầu t t nhân. Trong các chơng trình cải cách của Thủ tớng Nhật Bản trớc ông
Koizumi lại chú trọng kích thích đầu t t nhân, hạn chế, giảm tài trợ đầu t công cộng nhằm
tiến tới cân bằng ngân sách. Chẳng hạn theo dự toán ngân sách năm tài chính 2002, công
trái đợc phát hành không qua 30 nghìn tỷ Yên,giảm 10% ODA và giảm đầu t công cộng
10%. Để kích thích mạnh hơn đầu t t nhân chính phủ đã tập trung vào giải quyết nợ khó
đòi thông qua một số giải pháp mạnh có tính khả thi nh bán lại nợ, cho doanh nghiệp chịu
- nợ phá sản, ngân hàng tự huỷ bỏ một phần nợ. Cùng với đó thực hiện giảm thuế để kích
thích ngời dân tăng chi tiêu và đầu t phát triển kinh tế.
Trên phơng diện cung nhà nớc chú ý đẩy mạnh cải cách cơ cấu và thể chế kinh tế
nhằm tạo môi trờng thông thoáng cho các doanh nghiệp hoạt động. Các chính sách Nhà
nớc tập trung chú trọng phát triển các nghành công nghệ cao đại diện cho nền kinh tế
mới – kinh tế tri thức. Xúc tiến chơng trình phát triển tổng thể vùng kinh tế nhằm gắn kết
các khu vực trong nền kinh tế theo 4 trục chính: Đông – Bắc, ven biển Nhật Bản, ven Thái
Bình Dơng và trục phía tây Nhật Bản, qua đó phát huy lợi thế so sánh của từng vùng trong
hoạt động kinh doanhhợp tac quốc tế. Nhật Bản cũng đẩy mạnh tiến trình tự do hoá và hội
nhập quốc tế. Bên cạnh gia tăng các hoạt động hợp tác với ASEAN, Nhật Bản cũng từng
bớc mở cửa thị trờng nội địa và tự do hoá các hoạt động kinh doanh, thu hút nhiều hơn
dòng vốn nớc ngoài đổ vào thị trờng Nhật Bản.
Điều đáng chú ý trong các cuộc cải cáchgần đây là chú trọng phát triển kinh tế theo
hớng gia tăng nội nhu, láy nội nhu làm động lực phát triển.
I. MỘT SỐ THÀNH CÔNG BỚC ĐẦU CỦA CẢI CÁCH KINH TẾ NHẬT BẢN
Nhìn một cách tổng thể, cải cách kinh tế ở Nhật Bản đã thu đợc những kết quả tơng
đối khả quan. Các cuộc cải cách này đã và đang dẫn tới những thay đổi mạnh mẽ cơ cấu
kinh tế Nhật Bản, làm cho khu vực tài chính Nhật Bản đã trở lên có sức cạnh tranh mạnh
hơn và, sự thâm nhập của nớc ngoài vào nền kinh tế Nhật Bản cũng trở nên ít khó khăn
hơn. Các cuộc cải cách này cũng đã dẫn tới sự cơ cấu lại các công ty và sự phát triển mạnh
của các thị trờng vốn độc lập. Hơn 10 năm trớc dây, ngời Nhật Bản không thể nghĩ rằng sự
xuất hiện của thị trờng vốn sẽ là một lực lợng quan trọng thúc đẩy sự cơ cấu lại nền kinh tế
Nhật Bản và làm thay đổi phong cách quản lý truyền thống trong các công ty của Nhật
Bản. Sự ra đời của một ban giám đốc độc lập và quyền lợi của các cổ đông là những vấn
đề đáng chu ý hiện nay ở các công ty Nhật Bản. Chế độ làm việc suốt đời và trả lơng theo
thâm niên cũng đã trở nên không còn thích hợp nữa. Nếu nh trong những năm 1980, ngời
ta không thể tuyển mộ sinh viên giỏi từ một trờng đại học có tiếng ở Nhật Bản vào làm
việc cho một công ty mà không phải là lớn hoặc không phải Bộ tài chính; và ngời Nhật
Bản cũng không thích thú vào làm việc trong các công ty nớc ngoài, thì trong những năm
gần đây, tình hình đã hoàn toàn khác. Những sự thay đổi này, một phần chính là kết quả
của những cuộc cải cách kinh tế trong những năm 1990, đặc biệt là cuộc cải cách hệ thống
tài chính trong những năm gần đây của Nhật Bản.
1. Những tiến bộ trong việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
- Kể từ khi nền kinh tế “bong bóng” bị sụp đổ, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành khá
nhiều giải pháp kích thích cả gói với quy mô lớn cùng với các luật cải cách tài chính và tỷ
lệ lãi suất thấp nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Những giải pháp này đã góp phần thúc
đẩy mạnh mẽ sự phát triển của khu vực kinh tế t nhân. Các nhà lãnh đạo kinh doanh của
khu vực t nhân đã phần nào lấy lại đợc lòng tin trong việc đa khu vực t nhân thành khu
vực đi đầu trong việc đem lại sự phục hồi kinh tế cho Nhật Bản. Dới tác động của các
chính sách cải cách, các tập đoàn công ty của Nhật Bản đã và đang tiến hành việc cơ cấu
lại theo hớng phù hợp với xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Có 4 tín hiệu chứng tỏ các tập đoàn
công ty Nhật Bản đang tự chuyển đổi theo hớng một cơ cấu có khả năng cạnh tranh mạnh
hơn.
Thứ nhất là có sự thay đổi trong khâu quản lý theo hớng tăng cờng vai trò của
những ngời nắm cổ phần. Theo hớng này, các tập đoàn công ty Nhật Bản đợc đặt dới sự
giám sát chặt chẽ của các cổ đông, và do đó các hoạt động kinh doanh sẽ trở nên có hiệu
quả hơn.
Thứ hai là việc thực hiện hệ thống tính toán thống nhất. Hệ thống này đã có tác
dụng quan trọng trong việc tăng cờng sự minh bạch cũng nh buộc các công ty phải tập
trung vào những khả năng cốt lõi của họ.
