Xem mẫu

  1. Luận văn: Tìm hiểu bản sắc văn hóa Tây Nguyên qua rượu cần
  2. MỤC LỤC A. Mở đầu................................................................................................................................. 3 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................... 3 2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................................................ 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................................... 4 4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................................... 5 5.Bố cục ..................................................................................................................................... 6 B. Nội dung ................................................................................................................................ 6 Chương I: Tổng quan sơ lược những khái niệm ....................................................................... 6 1. Khái niệm văn hóa và bản sắc văn hóa .................................................................................. 6 1.1.1 Khái niệm văn hóa ............................................................................................................ 6 1.1.2. Khái niệm bản sắc văn hóa .............................................................................................. 6 1.2. Khái niệm ẩm thực và văn hóa ẩm thực.............................................................................. 6 1.2.1. Khái niệm “ẩm thực” ....................................................................................................... 6 1.2.2. Khái niệm văn hóa ẩm thực ............................................................................................. 7 2.1. Sơ lược về Tây Nguyên........................................................................................................ 9 2.1.1. Lich sử hình thành ........................................................................................................... 9 2.1.2. Điều kiện tự nhiên.......................................................................................................... 12 2.1.2.1. Điều kiện địa lý............................................................................................................ 12 2.1.2.2. Đất đai, thổ nhưỡng .................................................................................................... 13 2.1.2.3. Khí hậu ........................................................................................................................ 13 2.1.3. Đặc điểm xã hội và dân cư ............................................................................................. 13 2.1.3.1. Tình hình kinh tế - xã hội............................................................................................ 13 2.1.3.2. Đời sống văn hóa và dân cư ........................................................................................ 14 Dân cư: .................................................................................................................................... 15 Chương III: Uống Rượu Cần- một nét văn hóa đặc sắc của Tây Nguyên .............................. 16 3.1. Giới thiệu về Rượu Cần..................................................................................................... 16 3.1.1. Khái niệm Rượu Cần...................................................................................................... 16 3.1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của Rượu Cần .................................................................... 17 3.2. Quá trình làm rượu ........................................................................................................... 18 3.2.1. Nguyên liệu .................................................................................................................... 18 3.2.2. Quy trình làm men ......................................................................................................... 19 3.2.3. Những kiêng kị trong quá trình làm rượu...................................................................... 21 3.2.4. Phương thức ủ rượu và lưu giữ. .................................................................................... 22 3.3. Uống Rượu Cần- một nét văn hóa đẹp của Tây Nguyên ................................................ 24 3.3.1.2. Cách thức uống Rượu Cần.......................................................................................... 26 3.4. Rượu Cần trong đời sống văn hóa của người dân Tây Nguyên ........................................ 27 3.4.1. Văn hóa uống Rượu Cần trong giao tiếp - ứng xử......................................................... 27 3.4.2. Văn hóa uống Rượu Cần đối với đời sống tâm linh. ...................................................... 33 3.4.3. Văn hóa uống Rượu Cần đối với đời sống cộng đồng. ................................................... 36 3.5.1. Những biến đổi cơ bản ................................................................................................... 40 3.5.2. Nguyên nhân và giải pháp.............................................................................................. 41 C. Kết luận.............................................................................................................................. 45 Tài liệu tham khảo ................................................................................................................... 46
  3. A. Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Đất nước Việt Nam với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống với tinh thần tương thân tương ái cùng xây dựng và bảo vệ đất nước trong suốt hàng nghìn năm lịch sử. Mỗi dân tộc, mỗi vùng miền đều mang trong mình một sắc thái văn hóa riêng tạo nên những bản sắc văn hóa cùng góp chung vào một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng, cùng nhau thực hiện Nghị quyết của Đảng và Nhà nước trong việc “xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Một trong những nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc Tây Nguyên là Rượu Cần- một giá trị văn hóa truyền thống đã tồn tại song hành cùng mảnh đất và con người Tây Nguyên từ xưa đến nay. Rượu cần là nét văn hóa nội sinh độc đáo của các dân tộc Tây Nguyên, ra đời và tồn tại trong suốt quá trình hình thành và phát triển của vùng đất và con người trong điều kiện tự nhiên đầy thử thách cho đến ngày nay uống Rượu Cần đã trở thành nét văn hóa đẹp, một phong cách sinh hoạt văn hóa mang bản sắc riêng. Thưởng thức Rượu Cần là một nét sinh hoạt văn hóa không thể thiếu của đời sống cũng như phản ánh sinh động văn hóa vật chất và tinh thần xưa và nay. Nghiên cứu Rượu Cần là thực hiện việc tìm hiểu một giá trị văn hóa ẩm thực truyền thống với những nét đặc trưng vốn có đồng thời xem xét Rượu Cần trong mối tương quan với đời sống con người, điều kiện tự nhiên, đời sống văn hóa, xã hội..từ đó chúng ta có thể thấy được các bản sắc riêng giữa các tộc người đang sinh sống giữ vai trò là chủ thể văn hóa sáng tạo nên những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo. Muốn có được điều đó, chúng ta phải hiểu rõ thực trạng của văn hóa Rượu Cần trong đời sống hôm nay để từ đó có những kiến nghị, đề xuất giải pháp để giữ gìn một nét văn hóa đẹp không chỉ trong cộng đồng dân tộc Tây Nguyên mà cho cả kho tàng văn hóa dân gian của 54 dân tộc Việt Nam trong tình thân cố kết, giao lưu.
