Xem mẫu

  1. Luận văn Thực trạng và một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gốm xây dựng của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu thuộc Tổng công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng
  2. LỜI MỞ ĐẦU Thực hiện đường lối chiến lược CNH - HĐH mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhằm đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước có nền kinh tế công nghiệp hiện đại, bảo đảm dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng công tác xuất nhập khẩu nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại với mục tiêu kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm 27,7%, kim ngạch nhập khẩu tăng bình quân hàng năm 22%. Nhìn lại chặng đường phát triển của hoạt động ngoại thương Việt Nam cho thấy, mặc dù còn rất khiêm tốn song đã đi những bước rất vững chắc khai thác mọi tiềm năng để phát triển, khẳng định chỗ đứng của mình ở thị trường trong nước và Quốc tế. Trong xu thế mở cửa và hoà nhập vào nền kinh tế thế giới theo tinh thần đổi mới kinh tế của Nhà nước ta, việc mở rộng hoạt động của các doanh nghiệp ra các thị trường nước ngoài là một xu hướng tất yếu khách quan đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế đất nước nói chung và của doanh nghiệp nói riêng. Hoạt động xuất khẩu là một mặt của lĩnh vực ngoại thương có vị trí đáng kể trong nền kinh tế quốc dân góp phần kích thích sản xuất hàng hoá trong nước phát triển, tăng tích luỹ ngoại tệ cho đất nước để thực hiện tái sản xuất mở rộng, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện CNH - HĐH đất nước. Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh thương mại. Qua quá trình học tập ở trường và thực tập tại Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gốm xây dựng của Công ty Kinh doanh v à Xuất nhập khẩu thuộc Tổng công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng – Viglacera”. Đề tài gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường ở nước ta. ChươngII: Thực trạng hoạt động xuất khẩu mặt hàng gốm xây dựng ở Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu thuộc Tổng công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng.
  3. Chương III: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gốm xây dựng của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu. Do hạn chế về thời gian và khả năng tìm hiểu về tình hình thực tế có hạn, chuyên đề của em không tránh khỏi những sai sót, mong được sự cảm thông và đóng góp ý kiến của các thầy cô các cán bộ kinh doanh ở công ty. Em mong rằng các ý kiến và biện pháp mà em đưa ra trong chuyên đề này góp phần thúc đẩy hơn nữa hoạt động xuất khẩu ở Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của PGS – TS Hoàng Đức Thân và Thạc sỹ Lê Thanh Ngọc, đồng thời cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của các thầy cô giáo trường Đại học Kinh tế Quốc dân, các bạn đồng nghiệp trong quá tr ình hoàn thành chuyên đề này. Em cũng chân thành cảm ơn các cô, các chú, các anh, các chị công tác tại Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện để em hoàn thành chuyên đề này. Hà nội, tháng 4 năm 2003
  4. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA. I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ. 1. Sự cần thiết và vị trí của xuất khẩu hàng hoá. Hoạt động kinh tế là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Lực lượng sản xuất càng phát triển, phân công lao động càng mở rộng thì sự khác biệt giữa các quốc gia trên thế giới càng sâu sắc, không chỉ khác biệt về truyền thống văn hoá mà còn là sự chênh lệch về trình độ nhận thức, công nghệ kỹ thuật cũng như về năng suất lao động, giá thành sản phẩm từ đó làm xuất hiện lợi thế mới của mỗi quốc gia. Điều này đòi hỏi các quốc gia phải có những biện pháp thích hợp nhằm phát huy triệt để lợi thế của mình trong sự phân công lao động và trao đổi mậu dịch quốc tế. Đó chính là việc một quốc gia có thể mua từ các quốc gia khác những hàng hoá mà bản thân không sản xuất được hoặc sản xuất ra không đáp ứng yêu cầu do giá thành cao mà chất lượng lại kém. Và như vậy có nghĩa là quan hệ thương mại đã không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà không ngừng phát triển và lan rộng trên phạm vi quốc tế thông qua hoạt động xuất nhập khẩu. Xuất khẩu hàng hoá đóng vị trí quan trọng trong nền kinh tế đất nước, góp phần thúc đẩy hơn nữa vào quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Với Việt Nam ta, xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng từ lâu đã được coi là một mặt hoạt động không thể thiếu được của hoạt động kinh tế đối ngoại, là một phương tiện quan trọng để phát triển nền kinh tế đất nước. Xuất khẩu hàng hoá nằm trong khâu phân phối lưu thông của quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết giữa sản xuất và tiêu dùng giữa nước này với nước khác 2.Vai trò của xuất khẩu hàng hoá. Kinh doanh xuất khẩu tạo điều kiện cho nhiều quốc gia có thể phát huy tối đa những lợi thế của mình về vốn, công nghệ, tài nguyên, nguồn lao động. Đồng thời kinh doanh xuất khẩu cũng tạo điều kiện cho nhiều quốc gia đang phát triển và
  5. những quốc gia kém phát triển có điều kiện tiếp thu đ ược những công nghệ, kinh nghiệm quản lý kinh doanh tiên tiến của các quốc gia đi trước. Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện quá trình CNH-HĐH đất nước. Vai trò của xuất khẩu được thể hiện qua các điểm sau: 2.1 Đối với nền kinh tế quốc dân. *Xuất khẩu là phương tiện chính góp phần tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ CNH-HĐH đất nước. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: -Đầu tư nước ngoài. -Vay nợ, viện trợ. -Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ. -Xuất khẩu hàng hoá. Trong đó nguồn thu từ xuất khẩu hàng hoá là nguồn vốn quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý …Vì vậy, nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là nguồn chủ yếu để huy động phát triển. Nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu của nước đó vì đây là nguồn chính đảm bảo cho đất nước có thể trả nợ được. Để khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hướng nhập khẩu phục vụ tốt sản xuất và tiêu dùng, bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước, nâng cao hiệu quả sản xuất, nhập khẩu, mở rộng hợp tác kinh tế-thương mại với nước ngoài, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước. Xuất khẩu và nhập khẩu trong thương mại quốc tế vừa là điều kiện, vừa là tiền đề của nhau, xuất khẩu để nhập khẩu và nhập khẩu để phát triển xuất khẩu. Đối với nước ta, để tránh được nguy cơ tụt hậu thì trong chính sách CNH-HĐH, Đảng và Nhà nước ta coi nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại là một nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển.