Thứ ba là các công ty đang xúc tiến việc nâng cao chất lợng lãnh đạo bằng cách đa
vào các giám đốc từ bên ngoài. Bằng cách này các nhà quản lý có thể nghe đợc nhiều ý
kiến khác nhau và không thiên vị về chiến lợc công ty của họ, cho phép họ thực hiện
những thay đổi làm tăng khả năng cạnh tranh hơn. Việc làm này cũng góp phần tăng cờng
vai trò của lãnh đạo vì nó tách chức năng kiểm tra khỏi chức năng hoạt động kinh doanh.
Thứ t, việc quản lý các nguồn nhân lực cũng đang có sự thay đổi. Nhiều công ty
hiện nay nhấn mạnh vào khả năng làm việc hơn là sự thâm niên và thuê mớn suốt đời. Ví
dụ, theo một nghiên cứu, chỉ có 6,3% ngời Nhật cho rằng hệ thống trả lơng theo thâm niên
cần đợc duy trì, trong khi đó 53,8% cho rằng tiền lơng cần đợc trả trên cơ sở công việc
thực tế .
Bên cạnh những nhân tố kể trên, sự phát triển mạnh của đầu t nớc ngoài vào Nhật
Bản cũng là một động lực khác cho sự thay đổi cơ cấu các ngành. Đặc biệt là cuộc cải
cách tài chính Big Bang đã và đang dẫn tới những thay đổi cơ cấu sâu sắc ở Nhật Bản.
Khu vực tài chính Nhật Bản trở nên có sức cạnh tranh mạnh hơn và sự thâm nhập của nớc
ngoài vào khu vực này cũng trở nên ít khó khăn hơn. Theo các số liệu thống kê, đầu t trực
tiếp nớc ngoài (FDI) vào Nhật Bản trong những năm gần đây đã tăng rất mạnh. Trong đó
khoảng 34,1% tổng vốn FDI là vào khu vực tài chính, và khoang 24% vào kỹ thuật thông
- tin và các ngành thơng nghiệp bán lẻ. FDI, ngoài các khoản tiền đầu t, đã đa vào Nhật Bản
các quan điểm của các nhà đầu t và các kiểu quản lý công ty không chỉ mới mà còn có thể
áp dụng đối với các xí nghiệp Nhật Bản truyền thống. Nếu nh trớc đây ngời Nhật Bản đã
không thích thú làm việc trong các công ty nớc ngoài ở Nhật Bản thì trong những năm gần
đây tình trạng này đã đợc cải thiện rất nhiều. Ví dụ, nhiều ngời Nhật Bản đã hoan nghênh
sự sát nhập của Nissan và Renault nhằm cứu vãn sự sống còn của Nissan, trong khi thừa
nhận rằng sự sống còn không thể có đợc nếu không chấp nhận sự cơ cấu lại tập đoàn một
cách đau đớn nh sa thải công nhân,…
Tất cả những nhân tố kể trên đã góp phần tạo ra một sự chuyển dịch đáng kể trong
nội bộ các ngành kinh tế của Nhật Bản. Nhiều ngành công nghiệp mới đã ra đời và phát
triển nh: Thông tin liên lạc, viễn thông, điện tử và điện dân dụng…, nhiều ngành công
nghiệp truyền thống đã đợc điều chỉnh theo hớn thu hẹp sản xuất, hoặc liên doanh liên kết,
hoặc tăng cờng năng lực sản xuất nhằ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nh: ôtô, sắt
thép, xây dựng…(Điều chỉnh cơ cấu kinh tế Nhật Bản trong bối cảnh toàn cầu hoá, Chủ
biên Vũ Văn Hà, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2002).
Có thể nói rằng, kể từ đầu thập kỷ 90 đến nay Nhật Bản đã và đang ở trong một quá
trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế sâu sắc. Nền kinh tế Nhật Bản đang chuyển dịch theo hớng
giảm sự can thiệp của Chính phủ và tăng cờng sự cạnh tranh của một nền kinh tế mở theo
cơ chế thị trờng, và theo hớng một nền kinh tế mà sự tiến bộ của ký thuật thông tin đang
đợc lan rộng một cách nhanh chóng đem lại những khả năng cạnh tranh mới cho các công
ty trên thị trờng. Trớc và ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nông nghiệp và dệt là
những ngành đặc trng của cơ cấu kinh tế Nhật Bản kiểu cũ. Trong những thập kỷ gần đây,
cơ cấu kinh tế Nhật Bản lại đợc đặc trng bởi các công ty to lớn đã đợc thiết lập một cách
vững chắc trong nhiều ngành công nghiệp nặng (nh luyện kim, chế tạo máy, và hoá chất),
hệ thống ngân hàng, và các công ty thơng mại tổng hợp lớn,… Và trong những năm gần
đây, cơ cấu kinh tế này lại đang đợc chuyển đổi theo hớng cải tổ cơ cấu và đầu t vào kỹ
thuật thông tin để có thể hoạt động có hiệu quả trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đang
diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Bên cạnh những ngành nghề truyền thống đã và đang đợc
cải tổ và nâng cấp, có rất nhiều ngành nghề mới đang đợc hình thành trong nền kinh tế
Nhật Bản. Ngời ta gọi đó là “Kinh tế Nhật Bản kiểu mới”. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành
chính là nhân tố quan trọngnhất tạo ra gơng mặt mới của nền kinh tế Nhật Bản.
