Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN: Thực trạng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực trong công ty Bảo hiểm Nhân thọ Prudential Việt Nam
  2. Lờii nóii đầu Lờ nó đầu Chúng ta đang bước vào Thế kỷ XXI với những biến đổi nhanh chóng về khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Điều này đòi hỏi chúng ta phải thay đổi tư duy kịp thời, nhất là cách nhìn và tầm nhìn sao cho phù hợp với yêu cầu cao của thời đại, đồng thời tạo ra được sự thích nghi tốt. Đây cũng là bài toán vận mệnh cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, bằng truyền thống và năng lực nội sinh của mình, phải tạo ra được những bước đi đúng đắn nhất để có thể nhanh chóng tiếp cận và hoà nhập vào trào lưu chung đó. Trong một thế giới đầy sáng tạo và biến động cực kỳ nhanh chóng, con người muốn tồn tại và phát triển thì điều đầu tiên là cần phải biết cách thích nghi, chủ động thích nghi. Tuy nhiên, trong quá trình thích nghi phải biết phát huy sở trường, bản lĩnh của mình để chủ động tham gia sáng tạo. Quan điểm đúng đắn ngày nay là kết hợp giữa thích nghi và sáng tạo. Thực ra con người biết cách thích nghi tối ưu với xã hội cũng là con người có phẩm chất sáng tạo. Nói đến hoạt động của con người với cộng đồng và xã hội là phải nói tới sản phẩm và hiệu quả, có vậy mới tồn tại và phát triển được. Để đạt được các ý tưởng và nguyện vọng này, chúng ta không có con đường nào ưu việt hơn là phát triển và quản lý nguồn Nhân lực- một đầu vào quan trọng nhất trong mọi hoạt động của xã hội loài người, một cách hiệu quả và bền vững nhất. Đối với nước ta, thế kỉ XXI là cơ hội to lớn để phát triển và từng bước hoà nhập, sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Nhưng đồng thời đ ây cũng là thách thức vô cùng khó kh ăn, kh ốc liệt, đòi hỏi dân tộc ta phải cố gắng và cải tiến không ngừng, cùng với nghị lực phi th ường và tài năng sáng tạo để đ i tới thành công.
  3. Một tư duy lý luận ngang tầm thời đại là yêu cầu cấp thiết đối với dân tộc ta, bởi lẽ “Một dân tộc muốn phát triển phải có một tư duy lý luận phát triển”. Dân tộc ta đã phải trải qua hàng trăm năm chiến đấu chống giặc ngoại xâm để bảo vệ đất nước và giành độc lập chủ quyền. Đến nay, khi bước vào kỷ nguyên mới, tiếp tục dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng, chúng ta hoàn toàn hy vọng và đặt trọn niềm tin rằng đất nước và con người Việt nam sẽ vững bước trong công cuộc đấu tranh chống nghèo nàn, lạc hậu và xây dựng một nước Việt Nam công nghiệp hoá, Hiện đại hoá, dân giàu, nước mạnh, xã hội Công bằng- Dân chủ- Văn minh. Để đạt được mục tiêu này, Đảng ta đã vạch ra mục tiêu “Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá” đất nước. Cụ thể là phải tăng GDP (Tổng sản phẩm trong nước) lên gấp đôi sau mỗi thập niên, phấn đấu đến năm 2010 đưa đất nước ta căn bản trở thành một nước công nghiệp. Hơn lúc nào vai trò của Khoa học- Công nghệ được đặt lên hàng đầu với vị trí quốc sách là công tác giáo dục, đào tạo. Tri thức trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp, đáp ứng kịp thời và nhạy bén những yêu cầu bức xúc, đa dạng của cuộc sống. Đối với doanh nghiệp một sự thay đổi, đặc biệt là trong Khoa học công nghệ, cũng đòi hỏi người lao động phải nhanh chóng nắm bắt, thích nghi và điều chỉnh kiến thức, tay nghề của mình. Với sự bùng nổ của Công nghệ thông tin và sự phát triển như vũ bão của Khoa học kĩ thuật hiện nay thì khâu giáo dục đào tạo càng trở nên quan trọng và thiết yếu. Đó chính là chìa khoá giúp cho doanh nghiệp phát triển, nâng cao năng suất, có tính cạnh tranh cao trên thị trường. Chính vì lẽ đó giáo dục, đào tạo và phát triển con người là đầu tư "Vốn" cho mục tiêu tăng trưởng lâu dài, bền vững của doanh nghiệp trong tương lai. "Nếu bạn lập kế hoạch cho 1 năm, hãy trồng lúa Nếu bạn lập kế hoạch cho 20 năm, hãy trồng rừng Nếu bạn lập kế hoạch cho hàng thế kỷ, hãy đầu tư vào con người" (Trích Ngạn ngữ Trung Quốc) Nhận thức được tình hình trên và với mong muốn được có cơ hội hiểu rõ hơn về thực trạng công tác đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực tại doanh nghiệp, em đã chọn
  4. đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực trong công ty Bảo hiểm Nhân thọ Prudential Việt Nam” làm khoá luận tốt nghiệp của mình. Mục đích nghiên cứu đề tài: Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích và đánh giá thực trạng nguồn Nhân lực hiện có của công ty Bảo hiểm Nhân thọ Prudential Việt Nam. Trên cơ sở đó đề ra những biện pháp và kế hoạch thích hợp nhằm đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực đáp ứng các chiến lược phát triển kinh doanh trước mắt cũng như lâu dài của của công ty. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đây là đề tài thuộc nhóm ngành Khoa học Xã hội, nghiên cứu các hoạt động đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực tại một công ty Bảo hiểm của nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Vậy đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là công tác đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực tại công ty Bảo hiểm Nhân thọ Prudential Việt Nam bắt đầu từ năm 1995. 3. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản như: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp điều tra chọn mẫu các đối tượng liên quan, phân tích, tổng hợp thống kê và so sánh. Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp này được sử dụng một cách linh hoạt, hoặc kết hợp hoặc riêng lẻ để giải quyết các vấn đề được tốt nhất. Nội dung của khoá luận: Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 3 phần như sau: Chương một: Cơ sở lý luận của đề tài.