  6. *Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Có hai cách nhìn nhận và tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: -Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất, thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng triển chậm. Sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp. -Coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở chỗ: + Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. + Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định + Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. + Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm cải tạo và tạo ra một năng lực sản xuất mới. + Xuất khẩu góp phần trong việc hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường. + Xuất khẩu thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất từng quốc gia. Khoa học công nghệ càng phát triển thì phân công lao động càng sâu sắc. Ngày nay, nhiều sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ phận được thực hiện ở các quốc gia khác nhau. Để hoàn thiện được những sản phẩm này, người ta phải tiến hành xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước khác để lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Như vậy, mỗi nước có thể tập trung vào sản xuất một vài loại mà họ có lợi thế, sau đó tiến hành trao đổi lấy những hàng hoá mà mình cần. *Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
  7. Xuất khẩu tác động đến nhiều mặt của đời sống nhân dân. Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu người lao động và tạo ra thu nhập không thấp. Hoạt động thương mại nói chung và xuất khẩu nói riêng phát triển kéo theo hàng triệu người tham gia lao động vào lĩnh vực này và dần dần nâng cao mức sống của người dân. Bởi vì xuất khẩu phát triển đã kéo theo hàng loạt các ngành nghề khác phát triển, khôi phục lại những ngành nghề truyền thống, khắc phục số nông nhàn trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng triệt để hơn. Xuất khẩu phát triển thúc đẩy quá trình liên doanh liên kết, hàng loạt các ngành nghề mới ra đời đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu những vật phẩm tiêu dùng thiết yếu mà trong nước không tự sản xuất được hoặc sản xuất với giá thành cao phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu của người dân. *Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu nâng cao uy tín nước ta trên thị trường thế giới và tăng cường các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có sự tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động cơ bản, là hình thức ban đầu của kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như: du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế phát triển theo. Ngược lại, sự phát triển của các ngành này lại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển. Xuất khẩu có vai trò quan trọng trong qúa trình phát triển nền kinh tế đất nước. Hiện nay Nhà nước ta đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng vào xuất khẩu, khuyến khích các khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước. 2.2Đối với doanh nghiệp. -Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới. Những yếu tố này đòi hỏi các doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường. -Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất và kinh doanh cho phù hợp với thời đại. Đồng thời xuất khẩu còn
  8. tạo nguồn thu ngoại tệ cho doanh nghiệp để tái đầu tư vào quá trình sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. -Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút đ ược nhiều lao động, tạo ra thu nhập ổn định cho họ, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng. Nó vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân vừa thu được lợi nhuận. -Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ buôn bán với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Vì vậy, đã giúp doanh nghiệp tăng được doanh số bán và lợi nhuận. Đồng thời chia sẻ được rủi ro mất mát trong hoạt động kinh doanh tăng c ường uy tín kinh doanh của công ty. Từ đó có điều kiện học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ phía đối tác nước ngoài, góp phần nâng cao năng lực chuyên môn cho các thành viên trong doanh nghiệp. -Kinh doanh xuất khẩu phát huy được những khả năng vượt trội của doanh nghiệp và khắc phục được những hạn chế của doanh nghiệp. -Xuất khẩu khuyến khích phát triển các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển, các hoạt động sản xuất, Marketing cũng như sự phân phối và mở rộng kinh doanh. Có thể nói một cách khái quát rằng xuất khẩu góp phần quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển kinh tế của một quốc gia. 3. Khái niệm và các hình thức kinh doanh xuất khẩu. 3.1 Khái niệm về kinh doanh xuất khẩu. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua đó có thể đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định từng bước nâng cao mức sống nhân dân. Xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại đem lại những hiệu quả đột biến cao hoặc có thể gây thiệt hại vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà chủ thể trong nước tham gia không dễ dàng khống chế được.