2. Những thành tựu trong lĩnh vực cải cách tài chính.
Theo đánh giá chung, cuộc cải cách hệ thống tài chính Nhật Bản đã thu đợc những kết
quả bớc đầu nh: Vai trò và chức năng của hai cơ quan chủ yếu trong hệ thống tài chính là
Bộ Tài chính (MOF) và Ngân hàng Trung ơng Nhật Bản (BOJ) đã có sự thay đổi về cơ
bản với việc tăng cờng tính độc lập và quyền tự quyết của BOJ trong việc quản lý và thực
- hiện chính sách tiền tệ; Luật Ngân hàng mới đã có hiệu lực và đi vào hoạt động kể từ năm
1997; nhiều ngân hàng đã tiến hành việc bán những uỷ thác đầu t; các cơ quan tài chính đã
có quyền chủ động hơn trong việc giải quyết những vấn đề nảy sinh; và rất nhiều công ty
kinh doanh chứng khoán đã đợc thành lập và đi vào hoạt động. Việc hợp nhất, các ngân
hàng nhằm làm tăng sức mạnh tài chính và khả năng lợi nhuận đã đợc đẩy mạnh. Sự thâm
nhập của các ngân hàng thơng mại và ngân hàng uỷ thác vào kinh doanh bảo hiểm thông
qua các chi nhánh cũng đã đợc thực hiện…
Sau hơn 5 năm triển khai và thực hiện, cuộc cải cách hệ thống tài chính Nhật Bản
bớc đầu đã thu đợc những kết quả đáng khích lệ. Cuộc cải cách này đã và đang dẫn tới
những thay đổi cơ cấu sâu sắc ở Nhật Bản. Khu vực tài chính Nhật Bản đã trở nên có sức
cạnh tranh hơn, sự thâm nhập của nớc ngoài vào khu vực này cũng trở nênít khó khăn hơn,
các thị trờng vốn độc lập cũng đã đợc phát triển thêm một bớc. Các cơ quan tài chính Nhật
Bản đã hoàn toàn đợc tự do trong các hoạt động của mình và các phơng tiện quản lý tài
sản đã đợc cải thiện một cách có ý nghĩa, sự thâm nhập lẫn nhau về công việc kinh doanh
của các ngân hàng, các công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm, cùng với xu hớng hợp
nhất các loại cơ quan này đã đợc đẩy mạnh, các thị trờng vốn đã đợc phát triển thêm một
bớc, đặc biệt là mạng lới thị trờng thông qua hệ thông trao đổi thơng mại điện tử và qua
Internet; Sự liên doanh, liên kết với nớc ngoài và sự thâm nhập của các công ty ài chính
nớc ngoài vào Nhật Bản đã đợc đẩy mạnh dới các hình thức nh: FDI, mua cổ phần, tham
gia trực tiếp vào công việc quản lý của các công ty Nhật Bản và các thị trờng chứng khoán
ở Nhật Bản; Và chất lợng quản lý tín dụng của các cơ quan trong hệ thống tài chính Nhật
Bản đã đợc cải thiện rất đáng kể (Hệ thống tài chính Nhật Bản: Những đăc trng cơ bản và
cuộc cải cách hiện nay; chủ biên Trần Quang Minh, Nxb KHXH, Hà Nội, 2003).
II. NHỮNG CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP CẢI CÁCH TRONG TỪNG LĨNH
VỰC CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
Mặc dù đã từng có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế của Nhật
Bản, đặc biệt là trong thời kỳ tăng trởng ngoạn mục (1955 – 1973), hệ thống tài chính
Nhật Bản mà trong đó các ngân hàng đóng vai trò trung tâm, kể từ cuối thập kỷ 80 đến nay
đã bộc lộ rất nhiều những yếu kém và bất cập, ảnh hởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế
của đất nớc. Trong suốt hơn một thập kỷ vừa qua, Chính phủ Nhật Bản đã phải thực hiện
khá nhiều chính sách và biện pháp nhằm cơ cấu lại hệ thống tài chính thích ứng với những
đòi hỏi của tình hình kinh tế trong nớc và bối cảnh quốc tế mới. Tuy nhiên, những giải
pháp tình thế đợc thực hiện trong những năm đầu thập kỷ 90 đã chứng tỏ rằng đó không
phải là những phơng thuốc hữu hiệu đẻ chữa trị căn bệnh “khủng hoảng cơ cấu” kinh tế
nói chung và hệ thống tài chính của Nhật Bản nói riêng. Chỉ khi chơng trình “Big Bang”
do Thủ tớng Hashimoto khởi sớng và đợc thực hiện kể từ tháng 11/1996, hệ thống tà chính
Nhật Bản mới thực sự bớc vào một cuộc cải cách sâu sắc và toàn diện.
- Đặc điểm nổi bật của hệ thống tài chính Nhật Bản là chủ yếu dựa vào ngân hàng nên
trớc hết chúng ta sẽ đi vào các chính sách, biện pháp để cải cách ngân hàng trung ơng
(NHTW) và ngân hàng thơng mại (NHTM).
1. Các chính sách đối với NHTW và NHTM
Hệ thống tài chính Nhật Bản, đặc biệt là hệ thống ngân hàng, đã đợc ca ngợi có vai
trò sống còn trong phát triển kinh tế của Nhật Bản trớc những năm 1990. Rất nhiều ngân
hàng Nhật Bản thời kỳ đó là những ngân hàng lớn nhất trên thế giới: 9 trong số 10 ngân
hàng hàng đầu thế giới xét về quy mô tài sản là những ngân hàng Nhật Bản. Các ngân
hàng này có những quỹ tiền gửi khổng lồ, chi phí thấp và những đánh giá tín dụng cao
nhất. Chính vì thế, Nhật Bản đã thay đổi hẳn trong những năm 1990 với những món nợ
khó đòi khổng lồ của các ngân hàng, kinh tế triền miên trong vòng suy thoái, giảm phát
liên tục trong những năm gần đây. Vậy làm thế nào để có thể lập lại trật tự của hệ thống tài
chính để ngân hàng có thể làm tốt vai trò trung gian tài chính của mình trong việc thu hút
vốn nhàn rỗi và cung cấp vốn cho doanh nghiệp, thực sự đáp ứng những yêu cầu mới trong
qua trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá. Chơng trình cải cách “Big Bang” đã đa ra
những chính sách và biện pháp tơng đối toàn diện để đổi mới nguyên tắc hoạt động cũng
nh cơ cấu tổ chức hệ thống ngân hàng Nhật Bản.
a. Đối với NHTW
Nh chúng ta đã biết, ngân hàng trung ơng là một định chế quản lý nhà nớc về tiền
tệ – tín dụng. Nó nằm trong bộ máy quyền lực quốc gia. Song, tuỳ theo điều kiện lịch sử
cụ thể của mỗi nớc, HNTW có thể độc lập hay trực thuộc Chính phủ. Chẳng hạn ở Mỹ và
Đức, thực hiện thể chế NHTW độc lập với Chính phủ. Trong thể chế này, Chính phủ
không đợc can thiệp vào hoạt động của NHTW. Nhng ở Nhật, Anh, Pháp và một số nớc
khác thực hiện thể chế NHTW trực thuộc Chính phủ, Chính phủ có ảnh hởng quyết định
đối với hoạt động của NHTW.
