Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA THỦY SẢN ĐỖ TIẾN HẢO TÌNH HÌNH XUẤT HIỆN BỆNH MỦ GAN TRÊN CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) NUÔI THÂM CANH Ở MỘT SỐ TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN 2009
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA THỦY SẢN ĐỖ TIẾN HẢO TÌNH HÌNH XUẤT HIỆN BỆNH MỦ GAN TRÊN CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) NUÔI THÂM CANH Ở MỘT SỐ TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN CÁN BỘ HƯỚNG DẪN Ths. NGUYỄN THỊ THU HẰNG 2009
  3. LỜI CẢM TẠ Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến với giáo viên hướng dẫn đề tài là cô Nguyễn Thị Thu Hằng và cô Đặng Thị Hoàng Oanh đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ tôi thực hiện đề tài nghiên cứu này. Tôi cũng xin cám ơn đến toàn thể Quý Thầy Cô và cán bộ Khoa Thủy Sản - Trường Đại Học Cần Thơ đã chỉ dẫn tận tình và truyền đạt cho tôi những kiến thức, kinh nghiệm quí báo trong thời gian học ở trường. Đồng thời cảm ơn đến tất cả các bạn lớp Bệnh Học Thủy Sản K31, tập thể anh em P6C1 cùng gia đình đã hết lòng giúp đỡ động viên tôi vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Xin chân thành cảm ơn! i
  4. MỤC LỤC LỜI CẢM TẠ ................................................................................................................... i TÓM TẮT........................................................................................................................ ii MỤC LỤC ...................................................................................................................... iii CÁC CHỮ VIẾT TẮT.................................................................................................... iv CHƯƠNG I ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................. 1 1.1 Giới thiệu ................................................................................................................... 1 1.2 Mục tiêu ..................................................................................................................... 2 1.3 Nội dung..................................................................................................................... 2 CHƯƠNG II LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU .......................................................................... 3 2.1 Tình hình nuôi cá tra trên thế giới và trong nước ...................................................... 3 2.1.1 Tình hình nuôi cá tra trên thế giới........................................................................... 3 2.1.2 Tình hình nuôi cá tra thâm canh ở Việt Nam.......................................................... 4 2.2 Tình hình dịch bệnh trong nuôi thâm canh cá tra ở Việt Nam................................... 5 2.3 Tình hình bệnh trên cá tra ở ĐBSCL ......................................................................... 6 2.4 Vi khuẩn Edwardsiella ictaluri gây bệnh mủ gan trên cá tra (pangasianodon hypophthalmus).......................................................................................................... 8 2.4.1 Đặc điểm sinh hóa................................................................................................... 8 2.4.2 Phân bố địa lý và mùa vụ xuất hiện ........................................................................ 9 2.4.3 Các yếu tố ảnh huởng đến khả năng bộc phát của vi khuẩn E. ictaluri.................. 9 2.4.4 Dấu hiệu bệnh lý, chẩn đoán và điều trị................................................................ 10 2.5 Thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản ........................................................... 10 CHƯƠNG III PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................................... 14 3.1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu............................................................................ 14 3.2 Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 14 3.2.1 Thu thập các thông tin sơ cấp ............................................................................... 14 3.2.2 Thu thập các thông tin thứ cấp ............................................................................. 15 3.2.3 Phương pháp xử lý số liệu và phân tích số liệu .................................................... 15 CHƯƠNG IV KẾT QUẢ THẢO LUẬN ...................................................................... 16 4.1 Kết quả điều tra tình hình xuất hiện bệnh mủ gan do E. ictaluri ở Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang và Cần Thơ................................................................................. 16 4.1.1 Kết quả khảo sát diện tích, mật độ, nguồn nước và mùa vụ xuất hiện bệnh mủ gan................................................................................................................... 16 4.1.2 Những bệnh thường gặp ở cá tra nuôi thâm canh ................................................. 17 4.2 Kết quả điều tra tình hình sử dụng thuốc/hóa chất phòng trị bệnh mủ gan .. 