  4. Đề tài góp phần nhỏ bé tìm hiểu về một nét văn hóa sinh động mà độc đáo của con người và vùng đất Tây Nguyên thông qua cách thưởng thức Rượu Cần- mang vẻ đẹp thuần khiết đậm đà bản sắc dân tộc. 2. Lịch sử nghiên cứu Nghiên cứu về người Mạ nói riêng và về Rượu Cần nói chung có các tác phẩm đáng chú ý như “Miền thượng Tây Nguyên” cuả Cửu Long Giang và Toan Ánh, “Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng” Mạc Đường chủ biên, “Vài nét văn hóa các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên- Lâm Đồng” do Sở văn hóa thông tin tỉnh Lâm Đồng xuất bản năm 2005 và sách “ Văn hóa và xã hội con người Tây Nguyên” do Nguyễn Tấn Đắc đươc viện KHXH & NV và viên KHXH vùng Nam bộ xuất bản năm 2005. Ngoài ra những năm gần đây còn có một số khóa luận, đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên khoa Lịch sử, Việt Nam học ở các trương Đại học trong cả nước nghiên cứu lịch sử văn hóa được chứa đựng trong lớp trầm tích thời gian cuả vùng đất Tây Nguyên, đặc biệt là Rượu Cần- thức uống không thể thiếu của các dân tộc, nét tinh hoa văn hóa đ ược lưu truyền qua hàng nghìn năm. Bên cạnh những bài viết liên quan đến đời sống của người Mạ như “ lịch sử kinh tế xã hội- sinh hoạt cộng đồng” còn có các tác phẩm, bài viết, công trình khoa học: được đăng tải trên các tạp chí Dân tộc học. Những bài viết chỉ tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu văn hóa của các dân tộc Tây Nguyên nhưng chưa có một nghiên cứu nào thật sự đề cập đến Rượu Cần ở góc độ văn hóa 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài “ Tìm hiểu bản sắc văn hóa Tây Nguyên qua Rượu Cần” là đề tài mang tính khái quát cao tập trung trung chủ yếu vào văn hóa uống Rượu Cần cuả Tây Nguyên - vùng đất mang bề dày văn hóa trong quá trình hình thành các tộc người định cư, sinh sống và sáng tạo nên những giá trị văn hóa tồn tai đến ngày nay. Rượu Cần
  5. 4. Phương pháp nghiên cứu “Tìm hiểu bản sắc văn hóa Tây Nguyên qua Rượu Cần” là đề tài nghiên cứu có tính thực tế cao và cần phải có sự hệ thống, tổng hợp thông tin một cách chính xác nên trong quá trình nghiên cứu đòi hỏi nhiều phương pháp để có được kết quả đầy đủ, toàn diện nhằm làm rõ những vấn đề văn hóa của vùng đất và con người Tây Nguyên thông qua thức uống tồn tại hàng nghìn năm trong đời sống cộng đồng, một nét tinh hoa văn hóa của dân tộc- Rượu Cần. Yêu cầu đầu tiên đối với bản thân tôi là phải có những nhận thức ban đầu về địa bàn nghiên cứu, thông tin về con người, cách thức sinh hoạt văn hóa trong lịch sử và hiên tại.., các kiến thức về giao tiếp, ứng xử trong quá trình nghiên cứu. Bởi vậy, phương pháp thu thập thông tin qua các tài liệu, bài viết, công trình nghiên cứu là rất cần thiết, sau đó là quá trình điền dã khảo sát thực tế thu thập thông tin tại địa bàn nghiên cứu. Quá trình này đòi hỏi phương pháp phỏng vấn, quan sát cùng với việc hỗ trợ của các phương tiện máy chụp hình, máy ghi âm, máy quay, bản ghi chép nhanh..để có được thông tin chính xác, hình ảnh chân thực và sinh động. Ngoài phương pháp trên còn cần đến việc liên hệ chính quyền địa phương, được sự cho phép, đồng ý và sự giúp đỡ từ phía chính quyền và người dân. Sau quá trình tìm hiểu, quan sát và ghi chép cần sử dụng phương pháp liệt kê, so sánh, phân tích, tổng hợp các tư liệu có được đồng thời không thể quên 2 phương pháp cơ bản: lịch sử và logic. Cuối cùng, sau khi có đầy đủ thông tin tư liệu cần thiết phục vụ đề tài tiến hành việc phân tích, tổng hợp đánh giá trên cơ sở đó đối chiếu so sánh nhằm thấy rõ sự thay đổi của Văn hóa uống R ượu Cần trong suốt quá trình truyền thống đến hiện đại. Trong tiến trình lịch đó, Rượu Cần đã trở thành một biểu tượng văn hóa hết sức đặc sắc của người dân Tây Nguyên. Rượu Cần là một thức uống chứa đựng tinh hoa của miền đất Tây Nguyên mang
  6. những nét đặc trưng riêng biệt. Thông qua phương pháp so sánh, tổng hợp để thấy được bản sắc văn hóa của vùng đất Tây Nguyên mang đậm nét cá tính. 5.Bố cục B. Nội dung Chương I: Tổng quan sơ lược những khái niệm 1. Khái niệm văn hóa và bản sắc văn hóa 1.1.1 Khái niệm văn hóa Theo tài liệu năm 1995 của UNESCO thì năn hóa có thể được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, văn hoá của một nước là những sinh hoạt trong “lĩnh vực văn hóa”, hay là “khu vực công nghiệp văn hóa” của nước ấy. Đó là viết văn, làm thơ, vẽ tranh…,nói chung là những hoạt động có tính văn chương nghệ thuật. Thứ hai, nhìn theo quan điểm nhân chủng học và xã hội học, văn hóa là tập hợp những phong thái, tập quán, tín ngưỡng, là nền tảng, là chất keo không thể thiếu cho sự vận hành nhuần nhuyễn của xã hội. Nó là hiện thân những giá trị được cộng đồng chấp nhận, dù có thể biến đổi từ thế hệ này sang thế hệ khác 1.1.2. Khái niệm bản sắc văn hóa Bản sắc văn hóa là cái cốt lõi, đặc trưng riêng có của một cộng đồng văn hóa trong lịch sử tồn tại và phát triển, giúp phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống - ý thức của một cộng đồng, bao gồm: cội nguồn, cách tư duy, cách sống, dựng nước, giữ nước, sáng tạo văn hóa, khoa học - nghệ thuật... Khái niệm Bản sắc văn hóa có hai quan hệ cơ bản: quan hệ bên ngoài là dấu hiệu để phân biệt các cộng đồng với nhau quan hệ bên trong chỉ tính đồng nhất mà mỗi cá thể trong một cộng đồng phải có. 1.2. Khái niệm ẩm thực và văn hóa ẩm thực 1.2.1. Khái niệm “ẩm thực”