Khác với tính chất quản lý nhà nớc của các bộ, NHTW thực hiện việc quản lý nhà
nớc qua các nghiệp vụ kinh doanh có đem lại lợi nhuận. Song, việc kinh doanh này chỉ là
phơng tiện nâng cao hiệu suất của công tác quản lý, chứ không phải là mục đích của hoạt
động chính của NHTW.
Mục đích hoạt động của NHTW là cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế, điều hoà lu
thông tiền tệ và quản lý hệ thống ngân hàng, nhằm bảo đảm lu thông tiền tệ ổn định, từ đó
tạo diều kiện tăng trởng kinh tế, tăng việc làm và kiềm chế lạm phát. Với 3 chức năng cơ
bản là: phát hành tiền tệ, ngân hàng của các ngân hàng và ngân hàng của nhà nớc, NHTW
đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển kinh tế – xã hội nh điều tiết khối
lợng tiền trong lu thông, ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia.
Ngân hàng trung ơng Nhật Bản (DOJ) ra đời vào năm 1886 theo sáng kiến của Bộ
trởng Tài chính Masayoshi Matsuka. Đây là một phần trong chơng trình hiện đại hoá tài
chính Nhật Bản của thời Minh Trị. Mục tiêu là để cải cách hệ thống tiền tệ, thiết lập một
- đồng tiền chung trong cả nớc, tạo cơ sở cho tài chính quốc gia và thúc đẩy sự phát triển
của ngân hàng nói chung. Gần 60 năm sau Pháp lệnh BOJ đợc thay thế bằng một luật
NHTW mới đợc thực hiện trong thời kỳ Chính phủ do giới quân sự lắm quyền vào năm
1942. Sự sửa đổi lần đó có thêm vào quyền hạn của NHTW trong chính sách tiền tệ, nhng
vẫn coi HNTW là một bộ phận của Bộ Tài Chính. Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, BOJ
hầu nh không có sự thay đổi. Hai sáng kiến nhằm cải cách Luật NHTW – một lần vào cuối
những năm 1950 và một lần nữa vào năm 1965 đều không đem lại kết quả. Vì lúc đó kinh
tế đang tăng trởng với tốc độ cao nên các chính trị gia cũng nh công chúng thấy không
quan tâm nhiều tới sự thay đổi Luật NHTW. Điều này mới chỉ đợc thực sự nghĩ tới khi
nền kinh tế đã nh một quả bóng căng phồng vào cuối những năm 1980 và khi bong bóng
nổ thì những tiếng kêu cứu từ những tổ chức cho vay và của công chúng buộc Chính phủ
phải có một vài hành động để thay đổi chính sách tiền tệ và hệ thống tài chính. Một uỷ ban
t vấn riêng của Thủ tớng Hashimoto và báo cáo đầu tiên đợc công bốvào tháng 11 năm
1996. Sau đó quá trình sửa đổi luật bắt đầu đợc Uỷ ban Nghiên cứu hệ thống tài chính và
Ban Cố vấn trong Bộ Tài chính tiến hành. Tháng 2 năm 1997 dự thảo luật đợc nội các
chấp thuận và đợc 2 viện của Quốc hội thông qua vài tháng sau đó. Với tiêu đề “Tiến tới
sự độc lập của BOJ” báo cáo của Uỷ ban T vấn đã tổng hợp ý kiến của các quan chức
trong BOJ và Bộ Tài chính.
Luật NHTW mới của Nhật Bản ghi rõ NHTW đợc độc lập trong chính sách tiền tệ
và cụ thể hoá những vấn đề thuộc phạm vi của NHTW. Điều 1 của Luật đa ra 2 mục tiêu
của NHTW là quản lý tiền, ổn định giá cả, và đảm bảo cung cấp vốn cho các ngân hàng và
các tổ chức tài chính khác, duy trì trật tự của hệ thống tài chính. Quy định này cho thấy
NHTW là trung tâm của hệ thống thanh toán cũng nh là tổ chức để duy trì “trật tự tài
chính”. Điều 3 của Luật tuyên bố sẽ tôn trọng quyền tự quyết của NHTW bằng sự độc lập
trong quá trình ra quyết định và công bố nội dung các quyết định. Luật cũng quy định
chức năng và việc bổ nhiệm các chức vụ của NHTW. Ban trị sự của BOJ sẽ gồm: 1 thống
đốc, 2 phó thống đốc, 6 thành viên đợc lựa chọn nằm trong Ban chính sách, 3 kiểm toán
viên,6 giám đốc điều hành, và một số cố vấn. Thống đốc, 2 phó thống đốc, 6 thành viên
đợc lựa chọn nằm trong Ban Chính sách, ban này do Nội các chỉ định với sự đồng ý của 2
viện trong Quốc hội sẽ đợc ra những quyết định quan trọng về chính sách tiền tệ và về hệ
thống ngân hàng. Những kiểm toán viên cũng do Nội các bổ nhiệm, nhng các giám đốc
điều hành và các cố vấn thì do Bộ trởng Tài chính bổ nhiệm theo sự giới thiệu của Ban
Chính sách. Luật ghi rõ 6 thành viên đợc lựa chọn phải là chuyên gia kinh tế hoặc tài chính,
hoặc những ngời có kiến thức uyên thâm về kinh tế – xã hội để tăng cờng tính minh bạch
và có thể hạn chế sự can thiệp của Bộ Tài chính. Nh vậy luật mới đã lành mạnh hoá chức
năng của Ban Chính sách tiền tệ, trong tổng số 9 ngời của ban thì 4 thành viên mới đợc bổ
nhiệm vào tháng 4 năm 1998 đều độc lập với Chính phủ. Trong Ban Chính sách tiền tệ,
không một thành viên nào có quyền áp đặt quan điểm của riêng mình, mọi ngời đều có thể
thẳng thắn nêu ý kiến. Bắt đầu từ tháng 1 năm 1998, BOJ đã thực hiện các cuộc họp định
kỳ 1 hoặc 2 lần trong một tháng về chính sách tiền tệ, và sau 5 hoặc 6 tuần sẽ công bố
- công khai nội dung các cuộc họp. Đây có thể coi là một đột phá để đa Nhật Bản tiến đến
các tiêu chuẩn quốc tế về tính minh bạch trong hoạt động ngân hàng. Ngoài ra, trong việc
quản lý nhân sự BOJ đã bãi bỏ quy chế thăng chức tự động hàng năm, tăng cờng hiệu quả
nguồn nhân lực, áp dụng một cách then trọng hệ thống thăng chức dựa vào sự đóng góp
của các cá nhân cho hoạt động của ngân hàng.