  5. Chương hai: Thực trạng về công tác đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực tại công ty Bảo hiểm Nhân thọ Prudential Việt Nam. Chương ba: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực tại công ty Bảo hiểm Nhân thọ Prudential Việt Nam.
  6. Chương mộtt Chương mộ Cơ sở lý luận của đề tài 1. Một số tư tưởng kinh điển của Mác, Anghen và LêNin về giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Khái quát chung: Từ thời xa xưa con người đã nhận thức được một cách sâu sắc rằng chỉ có lao động mới tạo ra được của cải vật chất, và chỉ có lao động con người mới tồn tại và phát triển trong xã hội. Thông qua lao động nhu cầu sinh học của con người mới được thoả mãn và các mối quan hệ trong xã hội mới nảy sinh. Nếu như Ricácđô và Smith coi lao động là “Cái sáng tạo ra giá trị”(1), thì Mác chứng minh rằng chính lao động “Sáng tạo nên con người và toàn bộ lịch sử loài người”(1). Mặt khác, xã hội cũng là nhân tố chính tác động không nhỏ đến sự hình thành ý thức của con người. Xã hội là điều kiện, là môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân được thực hiện. Xã hội càng phát triển thì quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội càng đa dạng, phức tạp và phong phú. Nói như vậy để thấy rằng bản chất của con người không phải là “Cái sinh ra một lần là xong” , mà nó là quá trình con người không ngừng tự hoàn thiện mình nhằm chứng minh sự tồn tại trước các lực lượng tự phát của thiên nhiên. Con người là đại diện chính cho lực lượng sản xuất vật chất và lĩnh vực kinh tế và vì vậy nó là động lực chủ yếu của tiến bộ xã hội. Mặc dù khoa học cùng với những thành tựu công nghệ, những tư tưởng tiên tiến cũng đóng một vai trò quan trọng, tác động mạnh đến sự phát triển xã hội nhưng xét đến cùng mọi thành tựu đó cũng đều do con người sáng tạo mà thành. Bởi lẽ, thông qua hoạt động thực tiễn của con người, thông qua sự tác động của nó đến quá trình sản xuất và thông qua trình độ hiểu biết khoa học của người lao động thì các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới được đưa vào thực (1) “Bản thảo triết học kinh tế” năm 1844 của Mác
  7. tiễn. Bởi vì lợi ích kinh tế luôn là động lực phát triển quan hệ sản xuất nên lực lượng sản xuất theo đó cũng phải có những thay đổi tích cực về mặt nhận thức để thúc đẩy xã hội phát triển. Nói về quan hệ giữa trình độ lao động với sự phát triển xã hội ta phải kể đến quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. 1.1. Nội dung Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: 1.1.1. Lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài người. Đó là kết quả hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của chính mình. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động. Trong đó, tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Nếu như đối tượng lao động là một phần của giới tự nhiên được con người chuyển hoá và sáng tạo nhằm không ngừng mở rộng khả năng sản xuất thì tư liệu lao động trong đó công cụ lao động được coi là "Hệ thống xương cốt và bắp thịt của sản xuất"(2) là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của loài người. Tuy nhiên, tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao động khi chúng kết hợp với lao động sống. Chính con người với trí tuệ và năng lực của mình đã chế tạo ra tư liệu lao động và sử dụng nó để thực hiện sản xuất. V. I. LêNin từng viết: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”(2). Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất có sự tác động biện chứng. Sự hoạt động của tư liệu lao động phụ thuộc vào trí tuệ, sự hiểu biết và kinh nghiệm của con người. Ngược lại, con người cùng với tri thức khoa học không ngừng sáng tạo ra các tư liệu lao động mới nhằm hoàn thiện kỹ thuật và phương pháp sản xuất. Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự phát triển của tư liệu lao động thích ứng với bản thân con người, với sự phát triển văn hoá, khoa học, kỹ thuật của mình. (2) Trích V.I Lênin toàn tập, trang 38