  7. “Ăn uống” hay “ẩm thực” trong Tiếng Việt là từ ghép, tương đương với các từ trong các ngôn ngữ khác như: tiếng Anh: “Food and drink”, tiếng Pháp “Le Borie et le Manger”, tiếng Nhật “Nomikui”. Tùy theo quan niệm về ẩm thực của từng dân tộc mà trong từ ngữ này, thứ tự sắp xếp hai yếu tố “ăn” và “uống” có khác nhau. Theo Nguyễn Văn Dương nghiên cứu về ẩm thực trong ngôn ngữ, thì từ “ăn” trong tiếng Việt có số lượng ngữ nghĩa và số lượng từ ghép rất phong phú, có đến 15/20 ngữ nghĩa được nêu trong “Từ điển Tiếng Việt” có liên quan đến từ “ăn”. Sở dĩ từ “ăn” chiếm vị trí lớn trong ngôn ngữ và tư duy người Việt vì từ xưa cho đến đầu thế kỷ XX, nước ta đất hẹp, khoa học kỹ thuật chưa phát triển, mức sống còn thấp, do đó cái ăn luôn là cái yếu tố quan trọng nhất: “ Có thực mới vực được đạo”, “Dĩ thực vi tiên”..Bên cạnh “ăn” thì “uống” không chiếm vị trí quan trọng trong ngôn ngữ Việt Nam. Ngoài nghĩa thông thường là uống nước cho hết khát, từ “uống” trong từ ‘ăn uống còn có nghĩa là uống rượu. Hiện nay, trong ngôn ngữ đời thường dùng từ “nhậu” để chỉ việc uống rượu. Tuy nhiên, trong từ điển của Huỳnh Tịnh Của (1895 - 1896), của Génibrel (1898), thì nhậu chỉ có nghĩa là uống, không chỉ là uống rượu. Tuy nhiên, do chuyện rượu chè mang tính thái quá của rất nhiều người trong xã hội, “nhậu” trở thành một hiện tượng không lành mạnh, và bị xem là thói xấu nếu như có tính lạm dụng và gây ra những hành động thiếu văn hóa, tình cảm. Trong Việt Nam tân từ điển của Thanh Nghị (1952) thì “nhậu” đã được mang nghĩa rõ hơn là “Uống, thường là uống rượu” 1.2.2. Khái niệm văn hóa ẩm thực Từ ngàn xưa ông cha ta không hề xem nhẹ việc ăn uống. Việc dạy ăn như thế nào, học ăn như thế nào phải được bắt đầu từ chính gia đình. Đây là tế bào của xã hội, cái nôi đầu tiên giúp con người tự hoàn thiện bản thân, hình thành nhân cách, trau dồi kiến thức ứng xử, thể hiện được truyền thống văn hóa của
  8. dân tộc ta từ bao đời. Phải chăng những quy tắc, cung cách ứng xử đúc kết từ kinh nghiệm dân gian là “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, là “Học ăn, học nói, học gói, học mở” đã đi vào truyền thống văn hóa như một niềm tự hào dân tộc, một nét văn hóa không thể tách rời phong cách sống của người Việt ? Khi nói về văn hóa ẩm thực, trước hết ta phải nói đến nét văn hóa trong ăn uống ở gia đình, từ đó rộng ra là những buổi tiệc,những buổi gặp mặt giao lưu..mang tính chất giao tiếp xã hội. Trong giáo trình “ Văn hóa ẩm thực” của Nguyễn Thị Diệu Thảo đã đề cập đến nét văn hóa trong ăn uống đầy sáng tạo “Ta có thể xem văn hóa ẩm thực là một bộ “gen” đặc biệt có khả năng lưu truyền nhiều giá trị văn hóa của nhân loại mà gia đình là những tế bào lưu giữ là lưu truyền từ đời này sang đời khác”. Ăn uống trong gia đình là lối ăn uống phổ biến nhất của toàn nhân loại. Đặc biệt ở một mức độ nào đó thì lối ăn uống này ở Việt Nam mang tính phổ biến hơn nhiều so với các nước khác vì theo tính đặc thù của một nền nông nghiệp trồng lúa nước với phần lớn cư dân hoạt động nông nghiệp nên thời gian tụ họp cùng gia đình được xem là chủ yếu. Bữa ăn gia đình và đặc biệt hơn là trong gia đình có sự chung sống của nhiều thế hệ được xem là một môi trường văn hóa thể hiện quá trình bảo lưu, tiếp nối và bao gồm cả sự giao lưu chuyển tiếp giữa các thế hệ. Đây là một yếu tố vô cùng độc đáo, trong bề dày truyền thống đó mọi yếu tố văn hóa không chỉ được chuyển tải trong việc ăn thức gì, uống như thế nào mà còn luôn luôn được gìn giữ trong khuôn khổ cổ truyền một lối ăn theo truyền thống được thể hiện rất rõ qua cách thức sử dụng dụng cụ ăn ( người Việt Nam dùng đũa tre, mâm tròn, bát tròn..) bên cạnh đó là cách ứng xử với mọi người trong khi ăn sao cho thật đẹp lòng, vừa ý… Vậy tựu chung lại ở góc nhìn văn hóa ta có thể đưa ra khái niệm văn hóa ẩm thực : “ Văn hóa ẩm thực là những phong tục, những thể thức ăn uống từ nghìn xưa để lại, mang đậm sắc thái của một nước, tạo nên những độc đáo riêng biệt của nước đó”.