19 4.2.1 Mục đích sử dụng thuốc/hóa chất ......................................................................... 19 4.2.2 Hóa chất khử trùng và diệt tạp.............................................................................. 19 4.2.3 Kháng sinh dùng trị bệnh cho cá tra ..................................................................... 21 CHUƯƠNG V KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT ................................................................. 24 5.1 Kết luận.................................................................................................................... 24 5.2 Đề xuất ..................................................................................................................... 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 25 PHỤ LỤC....................................................................................................................... 28 iii
  5. TÓM TẮT Đề tài “Tình hình xuất hiện bệnh mủ gan trên cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) nuôi thâm canh ở một số tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long” được thực hiện nhằm cung cấp thông tin về bệnh mủ gan, các loại hóa chất/thuốc mà các hộ nuôi dùng trong quản lý và ngăn chặn sự lây lan của bệnh trong ao nuôi cá tra thâm canh. Kết quả điều tra 40 hộ nuôi cá tra ở Đồng Tháp (10 hộ), An Giang (10 hộ), Vĩnh Long (10 hộ), Cần Thơ (10 hộ) cho thấy bệnh mủ gan xuất hiện quanh năm ở các ao cá giống lẫn cá thịt. Ở Đồng Tháp có 8/10 hộ nuôi cá bị bệnh mủ gan, chiếm 80%; An Giang có 6/10 hộ, chiếm 60%; Vĩnh Long có 8/10 hộ, chiếm 80%; Cần Thơ có 7/10 hộ, chiếm 70% số hộ khảo sát. Khi cá tra bị bệnh mủ gan, hầu hết các hộ nuôi cá đều sử dụng một số loại hóa chất và kháng sinh để phòng trị bệnh, một trong những hóa chất thường được dùng trong cải tạo môi trường nuôi là vôi (100%) và muối (80-90%), và những loại kháng sinh điều trị bệnh mủ gan là Florfenicol (50-80%), Enrofloxacin (50-80%), Amoxicillin (30-60%). ii
  6. CHƯƠNG I ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1 Giới thiệu Nghề nuôi trồng thuỷ sản đang ngày một phát triển và trở thành một ngành có đóng góp đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu. Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) có truyền thống nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) từ rất lâu đời, cá tra được nuôi phổ biến trong ao đất và trong bè. Hiện nay, cá tra đã được nuôi ở hầu hết các tỉnh trong vùng, cá tra còn chiếm nhiều ưu thế bởi vì nó dễ nuôi, kích cỡ lớn, tăng trọng nhanh, dễ dàng thích nghi với các loại thức ăn và là loài có sức chịu đựng tốt trong điều kiện môi trường khắc nghiệt nên có thể nuôi ở mật độ cao với các loại hình thuỷ vực khác nhau từ ao nhỏ, hồ lớn cho đến những bè lớn thả trên sông. Những năm gần đây, việc nuôi cá tra phát triển mạnh nhằm phục vụ tiêu thụ nội địa và cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Đặc biệt từ khi chúng ta hoàn toàn chủ động về giống nhân tạo thì nghề nuôi càng ổn định và có những bước phát triển vượt bậc (Dương Nhật Long, 2003). Cá tra là một trong các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chủ lực của các tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang và Cần Thơ… Từ năm 1996-2006, diện tích nuôi cá tra, basa tăng gấp 7 lần, sản lượng tăng 36,2 lần, từ 22.000 tấn năm 1997 đã tăng lên 800.000 tấn vào năm 2006 (Nguyễn Trọng Bình, 2008). Sản phẩm thuỷ sản không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra thế giới, năm 2004 cả nước xuất khẩu thuỷ sản thu về 240 triệu USD và năm 2006 là 661 triệu USD. Hiện nay cá tra đã được xuất khẩu sang 80 quốc gia (Bộ Thuỷ Sản, 2007). Để có sản lượng như thế ngoài việc tăng diện tích nuôi thì người nuôi còn tăng mật độ nuôi làm xuất hiện nhiều loại bệnh như mủ gan, bệnh đốm đỏ, bệnh xuất huyết, một số bệnh nấm, kí sinh trùng … Trong đó, bệnh mủ gan do vi khuẩn Edwardsiella ictaluri gây thiệt hại nhiều cho nghề nuôi cá tra thâm canh trong những năm gần đây. Ở Việt Nam bệnh mủ gan được phát hiện lần đầu tiên năm 1998 trên cá tra, thỉnh thoảng trên cá basa, xuất hiện ở tất cả cá giai đoạn của cá tra (Từ Thanh Dung và ctv, 2005). Đầu năm 2006 các tỉnh An Giang và Đồng Tháp, cá chết do bệnh mủ gan lên tới 60% (Tài nguyên và môi trường Việt Nam, 2006; trích dẫn bởi Lương Trần Thục Đoan, 2006). Kết quả điều tra bệnh mủ gan trên cá tra nuôi thâm canh ở An Giang của Crumlish et al. (2006) cũng cho thấy có đến 55% các hộ nuôi cá bị nhiễm bệnh mủ gan. Theo kết quả nghiên cứu của Lương Trần Thục Đoan (2006), thí nghiệm cảm nhiễm (ngâm và tiêm) cá tra với dòng vi khuẩn E. ictaluri 224 ở nhiều nồng độ khác nhau cho thấy sự xuất hiện đầu tiên của vi khuẩn E. ictaluri ở cơ quan máu cá kế đến các cơ quan não, cơ, tim, mang, thận, gan, tỳ tạng và bóng hơi định đường xâm nhập của vi khuẩn. Kết quả, thấy cá chết và vi khuẩn xuất hiện ở các cơ quan máu, não, cơ, tim, mang, thận, gan, tỳ tạng và bóng hơi. Kết quả này cho thấy sự xâm nhập của vi khuẩn E. ictaluri bằng phương pháp tiêm xuất hiện ở ngày thứ 2 và bằng phương pháp ngâm xuất hiện ở ngày thứ 3. 1