Nh vậy vai trò, chức năng, cơ cấu tổ chức của BOJ đã có những thay đổi đáng kể
theo hớng độc lập, tự quyết chứ không phải là tổ chức chỉ biết thực thi những mệnh lệnh
của Bộ Tài chính nh trớc kia. Tuy nhiên, những thay đổi này vẫn cha thể theo kịp các đồng
sự phơng Tây của họ. Có những phê phán cho rằng BOJ tuy đã đợc độc lập trong thực thi
chính sách tiền tệnhng lại bị hạn chế trong việc quản lý tiền tệ. Khi nói về quan hệ với
Chính phủ, Điều 4 của Luật mới lại ghi “tiền mặt và quản lý tiền tệ là một bộ phận trong
chính sách kinh tế tổng thể, BOJ cần phải giữ quan hệ mật thiết với Chính phủ và trao đổi
ý kiến đầy đủ, nh vậy thì chính sách tiền tệ mới có sự hài hoà với chính sách kinh tế của
Chính phủ”. Điều này có nghĩa là BOJ phải bàn bạc với Bộ Tài chính, và nó không giống
với đồng sự của họ ở Đức hoặc ở Mỹ, các quan chức của NHTW ở 2 nớc này không đựoc
phép nhận xét công khai về chính sách tài chính ngay cả khi nó không phù hợp với sự lựa
chọn trong chính sách tiền tệ. Điều 37 và 38 khi nói về trờng hợp cho vay khẩn cấp thì lại
thiếu sự phân biệt giữa việc bảo vệ hệ thống thanh toán của BOJ với sự quan tâm của
Chính phủ trong việcgiúp đỡ cho vay đối với các tổ chức. Với vai trò ngời cho vay cuối
cùng, về nguyên tắc BOJ chỉ cho những ngân hàng có khả năng trả nợ đợc vay nhng điều
37 của Luật lại ghi “khi các tổ chức tài chính thiếu vốn tạm thời ngoài dự đoán do những
tai nạn ngẫu nhiên mà không thanh toán đợc” thì BOJ có thể cho vay. Ngoài ra điều 38
còn nói Bộ Tài chính có thể yêu cầu BOJ cho vay trong những trờng hợp khác nh “khi
thấy cần thiết phải duy trì hệ thống theo trật tự nếu thấy tình trạng kinh doanh và tài sản
của một số tổ chức tài chính có thể có vấn đề dẫn đến phá vỡ trật tự tài chính”. Điều đó
không nói rõ là BOJ có thể từ chối những yêu cầu hoặc đa ra điều kiện gì không.
Với chức năng là ngân hàng của Chính phủ, NHTW luôn gặp phải những vấn đề
khó sử trớc đây. Chính phủ các nớc đều đã có lúc gây áp lực với NHTW trong việc thay
đổi chính sách lãi suất để có những khoản vay với lãi suất thấp hơn cho những hoạt động
của Chính phủ. Điều 34 nói BOJ có thể cho vay không cần thế chấp đối với Chính phủ,
hoặc mua trái phiếu hoặc ghi nợ trong giới hạn của Luật Ngân sách mà Quốc hội dặt ra.
Nh vậy, việc áp dụng luật NHTW sửa đổi cho phép tạo lập môi trờng pháp lý phù
hợp với tiêu chwnr quốc tế về quyền tự chủ, tính minh bạch và các nhân tố quan trọng
khác của NHTW. Đây là những điều kiện cần thiết để chiếm đợc lòng tin của thi trờng.
Với Luật sửa đổi này phạm vi can thiệp của Chính phủ với BOJ đã bị thu hẹp, tuy nhiên
BOJ cũng phải luôn duy trì mối quan hệ gần gũi và trao đổi quan diểm với Chính phủ một
cách đầy đủ để đảm bảo chính sách của BOJ hài hoà với chính sách kinh tế của Chính phủ.
Luật ngân hàng mới nhấn mạnh khái niệm “minh bạch” với quy định rằng BOJ sẽ thông
báo ra công chúng nội dung các quyết định cũng nh quá trình ra quyết địnhcó liên quan tới
- vấn đề quản lý tiền và ngoại hối. Có thể thấy cuộc cải cách đối với BOJ tơng đối toàn diện
vì không chỉ về cơ cấu luật pháp bên ngoài mà còn về cấu trúc và động lc bên trong của nó,
tạo điều kiện để BOJ trở thành một ngân hàng hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều này
đã đợc chứng minh trong thời gian 4 năm qua khi BOJ luôn kiên định duy trì chính sách
nới lỏng tiền tệ của mình với việc điều chỉnh lãi suất linh hoạt, can thiệp kịp thời vào thị
trờng ngoại hối. Chẳng hạn, trong thời gian qua khi đồng Yên lên giá quá mức, tạo điều
kiện thuận lợi cho xuất khẩu của Nhật Bản. Chỉ tính từ cuối tháng 5/ 2002 đến đầu tháng
7/2002, BOJ đã 7 lần tung đồng Yên ra để mua Đôla Mỹ và trong lần can thiệp thứ 6, BOJ
đã yêu cầu Cục dự trữ Liên bang Mỹ và NHTW châu Âu giúp cho việc bán đồng Yên.