  9. Qua nghiên cứu, các nhà văn hóa học đều đưa ra nhận định : “Ăn uống của mỗi dân tộc là một hiện tượng văn hóa khi nó mang trong mình những giá trị chân - thiện - mỹ. Với người Việt Nam, ăn uống là cả một nghệ thuật, nó không chỉ đáp ứng yêu cầu cơ bản của con người mà còn có mối quan hệ mật thiết đến lối sống, truyền thống của dân tộc. Chương II: Vài nét về lịch sử hình thành, điều kiện tự nhiên và đời sống kinh tế- văn hóa- xã hội của mảnh đất Tây Nguyên 2.1. Sơ lược về Tây Nguyên 2.1.1. Lich sử hình thành Vùng đất Tây Nguyên từ xưa vốn là vùng đất tự trị, địa bàn sinh sống của các bộ tộc thiểu số, chứ phát triển thành một quốc gia hoàn chỉnh. Do đất rộng, người thưa, các bộ tộc thiểu số ở đây thỉnh thoảng trở thành mục tiêu của các cuộc tấn công của vương quốc Champa hoặc Chân Lạp nhằm cướp bóc nô lệ. Thánh hai năm Tân Mão niên hiệu Hồng Đức thứ II (1471), vua Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, phá được thành Chà Bàn, bắt sống vua Champa là Trà Toàn, sát nhập 3 phần 5 lãnh thổ Champa thời đó vào Đại Việt. Hai phần Champa còn lại, được vua Lê Thánh Tông chia thành các tiểu quốc nhỏ thuần phục Đai Việt. Phần đất Phan Lung (tức Phan Rang ngày nay) do viên tướng Chăm là Bồ Trì trấn giữ, được vua Lê coi là phần kế thừa của vương quốc Chiêm Thành. Một phần đất này là tỉnh Phú Yên, Lê Thánh Tông phong tặng cho Hoa Anh vương tạo nên nước Nam Hoa. Vùng đất phía tây núi Thạch Bi, tức miền Bắc Tây Nguyên ngày nay được lập thành nước Nam Bàn, vua nước nay được phong làm Nam Bàn vương. Sau khi Nguyễn Hoàng xây dựng vùng căn cứ phía Nam, các cháu Nguyễn ra sức loại trừ các ảnh hưởng còn lại của Champa và cũng phái một số sứ đoàn để thiết lập quyền lực ở khu vực Tây Nguyên. Các dân tộc thiểu số ở đây chuyển sang chịu sự bảo hộ của người Việt. Tuy nhiên, các dân tộc ở đây vẫn còn thưa thớt, nhỏ lẻ và mục tiêu của các chúa Nguyễn nhắm trước đến những
  10. vùng đồng bằng, nên chỉ thiết lập quyền lực rất lỏng lẻo ở đây. Trong tài liệu vào các thế kỉ XVI, XVII đã có những ghi nhận về các bộ tộc Mọi Đá Vách (hre’), Mọi Hời (Hroi, Bru, Ktu, Pacoh), Mọi Đá Hàm (Djarai), Mọi Bà Rịa (Mạ)…để chỉ các bộ tộc thiểu số cư trú ở các vùng Nam Tây Nguyên ngày nay. Tuy sự ràng buộc lỏng lẻo, nhưng về danh nghĩa, vùng dất Tây Nguyên vẫn thuộc phạm vi quả lý của các chúa Nguyễn. Thời nhà Tây Sơn, rất nhiều chiến binh thuộc các bộ tộc thuộc thiểu số Tây Nguyên gia nhập quân Tây Sơn, đặc biệt với đội tượng binh nổi tiếng trong cuộc hành quân của Quang Trung tiến công ra Bắc xuân Kỷ Dậu (1789) . Tây Sơn thượng đạo, vùng đất phía Tây đèo An Khê là một căn cứ chuẩn bị lực lượng cho quân Tây Sơn thưở ban đầu. Người lãnh đạo việc hậu cần này của quân Tây Sơn là người vợ dân tộc Bana của Nguyễn Nhạc. Sang đến triều nhà Nguyễn, quy chế bảo hộ trên danh nghĩa dành cho Tây Nguyên vẫn không thay đổi nhiều, mặc dù vua Minh Mạng có đưa phần lãnh thổ Tây Nguyên vào Bản đồ Việt Nam (Việt Nam nhất thống toàn đồ - 1834).