  7. Trước tình hình đó thì những hộ nuôi đã sử dụng nhiều kháng sinh để trị bệnh cho cá nhưng dùng kháng sinh quá nhiều cũng gây ảnh hưởng đến chất lượng của cá. Nên ngày nay, xu hướng chung trên thế giới là tìm mọi cách nhằm hạn chế tối đa việc sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản. Xác định đúng các tác nhân gây bệnh và các tác động của yếu tố môi trường dẫn đến bệnh bộc phát trong hệ thống nuôi để tìm ra mối quan hệ nhằm mục đích đóng góp một phần thông tin khi nghiên cứu sâu về bệnh mủ gan trên cá tra bị nhiễm E. ictaluri cho người nuôi. Từ mục đích đó “Tình hình xuất hiện bệnh mủ gan trên cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) nuôi thâm canh ở một số tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long” đã được thực hiện. Góp phần cung cấp thông tin về bệnh mủ gan trong quản lý và ngăn chặn sự lây lan của bệnh cho nghề cá tra thâm canh ở nước ta. 1.2 Mục tiêu Nhằm nắm được hiện trạng bệnh mủ gan trên cá tra thâm canh hiện nay để từ đó cung cấp thêm thông tin cơ sở cho việc quản lý nghề nuôi cá tra ở một số tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long. 1.3 Nội dung - Điều tình hình xuất hiện bệnh mủ gan (E. ictaluri) trên cá tra nuôi thâm canh ở Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang và Cần Thơ. - Điều tra hiện trạng sử dụng thuốc/hóa chất trong mô hình nuôi cá tra thâm canh ở Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang và Cần Thơ. 2
  8. CHƯƠNG II LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2.1 Tình hình nuôi cá tra trên thế giới và trong nước 2.1.1 Tình hình nuôi cá tra trên thế giới Cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) và cá basa (Pangasius bocourti) là hai trong số các loài cá thuộc họ cá da trơn có giá trị kinh tế cao được phân bố ở một số nước Đông Nam Á như Campuchia, Thái Lan, Indonesia, Việt Nam. Cá tra được nuôi hầu hết ở các nước Đông Nam Á và là một trong các loài cá nuôi quan trọng trong khu vực này. Ở Campuchia, sản lượng nuôi cá tra chiếm bằng một nửa sản lượng các loài cá nuôi, trong đó tỷ lệ cá tra chiếm 98% trong 3 loài thuộc họ cá tra, chỉ có 2% là cá basa và cá vồ đém. Tại Thái Lan chỉ đứng sau cá rô phi Tilapia nilotica và Thái Lan cũng chính là nước đầu tiên thành công trong sinh sản nhân tạo cá tra vào năm 1966, đến năm 1970 đã chủ động cung cấp giống cho nghề nuôi cá tra trong nước ... (Lê Minh Toán và Bùi Huy Cộng, 2003; Phan Minh Tân, 2005). Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan là những nước sản xuất cá da trơn hàng đầu thế giới với sản lượng hàng năm hơn 1 triệu tấn. Trong đó Mỹ là thị trường tiêu thụ cá da trơn lớn nhất trên thế giới (Phan Minh Tân, 2005). Sản lượng cá da trơn đang ngày một phát triển tại Trung Quốc. Năm 2003, Trung Quốc bắt đầu xuất khẩu phi-lê cá da trơn (Ictalurus punctatuc) vào thị trường Mỹ. Tổng sản lượng mặt hàng này trong năm 2007 đạt hơn 20.000 tấn và chủ yếu là xuất sang Mỹ. Tăng gấp 6 lần so với năm 2006 và trở thành nhà cung cấp chính cho thị trường Mỹ (Viettrade, 2007; Josupeit, 2007; trích dẫn bởi Nguyễn Tấn Duy Phong, 2008). Cá da trơn (Pangasius spp.) đã được sinh sản và nuôi thành công tại Pueto Rico với kết quả đạt được giống như ở châu Á (34 tấn/ha). Điều này có ý nghĩa quan trọng và mở ra cơ hội giới thiệu và phát triển nghề nuôi cá da trơn vùng nhiệt đới Trung và Nam Mỹ như là đối tượng nuôi tìm năng cho cả vùng (McGee và Mace, 2006; trích dẫn bởi Nguyễn Tấn Duy Phong, 2008). Trong tổng số cá da trơn được sản xuất trên thế giới trong năm 2005, thì Mỹ chiếm 18% tổng sản lượng. Những quốc da nuôi cá da trơn khác bao gồm Trung Quốc (chiếm 32%), Việt Nam (25%), Thái Lan (9,0%), Indonexia (7,0%), và Ấn Độ (3,0%) (Bảng 2.1). Từ năm 2003 đến năm 2005 sản lượng cá da trơn ở Nigeria tăng 234% trong khi ở Việt Nam tăng 131% và ở Trung Quốc cũng tăng 50,0% (USDA, 2007). 3
  9. Bảng 2.1 Muời nước sản xuất cá da trơn nhiều nhất trên thế giới năm 2005 Cá da trơn Quốc gia Sản lượng (1.000 pounds) Trung Quốc 956.008 Việt Nam 752.000 Mỹ 551.508 Thái Lan 261.568 Indonexia 204.180 Ấn Độ 88.106 Nigeria 71.338 Malaysia 49.378 Hà Lan 8.400 Brazil 7.464 Tổng sản lượng 3.026.644 Nguồn: FAO, Fishstat Plus, 2007 trích bởi USDA, 2007 2.1.2 Tình hình nuôi cá tra thâm canh ở Việt Nam Theo Vinanet, năm 2007, dự báo nhu cầu tiêu thụ cá da trơn nói chung trên thế giới vẫn tiếp tục tăng cao. Với ước tính sản lượng nuôi đạt 1 triệu tấn năm 2007, ngành nuôi cá tra, basa của Việt Nam sẽ vượt qua ngành nuôi cá hồi của Na Uy hoặc của Chile, thậm chí còn vượt qua sản lượng cá rô phi của nước láng giềng Trung Quốc (Viettrade, 2007). Họ cá da trơn Pangasidea tập trung ở một số nước Đông Nam Á, nơi hoạt động nuôi cá lồng, cá đăng quầng trên sông, hay ao theo quy mô nhỏ của nông dân ngày càng phát triển. Tại Việt Nam, cá da trơn được nuôi chủ yếu ở ĐBSCL, phổ biến là cá tra và cá basa. Cá giống phụ thuộc vào nguồn vớt tự nhiên. Người nuôi cá phải mua cá con của ngư dân vớt trong mùa cá bột chảy theo sông Mê Kông từ Lào và Campuchia nhưng khá giới hạn về số lượng (Nguyễn Xuân Thành, 2004; Thanh Tung và ctv, 2003; McGee và Mace, 2006). Từ tháng 8 năm 1994, khoa