  9. Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp đã đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình. Mục đích của kinh doanh xuất khẩu là khai thác được lợi thế của các quốc gia trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trong mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện với nhiều loại mặt hàng khác nhau. Phạm vi hoạt động xuất khẩu rất rộng cả về không gian và thời gian. 3.2 Các hình thức xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng những hình thức chủ yếu thường được các doanh nghiệp ngoại thương lựa chọn sau: 3.2.1 Xuất khẩu trực tiếp. Đây là hình thức mà hàng hoá được mua hay bán trực tiếp của nước ngoài không qua trung gian. Theo hình thức này đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp ký kết hợp đồng ngoại thương. Các doanh nghiệp ngoại thương tự bỏ vốn ra mua các sản phẩm từ các đơn vị sản xuất trong nước sau đó bán các sản phẩm này cho các khách hàng nước ngoài (có thể qua một số công đoạn gia công chế biến). Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là lợi nhuận của đơn vị kinh doanh xuất khẩu thường cao hơn các hình thức khác do giảm bớt được các khâu trung gian. Với vai trò là người bán trực tiếp, các đơn vị kinh doanh chủ động trong kinh doanh, có điều kiện tiếp cận thị trường, nắm bắt được các thông tin một cách nhạy bén hơn để tự mình có thể thâm nhập thị trường, đưa ra được những ứng xử linh hoạt, thích ứng với thị trường và do vậy có thể đáp ứng nhu cầu thị trường, gợi mở, kích thích nhu cầu. Nếu đơn vị tổ chức hoạt động kinh doanh tốt sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cao, tự khẳng định mình về sản phẩm nhãn hiệu … dần dần đưa được uy tín về sản phẩm trên thế giới. Nhược điểm: Hình thức này đòi hỏi phải ứng trước một số vốn khá lớn để sản xuất hoặc thu mua hàng và có thể gặp nhiều rủi ro. Đối với đơn vị mới tham gia kinh doanh thì áp dụng hình thức này rất khó do điều kiện về vốn sản xuất hạn chế, am hiểu thương trường quốc tế còn ít, uy tín nhãn hiệu còn xa lạ đối với khách hàng. 3.2.2 Xuất khẩu gián tiếp. Đây là hình thức xuất khẩu qua trung gian thương mại.
  10. Ưu điểm: Người trung gian giúp cho người xuất khẩu tiết kiệm được thời gian, chi phí, giảm bớt nhiều việc liên quan đến tiêu thụ hàng. Ngoài ra người trung gian còn có thể giúp cho người xuất khẩu tín dụng trong ngắn hạn và trung hạn bởi vì trung gian có quan hệ với công ty vận tải, ngân hàng… Nhược điểm: Lợi nhuận bị chia xẻ do tổn phí, doanh nghiệp xuất khẩu mất mối quan hệ trực tiếp với thị trường, thông tin nhiều khi không chính xác. 3.2.3 Xuất khẩu uỷ thác. Trong phương thức này, đơn vị có hàng xuất khẩu là bên uỷ thác giao cho đơn vị xuất khẩu gọi là bên nhận uỷ thác tiến hành xuất khẩu một hoặc một số lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình (bên nhận uỷ thác) nhưng với chi phí của bên uỷ thác. Về bản chất, chi phí trả cho bên nhận uỷ thác chính là tiền thù lao trả cho đại lý. Ưu điểm: Công ty uỷ thác xuất khẩu không phải bỏ vốn vào kinh doanh, tránh được rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được một khoản lợi nhuận là hoa hồng cho xuất khẩu. Do chỉ thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất khẩu nên tất cả các chi phí từ nghiên cứu thị trường, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng không phải chi, dẫn tới giảm chi phí trong hoạt động kinh doanh của Công ty. Nhược điểm: Do không phải bỏ vốn vào kinh doanh nên hiệu quả kinh doanh thấp không bảo đảm tính chủ động trong kinh doanh. Thị trường và khách hàng bị thu hẹp vì Công ty không có liên quan tới việc nghiên cứu thị trường và tìm khách hàng. 3.2.4 Chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất. Đây là hình thức mua của nước này bán cho nước khác, không làm thủ tục xuất nhập khẩu và thường hàng đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Người kinh doanh chuyển khẩu trả tiền cho người xuất khẩu và thu tiền của người nhập khẩu hàng hóa đó. Thường khoản thu lớn hơn tiền trả cho người xuất khẩu, do đó người kinh doanh thu được số chênh lệch (lãi). Các mặt hàng này (tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu) được miễn thuế xuất nhập khẩu. Xét về đường đi của hàng hoá tái xuất và chuyển khẩu giống nhau. Chỗ khác nhau là kinh doanh chuyển khẩu chủ yếu là kinh doanh dịch vụ vận tải, còn tái xuất là