  11. Người Việt vẫn chủ yếu khai thác miền đồng bằng nhiều hơn, đặc biệt ở các vùng đồng bằng Đông Nam Bộ ngày nay, điều đó đã đẩy các bộ tộc thiểu số bán sơn địa lên hẳn vùng Tây Nguyên ( như trường hợp dân tộc Mạ). Trong cuốn Đại Việt địa dư toàn biên, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu có viết: “ Thủy Xá, Hỏa Xá ở ngoài cõi Nam Bàn nước Chiêm Thành. Bấy giờ trong Thương đạo tỉnh Phú An có núi Bà Nam rất cao. Thủy Xá ở phía Đông nước ấy,…Hỏa Xá ở phía Tây núi ấy, phía Tây tiếp giáp với xứ Sơn Bốc sở Nam nước Chân Lạp, phía Nam là Lạc man (những tộc người du cư). Phía trên là sông Đại Giang, phía dưới là sông Ba Giang làm giới hạn bờ cõi 2 nước ấy. Sau khi người Pháp nắm được quyền kiểm soát Việt Nam, họ đá thực hiện hàng loạt các cuộc thám hiểm và chinh phục vùng đất Tây Nguyên. Trước đó các nhà truyền giáo đã đi tiên phong lên vùng đất hoang sơ và còn nhiều bí ẩn này Năm 1888, một người Pháp gốc đảo Corse tên là Mayréna sang Đông Dương, chọn Dakto làm vùng đất cát cứ và lần lượt chinh phục được các bộ lạc thiểu số. Ông ta thành lập Vương quốc Sedang có quốc kỳ, có giấy bạc, có cấp chức riêng và tự mình lập làm vua tước hiệu Marie đệ nhất. Nhận thấy được vị trí quan trọng của vùng đất Tây Nguyên, nhân cơ hội Mayréna về châu Âu, chính phủ Pháp đã đưa công sứ Quy Nhơn lên “đăng quang” thay Mayréna. Vùng đất Tây Nguyên được đặt dưới quyền quản lý của Công sứ Quy Nhơn. Sau đó vài năm, thì vương quốc này cũng bị giải tán. Năm 1891, bác sĩ Alexandre Yersin mở cuộc thám hiểm và phát hiện ra cao nguyên Lang Biang. Ông đã đề nghị với chính phủ thuộc địa xây dựng một thành phố nghỉ mát tại đây. Nhân dịp này, người Pháp bắt đầu chú ý khai thác kinh tế đối với vùng đất này. Tuy nhiên, về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc quyền kiểm soát của triều đình Đại Nam. Vì vậy, năm 1896, khâm sứ Trung kỳ Boulloche đề nghị Cơ mật viện triều Nguyễn giao cho Pháp trực tiếp phụ trách an ninh tại các cao nguyên Trung kỳ. Năm 1898, vương quốc
  12. Sedang bị giải tán. Một tòa đại lý hành chính được lập ở Kontum, trực thuộc Công sứ Quy Nhơn. Năm 1899, thực dân Pháp buộc vua Đồng Khánh ban d ụ trao cho họ Tây Nguyên để họ có quyền tổ chức hành chính và trực tiếp cai trị các dân tộc thiểu số ở đây. Năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer đích thân thị sát Đà Lạt và quyết định chọn Đà Lạt làm thành phố nghỉ mát. Vùng đất cao nguyên Trung k ỳ (Tây Nguyên) hoàn toàn thuộc quyền cai trị của chính quyền thực dân Pháp. Năm 1907, tòa đại lý ở Kontum đổi thành tòa Công sứ Kontum, cùng với việc thành lập các trung tâm hành chính Kontum và Cheo Reo. Những thực dân người Pháp bắt đầu lên đây xây dựng các đồn điền đồng thời cũng ngăn cấm người Việt lên theo, trừ số phu họ mộ được. Năm 1917, tại đó, thị xã Đà Lạt được thành lập. 2.1.2. Điều kiện tự nhiên 2.1.2.1. Điều kiện địa lý Tây Nguyên là vùng cao nguyên, giáp với Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia. trong khi Kon Tum có biên giới phía tây giáp với cả Lào và Campuchia, thì Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông chỉ có chung đường biên giới với Campuchia. Còn Lâm Đồng không có đường biên giới quốc tế Thực chất, Tây Nguyên không phải là một cao nguyên duy nhất mà là một loạt cao nguyên liền kề. Đó là các cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500 m, cao nguyên Kon Plông, cao nguyên Kon Hà Nừng, Plâyku cao khoảng 800 m, cao nguyên M'Drăk cao khoảng 500 m, cao nguyên Buôn Ma Thuột cao khoảng 500 m, Mơ Nông cao khoảng 800-1000 m, cao nguyên Lâm Viên cao khoảng 1500 m và cao nguyên Di Linh cao khoảng 900-1000 m. Tất cả các cao nguyên này đều được bao bọc về phía Đông bởi những dãy núi và khối núi cao (chính là Trường Sơn Nam).