Thuỷ sản trường Đại học Cần Thơ đã kết hợp với CIRAD (Pháp) và công ty Agifish (An Giang) nghiên cứu thành công việc sinh sản nhân tạo cá basa (Thoại Sơn, 2006). Từ đó, con giống với số lượng lớn và chi phí thấp được cung cấp thường xuyên cho nông dân. Theo ước tính của các cơ quan sản xuất giống, chi phí con giống giảm 2/3 so với trứơc. Bên cạnh đó, những nghiên cứu về công nghệ nuôi với việc đưa thức ăn viên vào cũng đã giúp rút ngắn thời gian nuôi và giảm tối thiểu được lượng thức ăn cho 1 kg tăng trọng (Nguyễn Xuân Thành, 2003). Hoạt động nuôi cá tra, cá basa bắt đầu phát triển dưới hình thức bè cá và hầm cá, dọc hai bờ sông Hậu thuộc tỉnh An Giang và Đồng Tháp (Thanh Tùng và ctv, 2004; Nguyễn Xuân Thành, 2003). Nuôi cá bè, vốn được du nhập theo kinh 4
  10. nghiệm của ngư dân trên hồ Tông-lê-sáp của Campuchia, nhanh chóng trở thành hình thức chủ yếu nuôi cá tra và basa. Thị xã Châu Đốc của An Giang là nơi tập trung chủ yếu của các bè cá và cũng là nơi cung cấp cá giống chính yếu của cả vùng (Nguyễn Xuân Thành, 2003). Ngoài ra, cá tra giống cũng được mua số lượng lớn từ huyện Tân Châu (An Giang) và Hồng Ngự (Đồng Tháp) (Huỳnh Thị Tú và ctv, 2006). ĐBSCL là nơi có điều kiện thuận lợi để nuôi cá tra và cá basa, bởi những điều kiện tự nhiên về môi trường nước, sinh thái ... Mỗi năm diện tích nuôi cá tra, basa đều tăng. Chi phí sản xuất thấp là yếu tố quan trọng tạo ra sự gia tăng sản lượng cá nhanh chóng khi các cơ hội về thị trường được mở ra. Sản lượng cá tra tại ĐBSCL liên tục tăng, trong đó nghề nuôi cá tra thâm canh ở An Giang luôn dẫn đầu về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu (Thanh Tùng và ctv, 2004) với sản lượng năm 2007 là 216.326 tấn. Ở một nhánh khác của sông Mê Kông, sản lượng cá tra toàn tỉnh Đồng Tháp năm 2007 là 200.000 tấn (Lý Thị Thanh Loan, 2008). (Bảng 2.2). Từ hai tỉnh đầu nguồn là An Giang và Đồng Tháp, nghề nuôi cá tra và basa đã lan nhanh đến Cần Thơ, Bến Tre, Kiên Giang, Vĩnh Long ... nhằm tận dụng tiềm năng tự nhiên sẵn có để phát triển nghề nuôi cá tra thâm canh mang lại hiệu quả cao (Nguyễn Xuân Thành, 2003; Trần Thanh Hoan, 2008). Bảng 2.2 Sản lượng và tỷ lệ diện tích nuôi cá tra của 4 tỉnh khu vực ĐBSCL 2005 2006 2007 Tỷ lệ diện tích (%) năm 2007 An Giang 145.510 145.421 216.526 30.32 Đồng Tháp 81.400 100.587 200.000 34.14 Cần Thơ 93.000 131.271 154.000 28.03 Vĩnh Long 31.500 37.100 98.000 6,51 Tổng 351.410 414.379 668.526 99 Nguồn: MOFI và WB, 2006; Lý Thị Thanh Loan, 2008, Lê Xuân Sinh và ctv, 2008 2.2 Tình hình dịch bệnh trong nuôi thâm canh cá tra ở Việt Nam Với xu hướng thâm canh trong nghề nuôi cá tra thì bệnh cá xảy ra là điều khó có thể tránh khỏi. Bệnh là nguyên nhân gây thất thóat cho cá nuôi. Nếu không điều trị kịp thời, bệnh sẽ lây lan nhanh chóng và dẫn đến kết quả không mong muốn. Bên cạnh đó do quy định sử dụng kháng sinh trên cá rất khắt khe nên người nuôi sử dụng phương pháp phòng bệnh là chính, hạn chế tối đa việc sử dụng kháng sinh và đặc biệt là không sử dụng thuốc/hóa chất trong danh mục cấm của Bộ Thuỷ Sản (MOFI và WB, 2006). Các bệnh của cá tra, basa được xem là vấn đề lớn thứ hai (sau vấn đề thị trường) trong các hệ thống nuôi ở ĐBSCL. Các bệnh này có vẻ khó kiểm soát và điều trị hiệu quả đối với nông dân nuôi cá tra, basa. Phòng chống dịch bệnh được coi là 5
  11. việc làm chủ yếu trong quản lý sức khoẻ cho cá hiện nay. Theo khảo sát của CIRAD (2001) thì có hai bệnh xuất hiện trong nuôi cá tra là bệnh đốm đỏ và đốm trắng, tăng mạnh vào mùa nắng và giảm dần trong mùa mưa (Nguyễn Xuân Thành, 2004). Kết quả điều tra tại An Giang và Cần Thơ cho thấy các loại bệnh phổ biến trong nuôi cá tra thâm canh như sau: Bệnh mủ gan, bệnh đốm đỏ, bệnh phù đầu, bệnh lở loét, trắng mang-trắng đuôi, lồi mắt-nổ mắt, nấm thuỷ mi, xuất huyết đường ruột, ký sinh trùng. Trong đó bệnh thường gặp và gây thiệt hại lớn là: bệnh gan thận mủ với tỉ lệ chết lên đến 80-90% nếu không có biện pháp điều trị kịp thời. Kế đó là những bệnh phù đầu, mắt lồi, nổ mắt với tỉ lệ cá chết lên đến 60-70% (Nguyễn Chính, 2005). Còn theo thống kê cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thuỷ sản trong năm 2006 thì bệnh phổ biến trong cá nuôi ao là mủ gan, xuất huyết, ký sinh trùng và phù đầu (NAFIQAVED, 2007). Một số bệnh của cá tra, basa trong những năm gần đây tại ĐBSCL được tóm tắt trong bảng 2.3. (Bộ Thuỷ Sản và Ngân hàng Thế Giới, 2006). Bảng 2.3 Một số bệnh phổ biến của cá tra, basa trong những năm gần đây Tên bệnh Mức độ Bệnh xuất huyết Mức cao Hoại tử bacillary ở cá tra, basa Mức cao (gây thiệt hại cao nhất) Bệnh nổ mắt Mức trung bình Bệnh vàng da Mức trung bình Nguồn: MOFI và WB, 2006 Theo đánh giá sơ bộ của Chi cục Thuỷ sản Cần Thơ trong năm 2007 tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, tuy cùng các bệnh đã có xuất hiện ở những năm trước nhưng ở mức độ phức tạp hơn. Trong đó bệnh mủ gan là vấn nạn của người nuôi cá tra với mức thiệt hại có thể lên đến 100%, tiếp đến là do nhiễm sán lá, xuất huyết nội tạng tỷ lệ hao hụt từ 30-35%. Theo nhận định thì tỉ lệ cá bệnh chết cao gấp 3-4 lần so với các năm trước. Nguyên nhân gây ra bệnh cá tra là do nuôi mật độ cao và điều kiện thời tiết diễn biến phức tạp, những đợt không khí lạnh xuất hiện đã ảnh hưởng đến sức khoẻ cá nuôi. Ngoài ra một số yếu tố khác như dịch bệnh trên lúa, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật của nông dân cũng nhiều hơn truớc, và chất thải từ đồng ruộng thải ra môi trường ngoài làm tăng bội nhiễm môi trường từ đó cá dễ nhiễm bệnh hơn. 2.3 Tình hình bệnh trên cá tra ở ĐBSCL Cá tra, basa cũng như nhiều loài cá nước ngọt khác, dễ bị nhiễm nhiều loại bệnh phổ biến, các tác nhân gây bệnh cho cá gồm 2 nhóm là các bệnh truyền nhiễm (do virus, vi khuẩn và ký sinh trùng) và tác nhân không truyền nhiễm do môi trường, 6