  8. Năng suất lao động xã hội là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng thời, xét đến cùng nó là nhân tố quan trọng nhất cho mọi sự thắng lợi của một trật tự xã hội mới. Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã tạo ra bước nhảy vọt lớn trong lực lượng sản xuất. Khoa học thực sự trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp, đóng vai trò quan trọng. Thực chất của cuộc cách mạng này là mở ra một kỷ nguyên mới của sản xuất tự động hoá với việc phát triển và ứng dụng điều khiển học tự động và vô tuyến điện tử. Khoa học trở thành điểm xuất phát cho những biến đổi to lớn trong kỹ thuật sản xuất, tạo ra những ngành sản xuất mới, kết hợp với khoa học thành một thể thống nhất, đưa đến những phương pháp công nghệ tiên tiến đem lại hiệu quả cao. Việc phát hiện, khai thác và chế tạo các nguồn năng lượng mới như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, hay như sự thay thế dần người lao động trong sản xuất bằng tự động hóa và người máy (rôbốt) đã tạo ra sự biến đổi lớn trong chức năng của người sản xuất. Dần dần con người không còn phải thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chủ yếu là sáng tạo và điều khiển quá trình đó một cách chủ động: tri thức khoa học trở thành một tất yếu trong hoạt động của người sản xuất thay cho thói quen và kinh nghiệm thông thường. Tri thức khoa học được vật chất hoá, được kết tinh vào mọi nhân tố của lực lượng sản xuất từ đối tượng lao động, tư liệu lao động đến kỹ thuật, phương pháp công nghệ và nó được gọi là "Khoa học hoá trong sản xuất". Do khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp mà cấu thành lực lượng sản xuất cũng thay đổi. Lực lượng lao động không chỉ bao gồm lao động chân tay, mà còn bao gồm cả kỹ thuật viên, kỹ sư và những cán bộ khoa học. Để đạt mục tiêu kinh tế nhất và sự tiến bộ xã hội thì việc nâng cao dần trình độ của người lao động là nhu cầu cấp thiết hiện nay. 1.1.2. Quan hệ sản xuất: Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất. Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản xuất được thể hiện ở chỗ chúng tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người. Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau:
  9. - Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. - Quan hệ tổ chức quản lý. - Quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Ba mặt trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả những quan hệ khác. Bởi lẽ bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết và phân bố như thế nào. Các hệ thống quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử đều tồn tại trong một phương thức sản xuất nhất định. Hệ thống quan hệ sản xuất thống trị trong mỗi hình thái kinh tế- xã hội quyết định tính chất và bộ mặt hình thái kinh tế- xã hội ấy. Vì vậy, khi nghiên cứu, xem xét tính chất của một hình thái xã hội nào thì không chỉ nhìn ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà còn phải xét đến tính chất của quan hệ sản xuất. 1.1.3. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật xã hội. Quy luật này vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất vào sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đến lượt nó quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. * Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất: Tính chất của lực lượng sản xuất do tính chất của tư liệu sản xuất và của lao động quyết định. Tính chất cá nhân thể hiện ở sự kết hợp giữa sử dụng công cụ thủ công với hoạt động riêng lẻ của con người, trong khi tính chất xã hội lại là sự hợp tác của nhiều người cùng với các thiết bị máy móc để hoàn thành một sản phẩm. Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động, của kỹ năng lao động, công nghệ sản xuất, trình độ phân công lao động xã hội. Ngày nay, trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện rõ ràng nhất qua trình độ phát triển của phân công lao động.