  13. Tây Nguyên lại có thể chia thành ba tiểu vùng địa hình đồng thời là ba tiểu vùng khí hậu, gồm Bắc Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Kon Tum và Gia Lai, trước là một tỉnh), Trung Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông), Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). Trung Tây Nguyên có độ cao thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và Nam. 2.1.2.2. Đất đai, thổ nhưỡng Với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500 m đến 600 m so với mặt biển, Tây Nguyên rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm. Cây điều và cây cao su cũng đang được phát triển tại đây. Cà phê là cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên. Tây Nguyên cũng là vùng trồng cao su lớn thứ hai sau Đông Nam Bộ. Và đang tiến hành khai thác Bô xít. Tây Nguyên cũng là khu vực ở Việt Nam còn nhiều diện tích rừng với thảm sinh vật đa dạng, trữ lượng khoáng sản phong phú hầu như chưa khai thác và tiềm năng du lịch lớn, Tây nguyên có thể coi là mái nhà của miền trung, có chức năng phòng hộ rất lớn. Tuy nhiên, nạn phá rừng, hủy diệt tài nguyên thiên nhiên và khai thác lâm sản bừa bãi chưa ngăn chận được tại đây có thể dẫn đến nguy cơ làm nghèo kiệt rừng và thay đổi môi trường sinh thái. 2.1.2.3. Khí hậu Khí hậu ở Tây Nguyên được chia làm hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, trong đó tháng 3 và tháng 4 là hai tháng nóng và khô nhất. Do ảnh hưởng của độ cao nên trong khi ở các cao nguyên cao 400-500 m khí hậu tương đối mát và mưa nhiều, riêng cao nguyên cao trên 1000 m (như Đà Lạt) thì khí hậu lại mát mẻ quanh năm như vùng ôn đới. 2.1.3. Đặc điểm xã hội và dân cư 2.1.3.1. Tình hình kinh tế - xã hội
  14. So với các vùng khác trong cả nước, điều kiện kinh tế - xã hội của Tây Nguyên có nhiều khó khăn, như là thiếu lao động lành nghề, cơ sở hạ tầng kém phát triển, sự chung đụng của nhiều sắc dân trong một vùng đất nhỏ và với mức sống còn thấp. Tuy nhiên, Tây Nguyên có lợi điểm về tài nguyên thiên nhiên. Tây Nguyên có đến 2 triệu hecta đất bazan màu mỡ, tức chiếm đến 60% đất bazan cả nước, rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm, trà. Cà phê là cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên. Diện tích cà phê ở Tây Nguyên hiện nay là hơn 290 nghìn ha, chiếm 4/5 diện tích cà phê cả nước. Đắk Lắk là tỉnh có diện tích cà phê lớn nhất (170 nghìn ha) và cà phê Buôn Ma Thuột nổi tiếng có chất lượng cao. Tây Nguyên cũng là vùng trồng cao su lớn thứ hai sau Đông Nam Bộ, chủ yếu tại Gia Lai và Đắk Lắk. Tây Nguyên còn là vùng trồng dâu tằm, nuôi tằm tập trung lớn nhất nước ta, nhiều nhất là ở Bảo Lộc Lâm Đồng. Ở đây có liên hiệp các xí nghiệp ươm tơ xuất khẩu lớn nhất Việt Nam Việc phân bổ đất đai và tài nguyên không đồng đều cũng gây ra nhiều tranh chấp. Trước đây, chính quyền có chủ trương khai thác Tây Nguyên bằng hệ thống các nông lâm trường quốc doanh (thời kỳ trước năm 1993 là các Liên hiệp xí nghiệp nông lâm công nghiệp lớn, đến sau năm 1993 chuyển thành các nông, lâm trường thuộc trung ương hoặc thuộc tỉnh). Các tổ chức kinh tế này trong thực tế bao chiếm gần hết đất đai Tây Nguyên. Ở Đắk Lắk, đến năm 1985, ba xí nghiệp Liên hiệp nông lâm công nghiệp quản lý 1.058.000 hecta tức một nửa địa bàn toàn tỉnh, cộng với 1.600.000 hecta cao su quốc doanh, tính chung quốc doanh quản lý 90% đất đai toàn tỉnh. Ở Gia Lai-Kon Tum con số đó là 60%. Tính chung, đến năm 1985, quốc doanh đã quản lý 70% diện tích toàn Tây Nguyên. Sau năm 1993, đã có sự chuyển đổi cơ chế quản lý, nhưng con số này cũng chỉ giảm đi được 26% . 2.1.3.2. Đời sống văn hóa và dân cư
  15. Tây Nguyên là một không gian văn hóa mở mang bề dày lịch sử ẩn chứa nhiều giá trị trước những thách thức của thời gian. Nơi đây hội tụ những nét đẹp văn hóa từ sự chung sống hòa bình, thân ái giữa các dân tộc có nguồn gốc lâu đời. Ba Na là nhóm sắc tộc đầu tiên, sau người Kinh, có chữ viết phiên âm dựa theo bộ ký tự Latin do các giáo s ĩ Pháp soạn năm 1861. Đến năm 1923 hình thành chữ viết Ê Đê. Sử thi được biết đến đầu tiên là Đam San được sưu tập và xuất bản bằng tiếng Pháp tại Paris (Le Chanson de DamSan). Đến 1933, tạp chí của học viện Viễn Đông bác cổ tại Hà Nội in lại dưới hình thức song ngữ Êđê - Pháp. Vào tháng 2 năm 1949, phát hiện một bộ đàn đá mang tên Ndút Liêng Krak tại Đắc Lắc và bộ nhạc cụ thời tiền sử vô giá này hiện được lưu giữ tại Viện Bảo tàng Con Người - Paris. Vào ngày 15 tháng 11 năm 2005, Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Dân cư: Nhiều dân tộc thiểu số chung sống với dân tộc Việt (Kinh) ở Tây Nguyên như Ba Na, Gia Rai, Ê đê, Cơ Ho, Mạ, Xơ Đăng.... Chính quyền Việt Nam cộng hòa gọi chung những dân tộc này là "đồng bào sắc tộc" hoặc "người Thượng"; "Thượng" có nghĩa là ở trên, "người Thượng" là người ở miền cao hay miền núi, một cách gọi đặc trưng để chỉ những sắc dân sinh sống trên cao nguyên miền Trung. Năm 1976, dân số Tây Nguyên là 1.225.000 người, gồm 18 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 853.820 người (chiếm 69,7% dân số). Năm 1993 dân số Tây Nguyên là 2.376.854 người, gồm 35 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 1.050.569 người (chiếm 44,2% dân số). Năm 2004 dân số Tây Nguyên là 4.668.142 người, gồm 46 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 1.181.337 người (chiếm 25,3% dân số). Riêng tỉnh Đắc Lắc, t ừ 350.000 người (1995) tăng lên 1.776.331 người (1999), trong 4 năm tăng 485%. Kết quả này, một phần do gia tăng dân số tự nhiên và phần lớn do gia