Đây là lần đầu tiên BOJ có sự phối hợp với NHTW của các nớc khác.
b. Đối với các NHTM
NHTM là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ – tín dụng và có thể hiểu
đó là một trung gian tài chính đi vay để cho vay. Có nhiều loại hình NHTM nh NHTM
công, NHTM t, NHTM trong nớc, NHTM nớc ngo ài, NHTM toàn quốc, NHTM địa phơng,
NHTM duy nhất hoặc NHTM mạng lới, dựa trên tiêu thức doanh số ngời ta phân biệt
NHTM nhỏ, NHTM lớn hoặc siêu lớn.
NHTM có 3 chức năng: trớc hết, NHTM hoạt động với t cách là một trung gian tín
dụng. Một mặt, thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội bao gồm tiền của các doanh
nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan nhà nớc. Mặt khác, nó ding chính số tiền
đã huy động đợc để cho vay đối với các tổ chức, cá nhân trong xã hội khi có nhu cầu bổ
sung vốn. Thứ hai, NHTM là một trung gian thanh toán vì phần lớn các khoản chi trả về
hàng hoá, dịch vụ của xã hội đều đợc thực hiện qua ngân hàng. Chức năng thứ 3 của
NHTM là nguồn bổ sung tiền. NHTM có thể bổ sung tiền bằng cách chuyển khoản hay các
giấy tờ có giá trị để thay thế cho tiền mặt. Cùng với vai trò độc quyền phát hành giấy bạc
NHTW, NHTM góp phần thoả mãn nhu cầu dùng tiền làm phơng tiện giao dịchcủa toàn
xã hội. Quá trình bổ sung tiền của NHTM dựa trên cơ sở tiền gửi của xã hội. Song, số tiền
đó đợc nhân lên gấp bội khi ngân hàng cho vay thông qua cơ chế thanh toán chuyển khoản
giữa các ngân hàng. Khả năng làm tăng tiền của NHTM phụ thuộc vào các yếu tố nh tỷ lệ
dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dôi d và tỷ lệ giữa tiền lu thông ngoài hệ thống ngân hàng và
tiền gửi của xã hội ở hệ thống ngân hàng. Việc quản lý hoạt động của NHTM cần đảm bảo
khả năng thanh toán thờng xuyên đối với khách hàng, bảo đảm mức sinh lời cao, xử lý hài
hoà mối quan hệ giữa yêu cầu bảo đảm khả năng thanh toán và mức sinh lời cao. Muốn
vậy, NHTM phải sắp xếp tài sản Có theo trật tự lỏng của chúng để bố trí cơ cấu hợp lý các
khoản cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, đầu t chứng khoán trung và dài hạn trong mối
tơng quan với các nguồn vốn tơng ứng bên tài sản Nợ.
Cho đến trớc những năm1990, hệ thống ngân hàng Nhật Bản nói chung và các
NHTM Nhật Bản nói riêng luôn hoạt động dới chế độ bảo hộ của Chính phủ. Chính phủ
đảm bảo lợi nhuận ổn định cho các ngân hàng dù ở mức thấp nhất. Sự cạnh tranh giữa các
ngân hàng để có đợc nhiều tiền gửi cho đến những năm 1980 đợc xem là hết sức hợp lý vì
- có nhiều đơn xin vay vốn đầy hứa hẹn và một sự đảm bảo lợi nhuận nhất định bằng tiền
những quy dịnh về lãi suất của Nhà nớc.Tuy nhiên sự ổn định lãi suất ngân hàng và quản
lý ngân hàng dần dần suy giảm do những thay đổi của môi trờng kinh tế trong nớc cũng nh
trên thế giới nh: tự do hoá lãi suất, cạnh tranh lớn hơn trong thị trờng vốn, đơn xin vay có
nhiều hứa hẹn giảm do nền kinh tế đã phát triển tơng đối hoàn chỉnh. Sự bảo hộ của Nhà
nớc cộng thêm với sự thay đổi trong môi trờng tài chính toàn cầu đã làm cho phơng thức
quản lý của các NHTM Nhật Bản trở nên lạc hậu, kém hiệu quả. Sau sự sụp đổ của nền
kinh tế bong bóng thì hệ thống ngân hàng Nhật Bản thực sự rơi vào khủng hoảng vì sự
quản lý lỏng lẻo của ngân hàng trong việc cho vay tràn lan, không giám sát, không thẩm
định chặt chẽ tài sản và tình hình kinh doanh của các công ty dẫn đén sự bùng nổ của các
khoản nợ khó đòi. Tháng 3 năm 1997, BOJ cũng nh Bộ Tài chính mới coi vấn đề nợ khó
đòi của các ngân hàng là vấn đề cấp thiết. Để vực dậy hệ thống ngân hàng, cuộc đại cải
cách tài chính “Big Bang” đã đa ra những giải pháp dài hạn cơ cấu lại các NHTM. So với
các nớc phát triển khác, các NHTM của Nhật Bản hiện tại khả năng sinh lời thấp, chất
lợng tín dụng cha cao, trình độ công nghệ và mô hình tổ chức quản lý còn cha tốt. Vì vậy,
để có khả năng cạnh tranh cao và hội nhập thì cần phải có kế hoạch tổng thể cơ cấu lại
NHTM, cụ thể là:
Lành mạnh hoá tài chính và nâng cao năng lực tài chính của các NHTM. Trớc hết,
phải xử lý triệt để nợ tồn đọng, làm sạch bảng tổng kết tài sản, phấn đấu giảm tỷ lệ nợ quá
hạn xuống dới 5% tổng d nợ theo tiêu chuẩn quốc tế thông qua việc thành lập Ban Cơ cấu
tài chính các NHTM và công ty mua bán, giải quyết nợ. Tăng vốn điều lệ cho các NHTM
nhằm đảm bảo yêu cầu về tỷ lệ vốn tự có theo tiêu chuẩn quốc tế.