  12. dinh dưỡng. Theo Từ Thanh Dung (2006) thì tần số xuất hiện bệnh vi khuẩn trên động vật thủy sản là cao nhất với 50,9%. Cũng theo điều tra của Lê Phú Khởi (2006) tại An Giang đã ghi nhận được một số bệnh xuất hiện trên cá tra với tần suất khác nhau từ năm 2004 trở lại đây là: bệnh đốm đỏ, mủ gan, ký sinh trùng, thối đuôi, vàng da, đường ruột, nổ mắt, tuột nhớt, rong bè (bỏ ăn), sưng thận, nấm, thối mang. Trong đó bệnh mủ gan xảy ra với tần suất cao nhất. Vi khuẩn E. ictaluri được Hawke (1979) phân lập đầu tiên trên cá Nheo nuôi tại châu Mỹ (Ictalurus punctatus) và được xác định là nguyên nhân gây bệnh ESC (Enteric septicaemia of catfish). Còn ở Việt Nam E. ictaluri gây bệnh trên cá tra được gọi bệnh mủ gan. Bệnh được ghi nhận đầu tiên ở ĐBSCL vào cuối năm 1998 trên cá tra nuôi bè với dấu hiệu bệnh có nhiều nốt trắng trên gan (Ferguson và ctv, 2001). Theo Từ Thanh Dung và ctv (2004) vùng ĐBSCL bệnh mủ gan xuất hiện đầu tiên ở các tỉnh nuôi cá tra thâm canh phát triển mạnh như Vĩnh Long, Đồng Tháp và Cần Thơ, sau đó bệnh lây lan sang các vùng lân cận. Đặc biệt những năm gần đây bệnh cũng xuất hiện ở một số tỉnh mới phát triển nuôi cá tra như Trà Vinh, Bến Tre và Sóc Trăng. Cá bị bệnh mủ gan không có dấu hiệu bất thường bên ngoài. Ở giai đoạn mới chớm bệnh cá vẫn còn bắt mồi. Tuy nhiên ở giai đoạn này nếu không phát hiện sớm và môi trường nuôi quá bẩn thì bệnh cá sẽ trở nên trầm trọng hơn và rất khó khăn trong điều trị. Khi bị bệnh nặng hơn, cá có biểu hiện gầy, bơi lờ đờ, da nhợt nhạt, có hiện tượng xuất huyết trên da và hậu môn. Bên trong nội tạng (gan, thận, tỳ tạng) xuất hiện những đốm trắng đường kính 1-3mm và các cơ quan này sưng to và có hiện tượng nhũn ở thận. Bệnh mủ gan có thể xảy ra trên cá tra nuôi ở tất cả các giai đoạn, tỉ lệ hao hụt có thể lên đến 90% (Nguyễn Quốc Thịnh và ctv, 2003), tỉ lệ hao hụt ở cá tra giống có thể từ 10-90%, nhưng gây thiệt hại kinh tế lớn nhất là ở giai đoạn cá có trọng lượng từ 300- 500g (Từ Thanh Dung và ctv, 2004). Đầu năm 2006, bệnh mủ gan đã gây thiệt hại nghiêm trọng với cá tra nuôi thâm canh ở hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp cá chết lên tới 60% (Bộ tài nguyên môi trường Việt Nam, 2006). Kết quả điều tra của Từ Thanh Dung (2005) cho biết bệnh mủ gan thường bắt đầu xuất hiện vào tháng 5 và phát triển mạnh nhất vào khoảng tháng 7 đến tháng 10 rồi giảm xuống ở các tháng còn lại. Đặc biệt bệnh mủ gan xuất hiện cao nhất vào thời gian lũ về với tỉ lệ 85,4% số hộ nuôi cá ở An Giang bị nhiễm bệnh (Trần Anh Dũng, 2005). Lê Thị Bé Năm (2002) cũng cho rằng bệnh xuất hiện mạnh vào mùa lũ trong năm, nước đục mang nhiều phù sa, chất lượng nước biến động, đồng thời nước chảy mạnh làm cá dễ bị sốc, giảm khả năng đề kháng đối với mầm bệnh. Ngoài ra, Trương Quốc Phú (2004) còn cho rằng nhiệt độ nước dao động trong khoảng 26oC-28oC là điều kiện tốt cho vi khuẩn E.ictaluri phát triển và gây bệnh. 7
  13. 2.4 Vi khuẩn Edwardsiella ictaluri gây bệnh mủ gan trên cá tra (pangasianodon hypophthalmus) Bệnh mủ gan xuất hiện lần đầu tiên vào cuối năm 1998 và có tên là bệnh do vi khuẩn hình que gây hoại tử trên cá tra (BNP-Bacillary Necrosis of Pangasius) (Ferguson và ctv, trích dẫn bởi Từ Thanh Dung, 2005). Trong 10 năm gần đây đã trở thành một bệnh phổ biến, gây thiệt hại lớn về kinh tế ở các vùng nuôi cá tra thâm canh. Theo nghiên cứu trước đây cho rằng bệnh mủ gan không tìm thấy trên đối tượng cá basa mà chỉ xuất hiện trên cá tra. Theo Ferguson và ctv (2001) giải thích nguyên nhân có thể là kết quả của sự khác biệt về tính nhạy cảm của loài (trích dẫn bởi Phan Thị Mỹ Hạnh, 2004; Lê Thị Bé Năm, 2002). Nhưng kết quả nghiên cứu gần đây cho rằng bệnh mủ gan chủ yếu xuất hiện trên cá tra, thỉnh thoảng xuất hiện trên cá basa (Từ Thanh Dung, 2005) bệnh xuất hiện ở tất cả các giai đoạn phát triển của cá tra. Tỉ lệ hao hụt lớn ở cá giống nhưng gây thiệt hại kinh tế lớn nhất ở giai đoạn cá đạt trọng lượng khoảng 300-500g. 2.4.1 Đặc điểm sinh hóa Vi khuẩn E. ictaluri được mô tả đầu tiên bởi Hawke et al. (1981) là vi khuẩn thuộc họ Enterobacteriaceae, vi khuẩn gram âm, hình que ngắn, kích thước khoảng 0.75x1,5-2,5 µm, di động ở 25-300C và di động yếu hoặc không khi di động khi nhiệt độ cao hơn 300C. Sau đó, Waltman et al. (1986) khi nghiên cứu 119 dòng vi khuẩn E. ictaluri báo cáo rằng tất cả các dòng vi khuẩn kiểm tra đều cho phản ứng dương tính với methyl red, nitrate, lysine, ornithine