  10. * Quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi, phát triển được quyết định bởi lực lượng sản xuất: Trong quá trình sản xuất, con người không ngừng sáng tạo và cải thiện công cụ lao động cũng như điều kiện sản xuất để giảm thiểu chi phí sản xuất và tối đa hóa lợi nhuận. Cùng với sự biến đổi này thì kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng sản xuất và kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ theo. Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất trong khi đó thì quan hệ sản xuất lại tương đối ổn định, có khuynh hướng bảo thủ hơn. Lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức; hình thức phụ thuộc vào nội dung; nội dung thay đổi trước sau đó hình thức mới biến đổi theo. Tất nhiên trong quan hệ với nội dung, hình thức không phải là mặt thụ động mà nó cũng có tác động trở lại đối với sự phát triển của nội dung. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi sao cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Tuy vậy, tất yếu mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ nảy sinh. Bởi lẽ khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới, quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa sẽ trở thành ch ướng ngại đối với sự phát triển và vì vậy quan hệ sản xuất cũ bị phá vỡ, quan hệ sản xuất mới sẽ nảy sinh để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. * Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất: Sự hình thành, biến đổi và phát triển của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội, nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của sản xuất, hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó tác động trực tiếp vào đúng nhu cầu kinh tế của người lao động- lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội; nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động, học tập nâng cao trình độ chuyên môn, hợp tác và phân công lao
  11. động. Tuy nhiên, không nên hiểu quan hệ sản xuất chỉ là vai trò của những hình thức sở hữu. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một hệ thống, một chỉnh thể hữu cơ gồm cả 3 mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó quan hệ quan hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc đẩy con người hành động nhằm phát triển sản xuất. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội. Sự tác động của quy luật này đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất: Công xã nguyên thủy, Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghĩa và Xã hội Chủ nghĩa. 1.2. Nội dung về mối quan hệ giữa con người và xã hội: Trong lịch sử tư tưởng triết học có rất nhiều quan điểm khác nhau về con người. Quan điểm duy tâm giải thích con người từ sự sáng tạo của thần thánh hoặc ý niệm trừu tượng siêu nhiên, quan điểm duy vật siêu hình lại có khuynh hướng tìm hiểu con người từ góc độ tộc loại sinh học với những ham muốn bản năng. Tuy nhiên những quan niệm trên đều là những cách nhìn phiến diện về con người, không phản ánh được con người như nó đang thể hiện. Chỉ có quan điểm duy vật lịch sử cho rằng con người là một thực thể thống nhất của sinh học và xã hội là đưa ra tầm nhìn khái quát nhất về con người. 1.2.1. Con người là một thực thể sinh học: Nói đến yếu tố sinh học ở đây là ta muốn nói đến các yếu tố hữu sinh, hữu cơ, cái làm cho con người hình thành và hoạt động như một cá thể sống. Nói cách khác đó chính là cơ thể con người với bản chất tâm sinh lý, ý thức khác biệt hẳn so với giới động vật. 1.2.2. Con người là một thực thể xã hội: Yếu tố xã hội là tất cả những mối quan hệ, những quy định xã hội tạo nên cá nhân con người. Sự hình thành bản chất xã hội của con người chính là thông qua lao động sản xuất. Các Mác từng nói: “Bản thân con người bắt đầu bằng sự phân biệt với
  12. súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình”(3).Bởi vì: - Lao động là nguồn gốc của nền văn minh vật chất và tinh thần. - Lao động là nguồn gốc trực tiếp của sự hình thành ý thức. - Trong lao động con người quan hệ với nhau trong lĩnh vực sản xuất, phân công và phân phối sản phẩm. Nói như vậy để thấy rằng, xã hội không phải là thực thể tồn tại độc lập bên ngoài cái bản tính sinh học của con người mà xã hội là phương thức (hình thức) cho con người thỏa mãn những nhu cầu sinh học. 1.2.3. Quan hệ biện chứng giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội: Angghen là người đầu tiên đã chỉ ra mối quan hệ giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người. Ông viết: “Bàn tay không chỉ là khí quan dùng để lao động mà còn là sản