  11. loại hình hợp đồng kinh doanh hàng hoá: nhập khẩu để xuất khẩu hàng đó, không qua chế biến, thu lãi tức thời. Người kinh doanh bỏ vốn ra mua hàng, bán lại hàng đó để thu lời nhiều hơn. Việc giao dịch thực hiện ở ba nước: Nước xuất khẩu, nước tái xuất, nước nhập khẩu. Giao dịch tái xuất là giao dịch ba bên ở ba nước. 3.2.5 Mua bán đối lưu. Đây là hoạt động giao dịch trong đó hoạt động xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với hoạt động nhập khẩu. Mục đích của hoạt động xuất khẩu không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà là thu về một lượng hàng hoá khác tương đương với giá trị của lô hàng xuất khẩu. Yêu cầu của buôn bán đối lưu là cân bằng về tổng giá trị xuất nhập khẩu, chủng loại hàng hoá quý hiếm, giá cả. Doanh nghiệp có thể sử dụng hình thức này để nhập khẩu nhiều loại hàng hoá mà thị trường trong nước đang rất cần hoặc có thể xuất khẩu sang một nước thứ ba. 3.2.6 Gia công quốc tế. Gia công hàng xuất khẩu là một phương thức kinh doanh trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là chi phí gia công). Gia công quốc tế là hình thức xuất khẩu khá phổ biến, được nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển có nguồn nhân lực dồi dào áp dụng. Thông qua hình thức này, họ vừa tạo cho người lao động có công ăn việc làm, lại vừa tiếp nhận được công nghệ mới. Mặt khác nước này lại không phải bỏ ra nhiều vốn và cũng không lo về thị trường tiêu thụ. Các nước đặt gia công cũng có lợi vì họ có thể tận dụng được nguồn nguyên liệu phụ và nhân công dồi dào với giá rẻ của nước nhận gia công. Song hình thức này cũng có hạn chế là các nước nhận gia công bị phụ thuộc vào nước đặt gia công về số lượng, chủng loại hàng hoá gia công đồng thời cũng bị o ép về phí gia công. 4. Nhiệm vụ của xuất khẩu hàng hoá. Từ sau năm 1986, Chính phủ Việt Nam bắt đầu mở cửa nền kinh tế, xoá bỏ chế độ quản lý kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế của Việt Nam nói chung và xuất khẩu nói riêng đã đạt được những thành tựu nhất định. Với mục tiêu: “Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Tạo
  12. thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nâng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường. Giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế; tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu”. ở những thời điểm nhất định mục tiêu xuất khẩu có khác nhau, nhưng mục tiêu quan trọng chủ yếu nhất của xuất khẩu là để nhập khẩu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân. Nhu cầu của nền kinh tế rất đa dạng: Phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cho tiêu dùng, cho xuất khẩu và tạo công ăn việc làm. Để thực hiện tốt mục tiêu trên, hoạt động xuất nhập khẩu cần phải hướng vào các nhiệm vụ sau: -Phải mở rộng thị trường, nguồn hàng và đối tác kinh doanh xuất khẩu nhằm tạo thành cao trào xuất khẩu, coi xuất khẩu là mũi nhọn đột phá cho sự phát triển. -Phải ra sức khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước như đất đai, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật-công nghệ, chất xám theo hướng khai thác lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh. -Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. -Tạo ra những mặt hàng (nhóm hàng) xuất khẩu có khối lượng và giá trị lớn đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng về chất lượng và số lượng, có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao. II. NỘI DUNG CỦA XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ Ở DOANH NGHIỆP. 1.Nghiên cứu thị trường xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường là một khâu rất quan trọng không thể thiếu được đối với bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tham gia kinh doanh trên thị trường thế giới. Nghiên cứu thị trường tạo khả năng cho các nhà kinh doanh thấy được quy luật vận động của từng hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu, nguồn cung cấp và giá cả hàng hoá đó trên thị trường, giúp họ giải quyết được các vấn đề thực tiễn kinh doanh. Nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin số liệu về thị trường so sánh, phân tích những thông tin số liệu đó để rút ra kết luận về xu hướng vận động của thị trường. Những kết luận này giúp cho nhà quản lý đưa ra được những nhận định đúng đắn để lập kế hoạch kinh doanh, kế hoạch Marketing. Nội dung chính của