và catalase. Cũng theo kết quả của nghiên cứu này thì 100% dòng vi khuẩn kiểm tra cho phản ứng âm tính với citrate, voges-proskauer, arginine, oxidase và urea. Đặc điểm sinh hóa của vi khuẩn E. ictaluri tiếp tục được Shotts and Teska (1989) nghiên cứu bổ sung. Theo hai tác giả này thì ngoài những đặc điểm trên thì vi khuẩn E. ictaluri còn cho phản ứng cytochrome, oxidase âm tính và có khả năng lên men và sinh sản phẩm NO 3- từ NO2-. Khuẩn lạc phát triển trên môi trường BHI agar sau 36-48 giờ ở nhiệt độ 28-300C (Plumb, 1999). Môi trường đặc trưng là EIA (Edwardsielle ictaluri Agar). Bên cạnh đó, theo Từ Thanh Dung và ctv (2003) cho rằng vi khuẩn E. ictaluri phân lập từ cá tra có một số đặc điểm khác với mô tả Plumb (1999) như có dạng hình que và có kích thước biến đổi, phát triển tốt ở 280C và phát triển yếu ở 370C. Điều này lý giải tại sao E. ictaluri cho tới nay chỉ phát hiện trên cá mà chưa tìm thấy ở các loài động vật máu nóng khác như chim, gia súc, heo, động vật có vú ở biển. Theo Lương Trần Thục Đoan (2006), khi kiểm tra đặc điểm sinh hóa của vi khuẩn E. ictaluri 224 phân lập trên cá tra ở Việt Nam thì chỉ tiêu citrate cho kết quả dương tính, đây là điểm khác biệt so với vi khuẩn E. ictaluri phân lập trên cá nheo. 8
  14. 2.4.2 Phân bố địa lý và mùa vụ xuất hiện Bệnh mủ gan phân bố chủ yếu ở vùng ĐBSCL. Bệnh xuất hiện lần đầu tiên vào mùa lũ năm 1998 ở các tỉnh nuôi cá tra mạnh như An Giang và Cần Thơ. Sau đó lây lan sang các vùng lâm cận. Đặc biệt, những năm gần đây, bệnh này cũng xuất hiện ở một số tỉnh mới phát triển nghề nuôi cá tra như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng … Hiện tại bệnh mủ gan đã lây lan khắp các tỉnh ĐBSCL và xem như là bệnh không thể tránh khỏi (Từ Thanh Dung, 2005). Mùa vụ xuất hiện bệnh mủ gan là thường vào mùa lũ, đỉnh điểm vào tháng 7, tháng 8 (mùa mưa). Tuy nhiên trong vài năm gần đây, bệnh này xuất hiện trên cá tra hầu như quanh năm. Trong một vụ nuôi, bệnh có thể xuất hiện ít nhất 3-4 lần, gây hao hụt 20-60% phụ thuộc vào chế độ chăm sóc và vệ sinh ao (Từ Thanh Dung, 2005). Cũng theo Từ Thanh Dung cho đến nay bệnh mủ gan hướng lan truyền theo chiều ngang lây lan trực tiếp từ cá bệnh sang cá khoẻ, qua phân, qua môi trường nước. Vi khuẩn E. ictaluri sống trong môi trường nước ao 1-2 tuần, trong bùn đáy ao và cây cỏ thuỷ sinh, vi khuẩn có thể tồn tại 90 ngày ở nhiệt độ 250C (Plumb, 1999). Vì thế, bệnh mủ gan có thể kéo dài, chí phí điều trị rất tốn kém và mầm bệnh lưu giữ trong bùn đáy và môi trường đến vụ sau, nếu không cải tạo ao đúng cách bệnh sẽ dễ dàng tái phát trở lại khi gặp hoàn cảnh thuận lợi, công tác điều trị lúc này sẽ khó khăn hơn do việc điều trị kém hiệu quả hơn do vi khuẩn nảy sinh tính kháng thuốc. 2.4.3 Các yếu tố ảnh huởng đến khả năng bộc phát của vi khuẩn E. ictaluri Vi khuẩn E.ictaluri chỉ thích hợp với điều kiện nhiệt độ khoảng 18 – 280C (Plumb 1999). Do đó bệnh do vi khuẩn E. ictaluri xảy ra trên cá trơn xảy ra vào mùa có nhiệt độ thấp. Trên cá nheo, bệnh ESC xảy ra thường vào cuối mùa xuân đến đầu mùa hè trong suốt mùa thu, khi nhiệt độ nước vào khoảng 18 – 280C (Plumb 1999). Trong điều kiện thí nghiệm gây cảm nhiễm trên cá nheo giống, thì ở 250C cho tỷ lệ cá chết cao nhất, thấp nhất ở nghiệm thức có nhiệt độ 230C và 280C , không có cá chết ở nhiệt độ 17, 21 và 320C (Francis – Floy et al., 1987; trích dẫn bởi Lê Minh Đương, 2007). Trên cá tra bệnh cũng tập trung vào mùa lũ cao nhất vào khoảng tháng 7, 8, khi nhiệt độ thấp nhất trong năm tại ĐBSCL. Khi gây cảm nhiễm vi khuẩn E. ictaluri trên cá tra ở nhiệt độ khoảng 27,5±0,80C thấy cá tra bị nhiễm bệnh mủ gan, xuất hiện cá chết và phân lập được vi khuẩn E. ictaluri trên cá tra thí nghiệm (Lương Trần Thục Đoan, 2006). Vi khuẩn này tồn tại trong môi trường nước với thời gian dài hay ngắn tùy thuộc vào nhiệt độ. Nếu môi trường nước có nhiệt độ 50C thì vi khuẩn có thể tồn tại trong ao 15 ngày nhưng khi nhiệt độ nước tăng lên 250C thì thời gian sống của chúng rút ngắn chỉ còn 10 ngày. Tuy nhiên trong lớp bùn đáy ao vi khuẩn này có thể tồn tại 15 ngày ở 50C, 45 ngày 180C và 95 ngày ở điều kiện 250C (Plumb và Quinlan, 1986; được trích dẫn bởi Plumb, 1999). Khả năng có thể giúp vi khuẩn 9
  15. tồn tại trong ao một thời gian dài, nếu không có biện pháp cải tạo ao tốt truớc khi nuôi thì cá rất dễ mắc bệnh mủ gan. Theo Plumb (1999), vi khuẩn E. ictaluri có khả năng gây bệnh độc lập với các điều kiện gây sốc. Tuy nhiên, tỷ lệ cá chết khi gây cảm nhiễm kết hợp với điều kiện gây sốc cho tỷ lệ cao hơn ở cá chỉ gây cảm nhiễm với vi khuẩn. Điều này thể hiện qua kết quả thí nghiệm của Wise et al. (1993) lần lượt là 97 và 77%, Ciembon et al. (1995) với tỷ lệ lần lượt là 53% ở nghiệm thức gây sốc và 16% ở nghiệm thức bình thường (Trích dẫn bởi Plumb, 1999). 