phẩm của lao động”(4) và “Trước hết là lao động; sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc con người”(4). Đến khi C.Mác vạch ra luận điểm: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”(5) thì Lênin cũng thừa nhận yếu tố xã hội là cái thường xuyên tác động và có ảnh hưởng lớn đến bản chất và sự phát triển của con người. Lênin không tán thành quan điểm cho rằng mọi người đều giống nhau về mặt sinh học, có chăng chỉ là bình đẳng xã hội. Bởi lẽ: “Thực hiện một sự bình đẳng về sức lực và tài năng của con người thì đó là một điều ngu xuẩn. Nói tới bình đẳng thì đó là sự bình đẳng xã hội chứ quyết không phải là sự bình đẳng về thể lực và trí lực cá nhân”(6). (3) C. Mác và Ph. Angghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, trang 29 (4) C. Mác và Ph. Ănggen: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia Hà Nội, tập20, trang 646 (5) C.Mác và Ph.Ănggen: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1994, trang 11 (6) V.I. Lênin: Toàn tập, NXB Tiến Bộ Mátxcơva 1986, tập 24, trang 440
  13. Con người là một hệ thống hoàn chỉnh trong đó mối tương tác qua lại giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội được thể hiện rõ. Con người phải lao động để duy trì sự tồn tại và thoả mãn các nhu cầu sinh học (nhu cầu tự nhiên) của mình, đồng thời không ngừng hoàn thiện mình trước sự phát triển của xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu sinh học ngày càng tăng. Chính vì vậy, bản chất của con người cũng không phải là cái đã sinh ra một lần là xong mà nó là quá trình con người tự hoàn thiện mình để thích nghi và cải thiện xã hội. Một sự ngưng trệ trong nhận thức, cũng như quan điểm bảo thủ cứng nhắc của con người trước sự thay đổi chóng mặt của giới tự nhiên sẽ chỉ làm cho con người bị đào thải và loại bỏ khỏi xã hội đó. Việc nhận thức đúng đắn chiến lược giáo dục, đào tạo con người trong thời đại mới có ý nghĩa tích cực cho cuộc sống của con người và cho sự tiến bộ xã hội. 2. Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Tuy có sự khác nhau về mặt địa lý, trình độ phát triển nhưng các nước trên thế giới ngày nay đang bị cuốn hút vào cuộc cách mạng Khoa học và Công nghệ hiện đại. Tri thức khoa học xâm nhập vào mọi mặt của đời sống xã hội và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Hàm lượng chất xám trong sản phẩm lao động ngày càng cao, khoa học trở thành nguồn tăng trưởng kinh tế, nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hoá sâu sắc. Tình hình đó vừa tạo ra thời cơ để rút ngắn quá trình phát triển, vừa đặt ra những thách thức gay gắt đối với những quốc gia đang còn lạc hậu về kinh tế. Với đặc điểm nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên Chủ nghĩa Xã hội bỏ qua chế độ Tư bản Chủ nghĩa, nên ngay từ đầu chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn. Như V.I.Lênin viết: “Cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ CNTB lên CNXH vì cải tổ sản xuất là việc khó khăn, vì cần phải có thời gian mới thực hiện được những thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, và vì phải trải qua một cuộc sống đấu tranh quyết liệt, lâu dài mới có thể thắng được sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo kiểu Tiểu tư sản và Tư sản. Bởi vậy, Mác có nói đến cả một thời kỳ Chuyên chính Vô sản, thời kì Quá độ từ CNTB lên CNXH”(7) (7) V.I. Lênin: Toàn tập, tập 38, trang 464
  14. Hàng loạt những thách thức đang đặt ra đối với chúng ta là làm sao vừa phát triển đất nước đi đúng con đường Chủ nghĩa Xã hội, vừa đưa đất nước đạt được mục tiêu Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá một cách nhanh nhất. Đồng thời phải biết phát huy những lợi thế đất nước, tận dụng mọi tiềm lực để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về Khoa học Công nghệ. Nhu cầu cấp thiết đó đã đặt ra cho Đảng ta ngay từ những năm đầu phát triển đất nước là: “Cần chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”(8) và để đạt được mục tiêu đó thì “Cùng với Khoa học và Công nghệ, Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”(8). Thực tiễn sản xuất ở nước ta trong những năm vừa qua còn nhiều yếu kém là do chưa làm chủ được bí quyết công nghệ, trình độ công nhân còn chưa cao và vì vậy tuy có thiết bị hiện đại, có dây chuyền tiên tiến nhập về, nhưng sản phẩm làm ra vẫn không đạt yêu cầu chất lượng như mong muốn, công suất thiết bị máy móc sử dụng ở mức còn quá thấp, chưa tận dụng được mọi tính năng. Để làm ra những sản phẩm được thị trường chấp nhận, có sức cạnh tranh ngày một cao, thì việc trang bị dây chuyền thiết