Cơ cấu lại mô hình tổ chức của NHTM, tăng cờng sự kiểm tra, kiểm soát để tăng
chất lợng tín dụng, dịch vụ ngân hàng, đảm bảo quyền tự chủ của ngân hàng trong việc ra
quyết định. Quản lý tín dụng theo hớng kinh doanh tín dụng theo nguyên tắc thị trờng,
giảm dần sự bảo hộ của nhà nớc, đảm bảo an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng các
thiết chế quản lý rủi ro, giảm thiểu rủi ro và tăng năng lực tài chính. Đánh giá đúng thực
trạngtài chính của các NHTM đồng thời xây dựng chiến lợc đào tạo và sử dụng nhân viên
theo hớng đáp ứng đợc yêu cầu kinh doanh, cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận. Nh vậy mới
có thể làm cho các NHTM của Nhật Bản đạt trình độ của các đối tác phơng Tây.
Ngoài ra, trong chơng trình “Big Bang ” còn đa ra một loạt các cải cách nh mở rộng
sự lựa chọn cho các nhà đầu t và những ngời đi vay. Trong đó có các biện pháp nh xoá bỏ
hoàn toàn lệnh cấm đối với những dẫn xuất chứng khoán, giới thiệu tài khoản quản lý tài
sản, cho phép các ngân hàng bán các tín thác đầu t và bảo hiểm, tăng khả năng thanh toán
tiền mặt của tài sản bằng việc sử dụng chứng khoán dựa vào tài sản, tự do hoá giao dịch
vốn xuyên quốc gia và tiền gửi từ nớc ngoài về. Luật Sửa đổi về ngoại hối đã đợc Quốc
hội thông qua và có hiệu lực từ 1/4/1998.
Với mục đích cứu trợ cho những ngân hàng yếu kém, cung với kế hoạch rót 13
nghìn tỷ Yên, Chính phủ còn đề nghị khoản tiền trị giá 50 nghìn tỷ Yên trái phiếu bảo đảm
- của Chính phủ vào tháng 2/1998, trong đó 17 nghìn tỷ Yên sẽ chuyển cho công ty bảo
hiểm tiền gửi Nhật Bản để thanh toán cho những ngời gửi tiền tại các ngân hàng không có
khả năng thanh toán cho những ngời gửi tiền tại các ngân hàng không có khả năng thanh
toán. Cuối tháng 6/1998, Nhật Bản đa ra sáng kiến thành lập ngân hàng cầu nối để giải
quyết các vụ phá sản tài chính. Ngân hàng này sẽ kế thừa và quản lý hoạt động của các tổ
chức tiền tệ phá sản, đảm bảo quyền lợi cho ngời gửi, thanh toán nợ lần, thực hiện các dự
án đầu t và cho vay đối với những khách hàng có khả năng thanh toán cao. Ngân hàng này
sẽ duy trì hoạt động của tổ chức tiền tệ đó trong 2 năm kể từ khi phá sản. Sau 2 năm nó có
thể chuyển thành ngân hàng quốc doanh mới. Chính phủ dự kiến dành 30 nghìn tỷ Yên từ
ngân sách cho ngân hàng này làm vốn hoạt động, trong đó 17 nghìn tỷ Yên để bảo vệ ngời
gửi và 13 nghìn tỷ Yên để cho vay và đầu t. Ngoài ra, Chính phủ còn lập ra một quỹ trị giá
22 nghìn tỷ Yên và một cơ quan kiểm soát tài chính nhằm tăng cờng thanh tra, kiểm tra nợ
khó đòi trong hệ thống ngân hàng Nhật Bản.
Cuối tháng 9/1998 Nhật Bản đã thông qua Luật Khôi phục hệ thống ngân hàng Nhật
Bản và thành lập một uỷ ban khôi phục tài chính. Các ngân hàng thua lỗ quá nhiều thì
cuộc phá sản theo Luật phá sản. Chính phủ sẽ mua lại cổ phiếu của những ngân hàng bị
phá sản hoặc chuyển thành những ngân hàng cầu nối cho đến khi khu vực t nhân mua lại,
cho phép ngân hàng mua lại ngân hàng phá sản hoặc Chính phủ sẽ tạm thời quốc hữu hoá.