2.4.4 Dấu hiệu bệnh lý, chẩn đoán và điều trị Về dấu hiệu bệnh lý, cá bệnh mủ gan không có những biểu hiện bất thường bên ngoài. Ở giai đoạn mới chớm bệnh, cá vẫn bắt mồi nhưng giảm ăn. Một số trường hợp cá có biểu hiện gầy, bơi lờ đờ, da nhợt nhạt, có biểu hiện xuất huyết trên da và hậu môn. Dấu hiệu đặc thù nhất là bên trong nội quan các cơ quan gan, thận, tỳ tạng xuất hiện những đốm trắng, đường kính từ 1-3mm, các cơ quan này sưng to và có biểu hiện nhũn ở thận (Ferguson và ctv, 2001). Trên cá tra, E. ictaluri tấn công vào các cơ quan như thận, gan, tỳ tạng (Từ Thanh Dung và ctv, 2001). Theo Lương Trần Thục Đoan (2006), thì thận và tỳ tạng là 2 cơ quan mà vi khuẩn tấn công đầu tiên chứ không phải ở gan. Ngoài ra, khi thu mẫu ngoài thực tế cũng tìm thấy vi khuẩn tại các bộ phận khác như: máu, não, cơ, mang, tim, bóng hơi. Trong đó, thận, tỳ tạng và bóng hơi là những cơ quan bị nhiễm E. ictaluri cao. Kết quả kiểm tra bằng phương pháp mô học quan sát thấy trên gan xuất hiện nhiều vùng xung huyết động mạch và tĩnh mạch gan, mô gan bị hoại tử và mất cấu trúc, từng cụm vi khuẩn xuất hiện ở rìa các vết thương ở gan các cá tra bị bệnh. Tương tự, ở thận cũng xung huyết và hoại tử, tỳ tạng xuất hiện nhiều vùng hoại tử trên các vết thương (Nguyễn Quốc Thịnh, 2002; Trần Thị Ngọc Hân, 2006). Bệnh mủ gan có thể điều trị bằng kháng sinh khi phát hiện ở giai đoạn sớm, florfenicol là loại kháng sinh mới được cục quản lý lương thực và dược phẩm (FDA) cho phép sử dụng từ năm 2005. Đây là loại kháng sinh có hoạt tính kháng khuẩn mạnh, phổ rộng sử dụng cho vật nuôi. Liều lượng florfenicol được Từ Thanh Dung (2005) khuyến cáo sử dụng để điều trị bệnh mủ gan là 10mg/kg cá hoặc 0,1-0,2g/kg thức ăn, cho cá ăn liên tục từ 5 đến 7 ngày. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của Từ Thanh Dung và ctv (2004) cho thấy vi khuẩn E. ictaluri kháng với một số loại kháng sinh như oxytetracylin, oxolinic acid và sulphonamides nên không nên dùng các loại kháng sinh này để trị bệnh mủ gan. 2.5 Thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản Kháng sinh là các chất hữu cơ có cấu tạo hóa học phức tạp, có nguồn gốc sinh học hay do con người tổng hợp nên. Có tác động một cách riêng biệt trên một giai 10
  16. đoạn chính yếu của sự biến dưỡng của các vi khuẩn, nấm và virút (Lê Thị Kim Liên, 2007). Ngoài ra, theo Bùi Thị Tho (2003) cho rằng kháng sinh là những chất có tác động chống lại sự sống của vi khuẩn, ngăn ngừa vi khuẩn nhân lên bằng tác động ở mức độ phân tử hoặc tác động vào một hay nhiều giai đoạn chuyển hóa cần thiết của đời sống vi khuẩn hoặc tác động vào sự cân bằng lý hóa. Mỗi loại kháng sinh đều có thể gây ra các tác động không mong muốn có thể gây độc cho người và động vật. Do đó, việc sử dụng kháng sinh cần tuân theo các nguyên tắc: - Chỉ sử dụng kháng sinh khi có nhiễm khuẩn. - Phải chọn đúng kháng sinh và dạng thuốc thích hợp. - Phải sử kháng sinh đúng liều và đúng thời gian qui định. - Biết cách dùng phối hợp kháng sinh trị bệnh. - Nắm vững các chống chỉ định của kháng sinh. - Điều chỉnh liều lượng theo từng đối tượng sử dụng thuốc. - Không chỉ theo dõi hiệu quả trị liệu mà còn phải theo dõi các tác dụng phụ của kháng sinh. - Biết sử trí đúng khi có tai biến do kháng sinh gây ra. Theo Lê Thị Kim Liên (2007), tuỳ thuộc vào các loại vi khuẩn là gram âm hay là gram dương và cấu tạo của từng loài vi khuẩn mà chịu sử tác động của các nhóm kháng sinh khác nhau. Phần lớn kháng sinh tác động trên các nơi chính thuộc quá trình biến dưỡng của tế bào vi khuẩn: - Tác động ức chế sự tổng hợp thành tế bào của vi khuẩn. - Tác động ức chế sự tổng hợp protein cần cho vi khuẩn. - Tác động ức chế sự tổng hợp hay ức chế chức năng của acid nucleic. - Tác động ức chế chức năng của màng tế bào vi khuẩn. Thuốc kháng sinh trở thành một phần tất yếu trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nghề nuôi cá tra hiện nay. Tuy nhiên, sử dụng thuốc kháng sinh cần nắm rõ các nguyên tắc sử dụng để mang lại hiệu quả cao. Ngược lại, sẽ dễ dẫn đến hiện tượng kháng thuốc và làm mất tác dụng của thuốc. Theo Bùi Thị Tho (2003) cho rằng hiện tượng kháng thuốc là hiện tượng kháng sinh không còn tác dụng điều trị đối với vi khuẩn gây bệnh. Hiện tượng kháng thuốc chia thành hai loại: sự đề kháng thuốc là bản thân vi khuẩn bình thường đã có khả năng chóng lại tác dụng của thuốc kháng sinh, còn đề kháng thu nhận là vi khuẩn thu được những yếu tố kháng thuốc trong quá trình sống do sự đột biến ngẫu nhiên hoặc do tiếp xúc. Các yếu tố kháng thuốc này có khả năng truyền ngang giữa các chủng và giữa các loại vi khuẩn với nhau. Có 3 phương thức truyền gen kháng thuốc: 11
  17. - Sự biến nạp: một đoạn AND trần được truyền từ tế bào cho sang tế bào nhận. - Sự tải nạp: sự truyền một đọan AND từ tế bào cho sang tế bào nhận thông qua một thể thực khuẩn. - Sự tiếp hợp: sự truyền một đoạn AND từ tế bào cho sang tế bào nhận. Trong ba phương thức trên thì phương thức tiếp hợp được coi là quá trình quan trọng nhất. Sự truyền yếu tố kháng thuốc bằng con đường tiếp hợp liên quan đến sự truyền plasmid từ tế bào này sang tế bào khác. Plasmid là một vòng tròn AND nó hoạt động độc lập với nhiễm sắc thể của vi khuẩn. Vai trò quan trọng của phương thức tiếp hợp là nhiều kiểu gen kháng thuốc nằm trên cùng một plasmid, được gọi là nhân tố R (factor R). Những nhóm thuốc kháng sinh được sử dụng phổ biến hiện nay Nhóm beta – lactamin: Là các kháng sinh có tác động diệt