bị tốt thôi chưa đủ mà còn phải có những kỹ sư, công nhân có tay nghề cao, nắm được bí quyết công nghệ. Đồng thời phải có một bộ máy quản lý năng động đủ sức nắm bắt nhu cầu biến động của thị trường, có khả năng nhanh chóng tổ chức lại dây chuyền sản xuất linh hoạt, phù hợp với yêu cầu khách hàng để chế tạo ra những sản phẩm mới. Điều này đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi mà công nghệ đã thực sự trở thành nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và thế giới. Trong điều kiện cách mạng công nghệ hiện nay, sự đẩy nhanh về số lượng của nguồn lao động đơn giản hoặc tay nghề thấp sẽ ngày càng mất dần ý nghĩa của nó và lợi thế sẽ thuộc về những quốc gia nào có nguồn Nhân lực trí tuệ cao, có kỹ năng vững (8) Nghị quyết TW lần thứ 4, khoá VII
  15. vàng, có khả năng sáng tạo theo kịp sự phát triển của Khoa học Công n ghệ hiện đại. Vì vậy, trong các kỳ Đại hội, Đảng và Nhà nước ta luôn coi Giáo dục, Đào tạo và Phát triển nguồn Nhân lực là khâu then chốt, là điều kiện cần để đưa nước ta thoát khỏi đói nghèo và vững mạnh trên con đường Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước. Một trong những ưu thế của Việt Nam là nguồn Nhân lực dồi dào, tỷ lệ lao động nhóm trẻ cao (tỷ lệ lao động từ 18-34 tuổi chiếm khoảng 25% lực lượng lao động). Tuy là nước có mức thu nhập Quốc dân bình quân đầu người thấp (400 USD) nhưng trình độ học vấn và dân trí của Việt Nam lại khá cao. Hiện nay, tỷ lệ dân số biết chữ chiếm khoảng 94%, tỷ lệ lao động biết chữ khoảng 97%, số năm đi học trung bình là 7,3; lao động Việt Nam có truyền thống cần cù, sáng tạo và đang từng bước được giải phóng; giá công lao động lại khá thấp. Tuy nhiên, nguồn Nhân lực Việt Nam nhìn chung sức khỏe còn hạn chế, đa số lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật dẫn đến năng suất lao động thấp. Đến năm 2002 mới có 25% lao động qua đào tạo, trong đó 15,5% được đào tạo nghề, thiếu nghiêm trọng lao động trình độ cao. Để đánh giá ưu thế cạnh tranh của nguồn Nhân lực, các tổ chức quốc tế dựa vào các chỉ số đánh giá chất lượng hệ thống giáo dục (vì Giáo dục- Đào tạo là chìa khóa để nâng cao chất lượng lao động). Đó là các chỉ số đánh giá mức độ sẵn có lao động sản xuất, lao động hành chính, cán bộ quản lý, lao động thành thạo công nghệ có chất lượng cao và mức độ thành thạo tiếng Anh. Nếu điểm 10 là điểm cao nhất thì chỉ số tổng hợp của Việt Nam là 3,79 cụ thể mức độ sẵn có lao động sản xuất là 3,25 điểm; đối với lao động hành chính là 3,50 điểm; đối với lao động quản lý là 2,75 điểm; sự thành thạo tiếng Anh là 2,62 điểm và lao động thành thạo công nghệ cao là 2,50 điểm. Trong khi chỉ số tổng hợp ở Hàn Quốc là 6,91; Trung Quốc 5,73; Malayxia là 5,59.(9) So với quốc tế, mặc dù Việt Nam có giá công lao động thấp, tuy nhiên lợi thế này đang mất dần do năng suất lao động không cao, quản lý còn yếu kém. So với các nước, năng suất lao động của Việt Nam khoảng 743USD một lao động/năm, thấp hơn cả Bangladesh (1.711USD 1 lao động/ năm), Trung Quốc (2.885 USD 1 lao động/ năm), chỉ bằng 3,7% Thái Lan, 0,91% Mỹ; 0,8% Nhật Bản. Đội ngũ cán bộ quản lý
  16. thiếu kinh nghiệm, non kém về trình độ. Chính vì nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn Nhân lực trong thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta luôn coi “Vốn con người” là yếu tố quyết định nhất của sự phát triển. Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định rõ mục tiêu của chiến lược phát triển Kinh tế - Xã hội 10 năm 2001-2010 là “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2010 nước ta cơ bản trở thành một nước Công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu này, chúng ta sẽ tiến theo con đường Công nghiệp hoá rút ngắn, trên cơ sở kết hợp linh hoạt và hợp lý những bước đi tuần tự với những bước đi nhảy vọt, đặc biệt chú trọng những ngành mũi nhọn như Công nghệ Thông tin, Công nghệ Sinh học, Công nghệ Vật liệu mới. Tuy nhiên, nếu không có nguồn Nhân lực tương xứng thì nước ta sẽ tự biến mình thành bãi thải công nghệ của các nước phát triển và ngay cả những thiết bị công nghệ tối tân nhất cũng không thể phát huy hết tác dụng. Do vậy, để đảm bảo cho đất nước ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, các Văn kiện của Đại hội lần thứ IX đã khẳng định: “Phát triển Giáo dục và Đào tạo được coi là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, phát triển Khoa học công nghệ cùng với phát triển Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy mạnh Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước”. Đặc biệt, việc “Tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn Nhân lực, trọng tâm là Giáo dục và đào tạo, Khoa học và công nghệ” đã được xác định là một trong ba khâu đột phá then chốt để làm chuyển động toàn bộ tình hình nền Kinh tế- Xã hội Việt Nam. và là một bứt phá quan trọng để đi vào thực hiện chiến lược 2001-2010. 3. Quan điểm về giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: 3.1. Nguồn nhân lực và quản trị nguồn nhân lực: 3.1.1. Khái niệm về nguồn Nhân lực: (9) Nguồn dự án hỗ trợ kỹ thuật kế hoạch tổng thể phát triển giáo dục bậc trung học