  13. nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường. Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước: nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết thị trường. Nghiên cứu khái quát thị trường cung cấp cho ta biết được những thông tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường, các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường như môi trường kinh doanh, môi trường chính trị – luật pháp, khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội, môi trường sinh thái. Nghiên cứu chi tiết thị trường cho biết những thông tin về tập quán mua bán, những thói quen và những ảnh hưởng đến hành vi, mua hàng của người tiêu dùng. Nghiên cứu thị trường được tiến hành theo hai phương pháp chính: nghiên c ứu tại bàn và nghiên cứu tại hiện trường. Nghiên cứu tại bàn là nghiên cứu bằng cách thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu đã được xuất bản công khai và xử lý các thông tin đó. Nghiên cứu tại hiện trường là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc trực tiếp, sau đó tiến hành phân tích các thông tin thu thập được. Nghiên cứu thị trường bao gồm: 1.1Lựa chọn thị trường xuất khẩu. Lựa chọn thị trường xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với việc lựa chọn thị trường trong nước bởi vì các nước khác nhau có những nhu cầu, yêu cầu rất nhau về mỗi loại hàng hoá. Do vậy việc lựa chọn thị trường xuất khẩu đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian và công sức mới đưa ra được quyết định đúng đắn. Khi nghiên cứu thị trường doanh nghiệp cần chú ý đến các vấn đề sau: -Thông tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường và các nhân tố làm thay đổi dung lượng của thị trường. -Nắm vững thông tin về biến động giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới cũng như giá nguồn hàng cung cấp trong nước. -Công việc nghiên cứu thị trường phải diễn ra thường xuyên liên tục vì thị trường luôn biến động. 1.2Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu. Mục đích của việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là để xác định những mặt hàng kinh doanh phù hợp với năng lực và khả năng của công ty, đồng thời đáp ứng được nhu cầu của thị trường, từ đó mang lại hiệu quả kinh doanh cao.
  14. Để lựa chọn mặt hàng xuất khẩu, trước tiên cần phải dựa vào nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng về chủng loại, số lượng, chất lượng, giá cả hàng hoá trên thị trường xuất khẩu. Mặt khác cần phải xem xét đến khả năng đáp ứng của thị trường trong nước về mặt hàng đó. Nghiên cứu thị trường để lựa chọn mặt hàng xuất khẩu cũng cần phải phân tích kỹ tình hình cung trên thị trường đó chính là toàn bộ khối lượng hàng hoá đã và đang có khả năng bán ra trên thị trường, cần xem xét đến giá cả trung bình, sự phân bố hàng hoá và tình hình sản phẩm của công ty đang ở giai đoạn nào trên thị trường. Chú ý đến đối thủ cạnh tranh, khả năng cung ứng, sức mạnh tài chính, kế hoạch sản xuất kinh doanh của họ và các biện pháp cạnh tranh mà họ sử dụng. Cần phải đánh giá đúng thực lực của mình về khả năng cung ứng, giá cả và việc dự báo chính xác những thuận lợi, khó khăn khi tung hàng hoá ra thị trường nước ngoài. 1.3Lựa chọn đối tác kinh doanh. Đối tác kinh doanh là những người những hoặc những tổ chức có quan hệ giao dịch với doanh nghiệp nhằm thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc các loại dịch vụ. Việc lựa chọn đúng đối tác là điều rất quan trọng để thực hiện thắng lợi hợp đồng xuất khẩu. Để lựa chọn đối tác kinh doanh người ta thường dựa vào những căn cứ sau: -Tình hình sản xuất, kinh doanh của đối tác để thấy được khả năng cung cấp lâu dài. -Quan điểm kinh doanh của đối tác trên thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. -Lĩnh vực kinh doanh của đối tác. -Khả năng tài chính và cơ sở vật chất của đối tác. Khả năng thanh toán của đối tác trong ngắn hạn, dài hạn đảm bảo hợp đồng được thanh toán đúng thời hạn. Nghiên cứu sức mạnh về vốn, về công nghệ của đối tác cho thấy được những ưu thế trong thoả thuận về giá cả, điều kiện thanh toán. -Thông tin và mối quan hệ trong kinh doanh. 2.Xây dựng kế hoạch và phương án xuất khẩu hàng hoá. 2.1 Xây dựng kế hoạch xuất khẩu hàng hoá.