khuẩn. - Amoxicillin Theo Bùi Kim Tùng (2001), thuốc không bị phân hủy bởi dịch vị dạ dày, không ảnh hưởng bởi thức ăn. Hấp thu 80% và nhanh nên ít gây tiêu chảy. Khi uống nồng độ thuốc trong máu cao hơn ampicillin và các tiền chất ampicillin. - Ampicillin Là thuốc có kháng phổ rộng, có tác dụng cả vi khuẩn gram âm và gram dương. Dùng để điều trị cho động vật nuôi do vi khuẩn gây ra (Bùi Thị Tho, 2003). Theo Bùi Kim Tùng (2001), ampicillin không hấp thu hoàn toàn qua đường uống, thức ăn làm giảm hấp thu của thuốc và làm hại tạp khuẩn ruột. Khi uống dùng amoxcillin sẽ tốt hơn. - Ampicillin + sulactam Theo Bùi Kim Tùng (2001), thuốc hấp thu tốt qua đường ruột, mở rộng hoạt phổ do ức chế beta – lactamaz. - Cephalosporin Có phổ kháng khuẩn rộng và tác dụng mạnh đối với vi khuẩn gram âm, có tác dụng ức chế tổng hợp vỏ tế bào. Đa số các thuốc kháng sinh thuộc nhóm này đều bị thủy phân bởi dịch vị dạ dày hoặc không qua ruột vào máu, gây xáo trộn tiêu hóa. Vì thế khá nhiều thuốc không uống mà tiêm. Cephaloprin là thuốc khó dùng và dễ gây kháng thuốc. Cephaloprin: bao gồm các thuốc kháng sinh cefalexin, cefixime, cefazolin…Trong đó cefalexin là thuốc đầu tiên uống được, hấp thu hoàn toàn qua ruột và không gây xáo trộn tiêu hóa. Điều trị các bệnh nhiễm khuẩn và nhiễm trùng toàn thân ( Bùi Kim Tùng, 2001). - Aztreonam 12
  18. Aztreonam thuộc nhóm monolactam. Là thuốc không bị phân hủy bởi beta – lactamaz, khuyếch tán tốt đến mô, ức chế sự tổng hợp vỏ tế bào vi khuẩn và trị được các khuẩn gram âm hiếu khí và một số gram dương (Bùi Kim Tùng, 2001). Nhóm tetracylin Có tác dụng ức chế sự tổng hợp protein, có hoạt phổ kháng khuẩn rộngbao gồm vi khuẩn gram âm và gram dương. Bao gồm các thuốc oxytetracylin, chlortetracylin, doxycylin và minocylin. Hầu hết các tetracylin đều hại tạp khuẩn ruột ngoại trừ doxycylin và minocylin. Trong đó, doxycylin không bị ảnh hưởng bởi thức ăn trong ruột cao gấp 10 lần so với các kháng sinh cùng nhóm. Tetracylin dùng để trị nhiễm khuẩn toàn thân và nhiễm trùng ruột (Bùi Kim Tùng, 2001). Nhóm quinolon Đây là nhóm có tác dụng diệt khuẩn khoảng 95%. Gồm oxolinic acid (quinolon thế hệ I ). Có phổ kháng khuẩn hẹp chỉ tác dụng trên vi khuẩn gram âm. Quinolon thế hệ II: có tác dụng cả vi khuẩn gram âm và gram dương bao gồm pefloxacin, norfloxacin, enrofloxacin, ciprofloxacin có hoạt tính kháng khuẩn vừa mạnh, vừa nhanh từ 12.500 lần so với quinolon thế hệ I. 13
  19. CHƯƠNG III PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu Địa điểm nghiên cứu: điều tra một số nông hộ nuôi cá tra thâm canh ở Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long và Cần Thơ. Thời gian nghiên cứu: từ tháng 12 năm 2008 đến tháng 05 năm 2009. 3.2 Phương pháp nghiên cứu 3.2.1 Thu thập các thông tin sơ cấp Điều tra hiện trạng tình hình bệnh mủ gan trên cá tra thông qua phỏng vấn các nông hộ nuôi cá tra thâm canh trong ao bằng các phiếu câu hỏi đã được chuẩn bị trước (Phụ lục 1). Tổng số hộ điều tra là 40 hộ (Bảng 3.1). Địa điểm điều tra được chọn theo vùng có sản lượng nuôi cá tra thâm canh cao và những vùng trọng điểm của ĐBSCL là Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang. Bảng 3.1 Số lượng hộ nuôi cá tra thâm canh bị bệnh mủ gan ở các vùng Địa điểm khảo sát Hộ nuôi Đồng Tháp 10 Cần Thơ 10 Vĩnh Long 10 An Giang 10 Tổng 40 Đối với thông tin sơ cấp: phỏng vấn trực tiếp nông hộ và cán bộ kỹ thuật tại địa bàn khảo sát bằng cách sử dụng bảng câu hỏi soạn sẵn theo những nội dung chính sau: Thông tin tổng quát: thông tin về chủ hộ như tên, tuổi, địa chỉ, số năm kinh nghiệm, trình độ văn hóa, số lao động trong gia đình, tổng diện tích đất, các hoạt động kinh tế khác trong gia đình ngoài nuôi trồng thuỷ sản. Thông tin kỹ thuật: đặc điểm của mô hình nuôi, tình hình sử dụng thuốc và hóa chất trong cải tạo và ương nuôi, con giống, thức ăn và chế độ cho ăn, chế độ thay nước, tình hình phòng và trị bệnh, máy móc và thiết bị phục vụ cho nuôi trồng thuỷ sản. 14
  20. 3.2.2 Thu thập các thông tin thứ cấp Các báo cáo định kỳ hàng năm của sở, chi cục thuỷ sản vùng nghiên cứu. Các tạp chí chuyên ngành, báo cáo của Bộ Thuỷ sản, các báo cáo khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến tình hình nuôi thâm canh cá tra nói riêng và cá da trơn nói chung. Bên cạnh đó số liệu cũng được thu thập từ các website chuyên ngành trong và ngoài nước cũng như các quyết định, nghị định, chỉ thị của Bộ Thuỷ sản và Chính phủ. Thu thập các thông tin về tình hình nuôi, tình hình xuất hiện bệnh trên cá tra nuôi thâm canh ở từng địa phương thông qua Chi cục Thuỷ sản thành phố Cần Thơ, tỉnh Đồng Tháp, An Giang và Vĩnh Long. 3.2.3 Phương pháp xử lý số liệu và phân tích số liệu Số liệu thu được kiểm tra, bổ sung hoặc điều chỉnh và mã hóa trước khi nhập vào máy tính. Phần mềm dùng để sử lý số liệu và viết báo cáo là Microsoft Word 2003, Microsoft Excel 2003.. Thống kê mô tả: các chỉ số thống kê mô tả đơn như giá trị trung bình, tỷ lệ % được dùng để mô tả diện tích nuôi trồng, các đặc trưng kinh tế xã hội của nông hộ… Dựa trên các chỉ số này để tiến hành so sánh, phân tích và rút ra nhận xét. 15
nguon tai.lieu . vn