Ngày 12/10/1998, 8 luật liên quan đến các ngân hàng bị phá sản đã đợc phê chuẩn, theo đó,
Chính phủ có thể bơm tiền vào một số ngân hàng với một số điều kiện nhất định nếu nh tỷ
lệ vốn trên tài sản có cao hơn 4%, Chính phủ sẽ mua cổ phiếu u đãi, nếu nằm trong khoảng
2 đến 4% thì Chính phủ có thể mua cổ phiếu thờng hay cổ phiếu u đãi nhng các giám đốc
của ngân hàng phải từ chức, số chi nhánh sẽ phải giảm và các cơ sở của nó ở nớc ngoài sẽ
phải đóng cửa, nếu thấp hơn 2% thì ngân hàng sẽ tạm thời bị quốc hữu hoá, sau đó, phải
ngừng hoạt động, sáp nhập với các ngân hàng khác hoặc cắt giảm mạnh quy mô hoạt động
của mình. Tất cả những ngân hàng muốn bơm tiền từ nguồn công quỹ đều phải cải thiện
mức thu nhập trên cổ phần đóng góp thông qua các biện pháp tái cơ cấu, loại bỏ những tài
sản không cần thiết và tăng cờng các tài khoản cho vay đối với khối doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Để đảm bảo tính hiệu quả của các chính sách và các ngân hàng không lặp lại tình
trạng cho vay tràn lan nh trớc kia, Chính phủ buộc các ngân hàng phải giải trình cụ thể các
kế hoạch cải cách tài chính và cải thiện cách thức cho vay. Quá trình công khai hoá thông
tin và cơ cấu lại các khoản nợ chắc chắn sẽ khiến các ngân hàng và các công ty tài chính bị
thiệt hại nặng nề nhất. Bởi vì việc công nhận thiệt hại ở các khoản nợ khó đòi và tính lỗ
vào doanh thu sẽ không đủ riêu chuẩn cung cấp những khoản tín dụng mới. Sự trục trặc
của các ngân hàng sẽ làm tăng những khó khăn về vốn cho các doanh nghi ệp, đặc biệt
doanh nghiệp vừa và nhỏ vì hoạt động tài chính của hầu hết các doanh nghiệp là dựa vào
các ngân hàng. Do số lợng các doanh nghi ệp này chiếm tới 6,47 triệu trong tổng số 6,53
triệu doanh nghi ệp, chiếm 51,4% thị phần sản xuất công nghiệp, 61,4% bán sỉ và 76,8%
bán lẻ, sử dụng tới 80% lực lợng lao động nên Nhật Bản đã tiến hành sửa đổi luật doanh
nghiệp vừa và nhỏ nhằm giúp giảm thiểu tác động trái chiều của những cải cách ngân hàng
- nêu trên (Nguyễn Minh Phong – Trịnh Thanh Huyền, Cải cách hệ thống tài chính Nhật
Bản những năm cuối thập kỷ 90 và bài học cho Việt Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội).
Bên cạnh việc xin bơm vốn, các ngân hàng cũng có kế hoạch sáp nhập thành các tập
đoàn ngân hàng lớn hoặc thành lập liên minh để chuẩn bị cho việc tự do hoá hoàn toàn
hoạt động môi giới. Chẳng hạn, ngân hàng Sumitomo Trust và công ty Sumitomo, Dai-
Ichi Kangyo và Fuji đã sáp nhập các công ty cổntng lĩnh vực ngân hàng và có kế hoạch
mua công ty quản lý tài sản của Yasuda Trust. Công ty Sumitomo cũng đã cùng với công
ty chứng khoán Daiwa thành lập một công ty chuyên kinh doanh công trái, cổ phiếu, môi
giới sáp nhập và mua lại cổ phiếu. Ngân hàng lớn nhất Nhật Bản là Tokyo-Mitsubishi
cũng đàm phán để mua lại công ty Nomura- một trong 3 công ty môi giới chính của Nhật
Bản. Ba ngân hàng hàng đầu của Nhật Bản là ngân hàng công nghiệp Nhật Bản, Dai- Ichi
Kangyo Bank Ltd, và Fuji Bank Ltd. vào đầu năm 2000 đã liên minh với nhau để tạo ra
nhóm ngân hàng lớn nhất thế giới với tổng tài sản là 140 nghìn tỷ Yên (1.260 tỷ USD),
trong đó giá trị tài sản của Fuji Bank là 385 tỷ USD và của ngân hàng công nghiệp Nhật
Bản là 370 tỷ USD, Dai- Ichi Kangyo Bank là 456 tỷ USD. Trớc đó ngày 14/10/1999, hai
NHTM lớn nhất Nhật Bản là Sumitomo Bank và Skura Bank đã chính thức công bố sẽ sáp
nhập với nhau để thành lập một ngân hàng khổng lồ, lớn thứ 2 thế giới với tổng tài sản là
99 nghìn tỷ Yên (927 tỷ USD) vào tháng 4/2002. Đây là một hớng đi mới để tăng thêm
khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Nhật Bản trong xu thế toàn cầu hoá và sự thay đổi
nhanh chóng của công nghệ thông tin.
Tuy nhiên các NHTM của Nhật Bản vẫn trong tình trạng làm ăn không có lãi. Trong
hơn một thập kỷ qua, các ngân hàng trong cả nớc đã sử lý hơn 70 nghìn tỷ nợ khó đòi
nhng vẫn còn nhiều khoản nợ xấu. Vì vậy, giờ đây để để kiếm lãi ổn định và ít mạo hiểm
hơn các ngân hàng chỉ muốn cho các công ty lớn vay. Trong thời đại ngày nay điểm đến
của các khoản nợ mới là các công ty vừa và nhỏ bởi vì các công ty lớn có thể thu hút vốn
trực tiếp từ thị trờng tài chính toàn cầu nên họ không cần dựa nhiều vào ngân hàng Nhật
Bản.
Nh vậy, mục cải cách các NHTM của Nhật Bản là Nhằm giảm bớt sự bảo hộ của
Nhà nớc, nâng mức lợi nhuận của ngân hàng bằng những hoạt động kinh doanh đa dạng
hơn và tiến tới có một hệ thống NHTM có khả năng cạnh tranh cao trong bối cảnh
chungcủa toàn cầu hoá tài chính.
2. Các chính sách cải cách Bộ Tài chính
Đối với Nhật Bản, Bộ Tài chính là nơi thể hiện rõ nhất những đặc điểm và sắc thái
của Nhà nớc tham gia vào đời sống kinh tế của đất nớc. Sức mạnh của Bộ Tài chính lớn
đến mức chính sách của Bộ Tài chính là chính sách của Chính phủ. Thẩm quyền của Bộ
Tài chính rất rộng lớn nh: lập dự toán và quyết toán ngân sách, thu thuế các loại, theo dõi
hoạt động của các tổ chức tài chính, quản lý tài sản nhà nớc, kể cả đề xuất và thực hiện t
nhân hoá… Có thể nói không ở nớc nào Bộ Tài chính có sự tập trung quyền lực lớn nh ở
Nhật Bản. Từ trớc đến nay hệ thống tài chính của Nhật Bản vẫn dựa vào ngân hàng là
nguon tai.lieu . vn