  16. tăng cơ học: di dân đến Tây nguyên theo 2 luồng di dân kế hoạch và di dân t ự do. Người dân tộc đang trở thành thiểu số trên chính quê hương của họ. Sự gia tăng gấp 4 lần dân số và nạn nghèo đói, kém phát triển và hủy diệt tài nguyên thiên nhiên (gần đây, mỗi năm vẫn có tới gần một nghìn héc-ta rừng tiếp tục bị phá ) đang là những vấn nạn tại Tây Nguyên và thường xuyên dẫn đến xung đột. Theo kết quả điều tra dân số 01/04/2009 dân số Tây Nguyên (gồm 05 tỉnh) là 5.107.437 người, như thế so với năm 1976 đã tăng 3,17 lần , chủ yếu lả tăng cơ học. Hiện nay, nếu tính cả những di dân tự do không đăng ký c ư trú với cơ quan chính quyền ước lượng dân số Tây Nguyên thực tế vào khoảng 5,5 đến 6 triệu Chương III: Uống Rượu Cần- một nét văn hóa đặc sắc của Tây Nguyên 3.1. Giới thiệu về Rượu Cần Trên trên khắp dải đất Việt Nam thân yêu có lẽ không có nơi nào con người lại không có thứ đồ uống này, tuy cùng làm bằng một loại men đặc biệt ủ với ngũ cốc, hoa quả để có một chất nước cay cay làm say lòng người song, hương vị mỗi loại, mỗi nơi, mỗi khác. Ở nước ta mỗi vùng miền đều có những loại rượu mang hương vị độc đáo riêng biệt. Ở miền Bắc có rượu Làng Vân hay rượu cúc, rượu sen, rượu hoa cau; ở Bình Định có rượu Bàu Đá, rượu nếp nức tiếng nhiều nơi, ở miền Nam có rượu nếp than, Gò Đen… còn ở miền núi, vùng Tây Nguyên đồng bào dân tộc có loại rượu ủ bằng cơm gạo, bắp (mỳ) đựng trong ghè không kém phần độc đáo, hấp dẫn - đó là rượu cần. Rượu Cần không chỉ đơn thuần là một thức uống mà nó còn là một nét văn hóa không thể thiếu trong đời sống cộng đồng các đân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. 3.1.1. Khái niệm Rượu Cần Rượu cần là cách gọi của người Việt đối với loại rượu đặc sản được một số dân tộc thiểu số Việt Nam ủ men trong hũ/bình/ché/chóe/ghè, không qua
  17. chưng cất, khi đem ra uống phải dùng các cần làm bằng tre/trúc đục thông lỗ để hút rượu. Rượu cần là thứ đồ uống quý thường chỉ dùng trong các dịp lễ tế thần linh, những ngày hội làng và dành đãi khách. 3.1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của Rượu Cần Có lẽ tên gọi Rượu Cần là xuất phát từ cách uống vô cùng độc đáo của nó. Đây là loại rượu duy nhất không uống bằng ly, bằng chén mà uống bằng “cần”. Tuy nhiên sự ra đời của Rượu cần cũng gắn với nhiều câu chuyện được bà con kể lại. Khi được hỏi về nguồn gốc xuất xứ của R ượu cần, những người lớn tuổi( già làng) ở Đạ Tẻh đều nói là rượu cần có từ rất lâu do tổ tiên truyền lại, và họ cũng được nghe những câu chuyện về rượu cần từ tổ tiên của mình rằng : “thuở xa xưa có người đến nhà thần Nhím chơi và được cho uống thứ nước trắng đục, cảm giác say lâng lâng nên thấy hay mà nhờ thần Nhím bày cách làm, bày cho cách uống”.(lời của ông K’Tỏi – già làng buôn Con Ó xã Mỹ Đức).Vì vậy, đồng bào dân tộc có thói quen trước khi uống phải mời Yàng, mời thần Nhím uống trước, sau đó mới tới khách, chủ. Không phải ai đến nhà chơi cũng được thết đãi cả, khách quý mới được mời uống và phải uống thực lòng, chân tình, nếu sợ thì đừng uống do đó Rượu Cần như một thức uống “tâm linh vừa có thần thánh lại vừa có con người hiện hữu trong cuộc vui bên ché rượu”. Như vậy, Rượu Cần là thứ đồ uống đặc biệt đã có từ rất lâu, gắn liền với lịch sử, văn hóa của tộc người Tây Nguyên . Và nó không chỉ là một trong những nét đặc trưng nghệ thuật ẩm thực (uống) rất riêng và độc đáo của người Tây Nguyên mà Rượu Cần là một thứ đồ uống quý d ùng trong các lễ tế thần linh, những ngày hội làng và những dịp tiếp khách. R ượu cần qúy bởi lẽ đây là thứ thừc uống do thần( Yàng) bày cho cách làm hơn nữa nó được làm khá công phu từ chất liệu lương thực ( cơm gạo). Thứ sản phẩm nuôi sống con người.