  15. Công ty cần phải đặt ra những mục tiêu kế hoạch trong từng thời kỳ nhất định và thống nhất với mục tiêu chiến lược. Mục tiêu cần phải rõ ràng, cụ thể đối với toàn công ty và đối với từng bộ phận. Chẳng hạn khi mục tiêu chiến lược của công ty trong giai đoạn này là lợi nhuận thì mục tiêu kế hoạch chung của công ty là phải đạt được bao nhiêu lợi nhuận trong năm… Có thể vạch ra các mục tiêu định tính hay định lượng. Các mục tiêu định lượng được coi là chỉ tiêu kế hoạch xuất khẩu, bao gồm: Chỉ tiêu doanh số, chỉ tiêu chi phí, chỉ tiêu lợi nhuận, dự trữ…Công ty cần xây dựng kế hoạch các công việc cụ thể cần làm để hoàn thành các chỉ tiêu này. Việc xây dựng kế hoạch xuất khẩu là điều kiện tiền đề cho việc hoàn thành tốt chiến lược xuất khẩu và là một công việc rất cần thiết. Nó giúp công ty nắm bắt những cơ hội và giảm thiểu rủi ro. Việc dự báo chính xác nhu cầu thị trường từ đó xây dựng lên các kế hoạch thu mua, dự trữ…sẽ đảm bảo cho xuất khẩu thắng lợi. 2.2Phương án xuất khẩu hàng hoá. Trên cơ sở kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường, đơn vị xuất khẩu phải lập phương án kinh doanh cho mình. Việc xác định phương án kinh doanh bao gồm: -Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân, phác hoạ bức tranh tổng quát về hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn. -Lựa chọn mặt hàng thời cơ điều kiện và phương thức kinh doanh, sự lựa chọn này phải mang tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan. -Đề ra mục tiêu cụ thể như sẽ bán được bao nhiêu hàng, giá bán lẻ bao nhiêu, thâm nhập vào thị trường nào. -Đề ra biện pháp và công cụ thực hiện nhằm đạt được mục tiêu. -Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh thông qua các chỉ tiêu cơ bản. + Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu. + Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi xuất khẩu. + Chỉ tiêu thu hồi vốn cho xuất khẩu. + Điểm hoà vốn trong xuất khẩu hàng hoá. 3.Giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá.
  16. Giao dịch là sự tiếp xúc, quan hệ giữa các cá nhân để trao đổi thông tin hoặc thoả mãn một nhu cầu nào đó. Giao dịch kinh doanh là sự tiếp xúc, quan hệ giữa các chủ thể kinh doanh nhằm trao đổi các thông tin về thị trường, hàng hoá, giá cả, kinh nghiệm kinh doanh … Đàm phán kinh doanh là bàn bạc, thoả thuận giữa hai hay nhiều bên để cùng nhau nhất trí hay thoả hiệp giải quyết những vấn đề về kinh doanh có liên quan đến các bên. Đàm phán “hợp đồng kinh doanh quốc tế”: Là một loại đàm phán “hợp đồng kinh doanh”, trong đó yếu tố quốc tế được thể hiện ở việc có ít nhất hai chủ thể có quốc tịch khác nhau tham gia đàm phán để lập nên (ký kết) các hợp đồng kinh doanh quốc tế. Giao dịch đàm phán trong hoạt động xuất khẩu là một quá trình trong đó diễn ra sự trao đổi, bàn bạc giữa doanh nghiệp ngoại thương và khách hàng nước ngoài về các điều kiện mua bán một loại hàng hoá để đi đến thoả thuận, nhất trí giữa hai bên. Trong kinh doanh nói chung và trong kinh doanh quốc tế nói riêng, người ta có thể sử dụng một trong ba phương thức giao dịch, đàm phán sau: -Giao dịch, đàm phán qua thư tín: Là phương thức được sử dụng phổ biến trong kinh doanh. Phương thức này thường là sự khởi đầu và giúp cho việc duy trì những giao dịch lâu dài. So với phương thức gặp gỡ trực tiếp, giao dịch qua thư tín tiết kiệm được nhiều chi phí, các quyết định đưa ra thường được cân nhắc kỹ càng và tranh thủ được nhiều ý kiến của tập thể. -Giao dịch, đàm phán qua điện thoại: là trao đổi bằng miệng. Trao đổi qua điện thoại đảm bảo tính khẩn trương, đúng thời điểm cần thiết. Do không có gì làm bằng chứng do đó phương thức này chỉ được sử dụng trong những trường hợp cần thiết như sợ bị lỡ cơ hội kinh doanh hoặc chỉ chờ xác nhận một vài chi tiết của hợp đồng. -Giao dịch, đàm phán trực tiếp: là giao dịch mà người mua và người bán cùng thoả thuận, bàn bạc, thảo luận trực tiếp về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức thanh toán…Phương thức đàm phán này đẩy nhanh tốc độ giải quyết những bất đồng và nhiều khi là lối thoát duy nhất cho những cuộc đàm phán như thư tín,