  17. - Nguồn Nhân lực là nguồn lực của mỗi con người. Nó bao gồm thể lực, trí lực, khả năng của các giác quan và khí quan. - Nguồn Nhân lực trong doanh nghiệp bao gồm nguồn lực con người của mọi thành viên mà doanh nghiệp đang quản lý và sử dụng thường xuyên. Trong điều kiện hiện nay, nguồn Nhân lực của doanh nghiệp bao gồm cả những người ngoài doanh nghiệp nhưng có tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp. - Quản trị nguồn Nhân lực là việc tuyển mộ, tuyển chọn, duy trì, phát triển, sử dụng, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tài nguyên Nhân sự thông qua tổ chức, nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức. 3.1.2. Tầm quan trọng của nguồn Nhân lực trong doanh nghiệp: Một quá trình sản xuất luôn cần có bốn yếu tố đó là yếu tố con người, yếu tố máy móc thiết bị, yếu tố nguyên nhiên vật liệu và yếu tố vốn (hay là 4M: Man, Machine, Material and Money). Trong bốn nhân tố trên thì nhân tố con người luôn đóng vai trò quyết định. Bởi lẽ con người tham gia vào mọi quá trình sản xuất từ khâu sản xuất giản đơn đến những công đoạn phức tạp đòi hỏi kỹ năng, kỹ thuật. Thiếu con người trong quá trình sản xuất thì máy móc, vốn, nguyên vật liệu không thể liên kết được với nhau để cùng tạo nên sản phẩm. Vì vậy, ta có thể khẳng định rằng yếu tố con người đóng vai trò chủ đạo để các yếu tố khác tác nghiệp với nhau trong quá trình sản xuất. Thế kỉ 21 được coi là một thế kỉ bùng nổ về khoa học kỹ thuật và các phát minh công nghệ. Xu hướng thay thế dần sức lao động của con người bằng các thiết bị máy móc, dây chuyền hiện đại ngày càng phổ biến. Tuy nhiên, con người vẫn luôn giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động của tổ chức. Bởi lẽ xét đến cùng dù máy móc, thiết bị có hiện đại đến đâu thì cũng cần phải có sự sáng tạo, vận hành của con người. Máy móc, thiết bị hiện đại chẳng qua cũng chỉ là sản phẩm của con người và vì vậy, nó là công cụ phục vụ cho con người. Tóm lại, nguồn Nhân lực đóng vai trò quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh của mọi tổ chức và doanh nghiệp 3.2. Giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực:
  18. 3.2.1. Khái niệm giáo dục đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực: Ngày nay có nhiều quan niệm khác nhau về đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực, tuy nhiên tất cả đều thống nhất rằng đó là một hoạt động có tổ chức được tiến hành trong một thời gian xác định nhằm đem đến sự thay đổi về trình độ, kỹ năng và thái độ của người lao động đối với công việc của họ, nhằm giúp người lao động thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình. - Giáo dục nguồn Nhân lực là quá trình cung cấp cho người lao động những kỹ năng cần thiết giúp họ hoàn thiện những mặt yếu kém trong công việc. Nói cách khác, giáo dục là quá trình tích lũy tri thức, vốn sống để chuẩn bị con người cho tương lai. - Đào tạo nguồn Nhân lực là tạo ra một môi trường, tại đó cá nhân có thể học kiến thức, kỹ năng, khả năng, thái độ và hành vi cụ thể liên quan đến công việc, nhằm giúp người lao động thực hiện có hiệu quả hơn chức năng và nhiệm vụ của mình. - Phát triển nguồn Nhân lực là quá trình học tập nhằm mở ra cho cá nhân những công việc mới, khả năng mới dựa trên cơ sở định hướng tương lai của tổ chức. Lĩnh vực phát triển nguồn Nhân lực được coi là ở cấp độ đào tạo nhân viên cao hơn so với các lĩnh vực khác. Mục đích của giáo dục đào tạo là cần những sự tiến bộ nhanh chóng trong công việc của người lao động trong khi đó mục đích của phát triển nguồn Nhân lực lại tạo ra một nguồn lao động đủ khả năng cho công việc, tổ chức trong tương lai. Sự khác biệt này sẽ được thể hiện dưới dạng bảng sau: Giáo dục, đào tạo Phát triển Công việc hiện tại. Công việc hiện tại và tương Tập trung lai. Cá nhân người lao động. Tổ chức theo nhóm. Phạm vi Ngắn, ngay lập tức. Trong khoảng thời gian dài Thời gian B ổ sung cá c kỹ n ăng c òn Chuẩn bị cho nhu cầu công Mục đích y ếu kém. việc trong tương lai.