  18. Đối với người Tây Nguyên , trước năm 1975, hầu như gia đình nào cũng làm Rượu Cần và nó phổ biến trong đời sống hàng ngày của đồng bào.Từ sau ngày giải phóng, cùng với những chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, quá trình chuyển đổi từ lối sống du canh du c ư sang lối sống định canh và phương thức canh tác lúa rẫy bị thu hẹp khiến Rượu Cần cũng có phần thu hẹp hơn trước về chế biến và sử dụng. Thay vì chế biến thường xuyên như trước đây, Rượu Cần chỉ được bà con làm vào dịp lễ hội của làng, các dịp tiếp khách quan trọng ( đoàn thăm quan, nghiên cứu tù miền xuôi lên) hoặc làm để bán khi có người đến đặt mua. Mặc dù vậy vị trí và tầm quan trọng của Rượu cần trong đời sống cộng đồng người Tây Nguyên không hề bị mai một. Những nét nguyên liệu độc đáo trong nguyên liệu, cách thức chế biến nhất, là các nghi thức uống vẫn được bà con giữ gìn đến tận ngày nay. Trong tiến trình lịch sử của cư dân Tây Nguyên, chính Rượu Cần đã tạo nên một nét văn hóa độc đáo của tộc người – văn hóa Rượu Cần – một phần tạo nên sắc thái văn hóa Việt Nam. 3.2. Quá trình làm rượu 3.2.1. Nguyên liệu Nguyên liệu làm Rượu Cần chủ yếu là những loại ngũ cốc thông dụng như gạo nếp, gạo tẻ, ngô (bắp), sắn ( mỳ)…Tùy theo điều kiện kinh tế từng gia đình và thói quen của từng vùng miền, từng dân tộc. Mỗi loại cho một hương vị ngọt ngào riêng. Đối với người Tây Nguyên thì nguyên liệu được ưa chuộng và phổ biến nhất là gạo tẻ. Họ cho rằng làm rượu với sắn hoặc ngô thì rượu bị đắng, rất khó uống và khi uống vào dễ gây đau đầu ảnh hưởng đến sức khỏe. Nguyên liệu chính có thể tương đối giống nhau giữa các tộc người, song bí quyết chính là ở chất gây men. Chất gây men chủ yếu là rễ cây, vỏ cây và lá rừng, nhưng mỗi vùng miền, mỗi tộc người lại sử dụng loại cây không giống nhau. Nếu như nguyên liệu làm men của người Cơho, Gia Rai gồm có gạo, cùng với vỏ cây “hiam” lấy ở trong rừng cùng bột ớt, gừng, riềng…; người
  19. Êđê dùng gạo với hoa, lá, rễ cây dong rửa sạch cùng riềng gừng… Thì nguyên liệu làm men của người Mạ có phần đơn giản hơn gồm gạo và một số loại vỏ hoặc lá cây rừng. Các loại lá rừng thường dùng là lá cây Gàng (hình bên), lá cây Zung, lá cây Vlân( một loại cà của người Mạ), lá mít…Tuy nhiên loại lá phổ biến nhất là lá Gàng. Người ta cũng có thể dùng vỏ hoặc lá cây “Ktờram” nhưng loại vỏ cây này rất đắng nên ki dùng phải ủ lâu hơn( thường từ 6 tháng đến 1 năm) và thường dùng cho các loại ché lớn vào các dịp lễ hội quan trọng của buôn làng 3.2.2. Quy trình làm men Chuẩn bị Sơ chế Trộn, chế Phơi Sấy Quy trình nguyên nguyên khô biến khô làm men liệu liệu Sau khi chuẩn bị xong nguyên liệu: gạo + lá cây hoặc vỏ cây, người Tây Nguyên bắt đầu công việc làm men: Gạo được ngâm vào nước lạnh từ 3 – 4 tiếng đồng hồ cho nó mềm sau đó vớt ra, để ráo nước. Lấy lá cây hoặc vỏ cây rửa sạch phơi khô ( có thể làm lá tươi hoặc lá khô), bỏ vào cối giá chung với gạo thành một thứ bột mịn, trộn với nước nặn thành từng bánh. Có thể dùng chén làm khuôn, cho hỗn hợp bột men vào chén, nặn chặn sau đó lật úp chén đổ men ra, dùng que tạo thành một đường lỗ ở giữa rồi đem những những miếng bánh này ra phơi nắng . Khi các miếng bánh men này khô cứng lại, lấy dây xâu lỗ và treo trên giá bếp để sấy khô. Men có thể dùng liền và cũng có thể để giành từ từ nhưng thời gian để không được quá lâu (3 – 5 tháng), nếu thời gian quá dài men sẽ bị chua không làm rượu được nữa. Người Mạ có thói quen làm men một một lần, do đó một lần men có thể làm được nhiều ché rượu cần. Khi hết số men trên giá bếp thì lại làm tiếp đợt sau.
  20. Nhiều người cũng đã thưởng thức rượu cần Tây Nguyên, nhưng ít ai biết đến thứ "nguyên liệu chính hiệu" để làm nên nó: Men rừng! Thứ "men" mà từ lâu như sợi chỉ dệt nên những tấm ui (phụ nữ thường làm xà rông) - tự nó lưu truyền đời này qua đời khác, gắn chặt với đời sống cộng đồng bà con bản địa và làm nên một loại "Thức uống tâm linh" của bản làng - rượu cần. Chính bởi men rượu là bí quyết để làm nên hương vị, phẩm chất của rượu, là xương cốt, hồn phách của rượu. Qua men rượu người ta có thể phân biệt được rượu của các tộc người khác nhau. Do đó công đoạ n làm men có thể coi là công đoạn quan trọng nhất, những ché rượu bị hỏng (chua, đắng…) phần lớn là do men gây nên. Chị Đường Dẫu Hà, ngụ tại Tà Nung (Đà Lạt), người có công khôi phục lại thương hiệu rượu cần của địa phương trước đây cho biết: "Để làm được một choé rượu cần phải trải qua rất nhiều công đoạn. Các loại gạo, nếp, sắn...nói chung ngũ cốc có tinh bột đều làm được rượu. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là tạo ra mùi hương". Để tạo nên mùi hương đặc trưng cho rượu cần, nhiều người sử dụng gần 30 vị thuốc như sa nhân, đinh hương, quế, thảo khấu... tạo ra hương vị cay, đắng, ngọt, thơm... Nhưng, đó vẫn mới chỉ là loại rượu cần thương phẩm. Muốn có một ché rượu cần ngon đúng nghĩa, theo đồng bào dân tộc Cil ở thôn Măngline (Đà Lạt) thì cần phải có loại men rừng. Nhưng loại men này không mấy người làm được. Vào mùa xuân, khi cây atisô rừng bắt đầu ra hoa và cho nhựa..., những người làm rượu cần vào tận rừng sâu để tìm rễ và bông của loại cây này (đây là hương liệu chính của rượu cần) mang về phơi khô và giã thành bột để làm men (đồng bào K'Ho gọi là "dòng"). Anh Păng Til Mút cho biết: "Đây là loại men có tính độc mà đồng bào còn gọïi là "pơ ngai". Loại men này có thể gây chết người ở liều lượng cao. Tuy nhiên, ở liều lượng nhỏ, nó chỉ làm cho tâm hồn ngất ngây mà thôi. Kế đến lấy bột men trộn đều với cơm gạo, nếp hoặc bắp..., sau đó giã thành bột và tạo thành những "vú men" cỡ như cái chén đem
nguon tai.lieu . vn