  17. điện thoại đã kéo dài quá lâu không có kết quả. Phương thức này phù hợp cho đàm phán ký kết những hợp đồng lớn. Việc giao dịch đàm phán tiến hành theo các bước: Bước 1: Hỏi giá: là việc người mua đề nghị người bán báo cho mình biết giá cả và các điều kiện để mua hàng. Bước 2: Chào hàng: Là lời đề nghị ký kết hợp đồng với khách hàng nước ngoài. Trong chào hàng cần ghi rõ tên hàng, quy cách, chất lượng, khối lượng, mẫu mã, bao bì, giá cả, thời hạn giao hàng, điều kiện thanh toán và các dịch vụ kèm theo. Có hai loại chào hàng là chào hàng cố định và chào hàng tự do. Bước 3: Đặt hàng: lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được đưa ra dưới hình thức đặt hàng. Bước 4: Hoàn giá: khi nhận được đơn chào hàng nhưng người nhận không chấp nhận hoàn toàn đơn chào hàng thì họ sẽ đưa ra đề nghị mới thì lời đề nghị này gọi là hoàn giá Bước 5: Chấp nhận: Đây là kết quả của quá trình hoàn giá. Khi đã chấp nhận thì có nghĩa là hợp đồng đã được thành lập. Bước 6: Xác nhận: Hai bên sau khi thống nhất thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch nếu cần thì có thể ghi lại mọi điều đã thoả thuận gửi cho bên kia. Đó là văn kiện xác nhận có cả chữ ký của cả hai bên. Sau khi hai bên mua bán tiến hành giao dịch và đàm phán có kết quả thì tiến hành ký kết hợp đồng. Hợp đồng xuất khẩu là những thoả thuận về các điều kiện mua bán hàng hoá như tên hàng, khối lượng, chất lượng, giá cả, thanh toán…giữa doanh nghiệp xuất khẩu với khách hàng cụ thể. Về mặt pháp lý, hợp đồng xuất khẩu là căn cứ pháp luật ràng buộc các trách nhiệm và quyền lợi của các bên. Vì vậy, khi ký kết hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp phải xem xét lại các điều khoản thoả thuận trước khi ký kết hợp đồng. 4.Triển khai thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá. Sau khi hợp đồng xuất khẩu được ký kết doanh nghiệp cần phải tiến hành triển khai các công việc để thực hiện hợp đông xuất khẩu hàng hoá đúng với những điều khoản đã quy định trong hợp đồng.
  18. Để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến hành các khâu công việc sau: Kiểm tra L/C Chuẩn bị Ký hợp đồng Xin giấy phép hàng hoá xuất khẩu xuất khẩu Giao hàng Làm thủ tục Uỷ thác Kiểm nghiệm lên tàu thuê tàu hải quan hàng hoá Mua bảo Giải quyết Làm thủ tục hiểm khiếu nại thanh toán *Kiểm tra thư tín dụng (nếu thanh toán bằng L/C): Sau khi ký hợp đồng, nhà xuất khẩu nước ngoài sẽ mở L/C tại một ngân hàng có ngân hàng thông báo tại Việt Nam. Bản chất của L/C là sự thoả thuận cam kết của ngân hàng với nhà xuất khẩu. L/C độc lập với hợp đồng xuất khẩu nhưng lại dựa trên các điều khoản của hợp đồng xuất khẩu. Ngân hàng chỉ dựa vào L/C và việc thực hiện các quy định trong L/C để trả tiền cho nhà xuất khẩu. Vì vậy nhà xuất khẩu cần kiểm tra kỹ, dựa vào hợp đồng. Nừu có gì chưa hợp lý cần báo lại cho phía nước ngoài để hai bên thống nhất sửa lại. *Xin giấy phép xuất khẩu: Giấy phép xuất khẩu là một biện pháp quan trọng để Nhà nước quản lý xuất khẩu. Vì thế, sau khi ký hợp đồng xuất khẩu doanh nghiệp phải xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá để thực hiện hợp đồng đó. Theo nghị định 57/CP ngày 31/07/1998 của Chính Phủ. Thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo quy định của pháp luật được xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau khi đã đăng ký mã số tại cục Hải quan tỉnh, thành phố thì không phải xin giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. *Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu: Căn cứ để chuẩn bị hàng xuất khẩu là hợp đồng đã ký với nước ngoài và hoặc L/C. Công việc chuẩn bị hàng xuất khẩu bao gồm ba khâu chủ yếu: -Thu gom tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu: Doanh nghiệp xuất khẩu tổ chức thu gom hàng bằng nhiều biện pháp khác nhau như mua nguyên liệu về gia công,