  19. 3.2.2. Tầm quan trọng của đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực: Chức năng giáo dục đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực là một hoạt động thiết yếu nếu như tổ chức muốn đạt được lợi thế so sánh so với những đối thủ cạnh tranh. Trong môi trường liên tục thay đổi, phức tạp như hiện nay, khi các đối thủ cạnh tranh ngày càng nhiều, những tiến bộ kỹ thật đang diễn ra nhanh chóng, nền kinh tế luôn biến động, công tác quản lý kinh doanh và cơ cấu tổ chức luôn thay đổi và phát triển thì các tổ chức, doanh nghiệp đều có cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực, sản phẩm và vốn. Do vậy, lợi thế so sánh của tổ chức chính là thông qua chất lượng giáo dục đào tạo và phát triển nguồn lực lao động. Chất lượng của lực lượng lao động có thể được nâng cao thông qua các chính sách giáo dục đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực trực tiếp gắn với nhiệm vụ, chiến lược và mục tiêu kinh doanh của tổ chức. Như vậy, đào tạo giáo dục và phát triển nguồn Nhân lực được xem như là một quá trình liên tục và là một nỗ lực hợp tác giữa nhân viên với tổ chức khi hoạt động của tổ chức đó không ngừng biến đổi thích ứng với cơ chế thị trường. Một tổ chức hoạt động có hiệu quả và thuận lợi trong kinh doanh là một tổ chức có đội ngũ công nhân lành nghề, trình độ cao, có năng lực, sẵn sàng phục vụ cho mục tiêu của tổ chức. Có thể nói chức năng giáo dục đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực là cơ sở quyết định chiến lược và mục tiêu kinh doanh của mọi tổ chức. Đào tạo và phát triển Làm việc = Sử dụng tài năng + Động lực + Đào tạo + Thiết bị và Nguồn lực Nhu cầu đào tạo và phát triển = Tiêu chuẩn làm việc mong muốn - Làm việc thực tế (Hiện tại hoặc trong tương lai). Hiệu quả đào tạo = Động cơ của nhân viên x Khả năng.(10) 3.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới công tác đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực: (10) Sánh quản lý nguồn Nhân lực ở Australia của các tác giả Schuler, Dowling, Smart và Huber
  20. Mọi sự vật, hiện tượng trong quá trình phát sinh, tồn tại và phát triển đều gắn với một môi trường cụ thể và chịu sự tác động từ các yếu tố của môi trường đó. Con người là một cơ thể sống và vì vậy luôn có sự trao đổi chất và chịu sự chi phối từ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Trong khi đó doanh nghiệp được coi là tế bào kinh tế của xã hội thì chịu sự chi phối của các tác nhân cả bên ngoài và bên trong doanh nghiệp như: những tiến bộ khoa học kỹ thuật, bối cảnh kinh tế, thị trường sức lao động, khách hàng, các đối thủ cạnh tranh; mục tiêu sứ mạng, văn hóa và nguồn Nhân lực trong doanh nghiệp. Những tác nhân này, vì vậy, cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực trong doanh nghiệp. 3.3.1. Môi trường bên ngoài: Môi trường bên ngoài là những nhân tố chi phối mọi hoạt động của doanh nghiệp nói chung đồng thời chi phối cách thức và nội dung của hoạt động quản trị Nhân lực nói riêng. Một vài nhân tố đặc trưng của môi trường bên ngoài ảnh hưởng tới công tác đào tạo và phát triển nguồn Nhân lực: - Bối cảnh kinh tế: Thực trạng nền kinh tế thường biến động. Nền kinh tế ổn định, phát triển hay đang trì trệ, suy thoái đều có tác động đến hầu hết các tổ chức sản xuất kinh doanh, đến mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp. Vì vậy, nó cũng ảnh hưởng lớn đến công tác đào tạo và phát triển nhân viên. Khi nền kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp có xu hướng thu hẹp dần sản xuất bằng việc giảm nhân công lao động, giảm chi phí tiền lương. Lúc này tổ chức các khóa huấn luyện, đào tạo và phát triển nhân viên sẽ gặp nhiều khó khăn đặc biệt là vấn đề kinh phí và chiến lược đào tạo. Ngược lại, khi nền kinh tế ổn định và đang phát triển tốt thì nhu cầu mở rộng kiến thức, nâng cao tay nghề của người lao động là cấp thiết. - Thị trường sức lao động: Có ảnh hưởng lớn đến nhu cầu học tập và tự nâng cao tay nghề của người lao động trong doanh nghiệp. Bởi lẽ, cung lao động luôn lớn hơn cầu lao động, mặt khác chất lượng nguồn Nhân lực ngày càng được nâng cao. Người lao động không muốn bị đào thải khỏi doanh nghiệp thì phải không ngừng học tập nhằm trang bị những kiến thức và kỹ năng thiết yếu đáp ứng nhu cầu biến động của doanh nghiệp.
nguon tai.lieu . vn