  19. sản xuất thành hàng xuất khẩu, mua đứt bán đoạn với đơn vị sản xuất, đại lý thu mua. Đây là một khâu rất quan trọng đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện tốt hợp đồng xuất khẩu theo đúng điều khoản đã quy định trong hợp đồng. -Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu: Là căn cứ theo yêu cầu hợp đồng đã ký kết. Bao bì vẫn phải bảo đảm được phẩm chất của hàng hoá, vừa thuận tiện cho quá trình vận chuyển bốc xếp hàng hoá, tạo điều kiện cho việc nhận biết hàng hoá. -Kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu: Ký hiệu bằng số hay chữ, hình vẽ được ghi ở mặt ngoài bao bì để thông báo những thông tin cần thiết cho việc nhận biết, giao nhận, bốc dỡ và bảo quản hàng hoá. Ký mã hiệu phải đảm bảo những nội dung, cần thông báo cho người nhận hàng đồng thời phải sáng sủa, rõ ràng. *Thuê tàu: Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dưạ vào ba căn cứ sau đây: Những điều khoản của hợp đồng mua bán ngoại thương, đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải. *Kiểm nghiệm hàng hoá: Trước khi giao hàng người xuất khẩu có nghĩa vụ phải kiểm tra hàng về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì… Đây là công việc cần thiết, qua đó quyền lợi của khách hàng được bảo đảm và nâng cao uy tín c ủa doanh nghiệp xuất khẩu. Việc kiểm nghiệm và kiểm định được tiến hành ở hai cấp: Kiểm tra ở cơ sở do phòng KCS tiến hành và kiểm tra ở cửa khẩu có tác dụng kiểm tra lại kết quả kiểm tra lần trước đó. *Làm thủ tục hải quan: Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để xuất khẩu, nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan.Việc làm thủ tục hải quan gồm 3 bước chủ yếu sau đây: -Khai báo hải quan:chủ hàng khai báo các chi tiết về hàng hoá lên tờ khai để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. Tờ khai hải quan phải đ ược xuất trình kèm theo với một số chứng từ khác, mà chủ yếu là giấy phép xuất nhập khẩu, hoá đơn, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết. -Xuất trình hàng hoá: Hàng hoá xuất nhập khẩu phải được sắp xếp trật tự, thuận tiện cho việc kiểm soát. Chủ hàng phải chịu chi phí và nhân công về việc mở, đóng các kiện hàng. -Thực hiện các quyết định của hải quan:Sau khi kiểm soát giấy tờ hàng hoá, hải quan sẽ ra quyết định và chủ hàng có nghĩa vụ thực hiện các quyết định đó.
  20. *Giao hàng lên tàu: Tuỳ theo thoả thuận về điều kiện cơ sở giao hàng mà việc giao hàng lên phương tiện vận chuyển sẽ thuộc trách nhiệm bên nào. Nếu hàng hoá được giao bằng đường biển chủ hàng phải tiến hành các công việc sau: -Căn cứ vào các chi tiết hàng xuất khẩu lập bản đăng ký hàng chuyên chở. -Xuất trình bản đăng ký hàng chuyên chở cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp hàng. -Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng. -Bố trí phương tiện đưa hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu. -Lấy biên lai thuyền phó và đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển. Vận đơn đường biển phải là vận đơn hoàn hảo, đã bốc hàng và phải chuyển nhượng được. Vận đơn cần phải chuyển gấp về bộ phận kế toán để lập bộ chứng từ thanh toán. *Mua bảo hiểm: Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì thế bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương.Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm phải dựa trên bốn căn cứ sau: Điều khoản hợp đồng, tính chất hàng hoá, tính chất bao bì và phương thức xếp hàng, loại tàu chuyên chở. *Làm thủ tục thanh toán: thanh toán là khâu trọng tâm và kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch kinh doanh xuất khẩu. Trong thanh toán, nhà kinh doanh phải chú ý đến các vấn đề: Đồng tiền thanh toán, tỷ giá thanh toán, thời hạn thanh toán, phương thức và hình thức thanh toán, điều kiện đảm bảo hối đoái. Có nhiều phương thức thanh toán được sử dụng nhưng hiện nay người ta thường sử dụng rộng rãi hai phương thức thanh toán là thanh toán bằng thư tín dụng và thanh toán bằng phương thức nhờ thu. *Giải quyết khiếu nại (nếu có): Trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu có thể xảy ra những vấn đề phức tạp làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện hợp đồng trong những trường hợp đó, hai bên cần thiện chí trao đổi, thảo luận để giải quyết. Nếu giải quyết không thành thì tiến hành các thủ tục kiện đối tác lên trọng tài. Việc khiếu nại phải tiến hành một cách kịp thời tỷ mỉ dựa trên các căn cứ của các chứng từ kèm theo. 5.Đánh giá hiệu quả xuất khẩu.
nguon tai.lieu . vn