Xem mẫu
- LUẬN VĂN:
Thực trạng và giải pháp để nâng cao
hiệu quả kinh doanh đối ngoại của
các ngân hàng thương mại Việt Nam
- Lời mở đầu
Ngân hàng -môt ngành kinh tế tổng hợp , có vai trò đặc biệt quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân , đuợc coi là “ mạch máu lưu thông của cơ thể “.
Hoạt động của ngân hàng có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế
của đât nước - “ thiếu máu cơ thể sẽ không khoẻ mạnh ” và trong môt nền kinh tế cũng
thế. Là sản phẩm của nền kinh tế thị trường , ngân hàng thực hiện những nghiệp vụ tập
trung và phân phối lại vốn tiền tệ , cũng như các dịch vụ có liên quan đến tài chinh - tiền
tệ khác trong nền kinh tế .
Ngày nay không một quôc gia nào có thể thực hiện được mục đích tăng trưởng
kinh tế mà không chú trọng tới chính sách mở của và giao lưu kinh tế với nước ngoài .
chính vì vậy , pham vi hoạt đông của ngân hàng rộng lớn , vượt ra khỏi biên giới , hoạt
động ở khắp nơi trên thế giới . Chính sách sách mở cửa kinh tế với hoạt động tài chính
đối ngoại của ngân hàng vơí mục đích quan trọng nhát là huy động vốn từ ngoài nước
phục vụ cho nhu cầu phát triển trong nước, sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Việt
Nam
Xuất phát từ đó nên vấn đề “Thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh
doanh đối ngoại của các ngân hàng thương mại Việt Nam” là nội dung nghiên cứu
của bài viết này.
Bố cục bài viết được chia thành 3 phần:
Chương I: Lý luận chung vê hoạt động kinh doanh đối ngoại của
ngân hàng thương mại
I. Các hoạt động cơ bản của NHTM
- II. Hoạt động kinh doanh đối ngoại của NHTM
Chương II: Thực trạng kinh doanh đối ngoại của các NHTM Việt Nam
I. Thực trạng tình hình hoạt động
II. Nguyên nhân của tình trạng trên
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh đối
ngoại của các NHTM Việt Nam
Chương I
Lý luận chung về hoạt động kinh doanh
đối ngoại ngân hàng thương mại
I. Các hoạt động cơ bản của NHTM
1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Thị trường hoạt động của nó không phải
là thị trường hàng hoá thông thường mà là thị trường tiền tệ với mục tiêu là tối đa hoá
lợi nhuận.
2. Hoạt động của NHTM
Lịch sử của ngân hàng NHTM là lịch sử kinh donah tiền gửi với phương thức là nhận
gửi để giữ hộ và thu phí, sau phát triển thành nhận gửi có trả lãi cho người gửi và sử dụng số
tiền đó trong khoảng thời gian “nhàn rỗi” để cho vay nhằm thu được lãi cao hơn. các nhà kinh
doanh tiền gửi này được hưởng một khoản chênh lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suáat trả cho
người gửi tiền và một số chi phí khác. Ngày nay, hoạt động của NHTM ngày càng đa dạng
phong phú và có phạm vi rộng lớn, có tác động mạnh đến sự phát triển kinh tế của đất nước.
- Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với mục đích
thường xuyên là nhận gửi sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán.
2.1. Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng huy động vốn dưới nhiều hình thức như nhận gửi, đi vay; vay dân bằng
cách phát hành kỳ phiếu ,trái phiếu ; vay các tổ chức tín dụng ,các ngân hàng khác; hoặc
có thể vay nước ngoài trên thị trường vốn quốc tế.
Hoạt động này của ngân hàng có hiệu quả ,tập hợp được những khoản tiền nhỏ bé
phân tán, tạm thời chưa sử dụng với những thời hạn hết sức khác nhau nhằm tài trợ lại
cho nền kinh tế, cho những cá nhân có nhu cấu sử dụng tiền khi chưa có thu nhập. Nó
cũng tiết kiệm cho nền kinh tế bằng các khoản giảm chi phí in tiền, chi phí lưu thông.. .
và là cơ sở cho các hoạt động khác của ngân hàng.
2.2. Hoạt động sử dụng vốn.
Một ngân hàng để tồn tại và phát triển được, trước tiên phải đảm bảo khả năng
thanh toán. Nếu ngân hàng không thanh toán được cho khách hàng sẽ dẫn đến sự ồ ạt
rút tiền trong dân chúng và sự sụp đổ là điều khó có thể tránh. Để tránh rủi ro này, ngân
hàng luôn có hoạt động về ngân quỹ nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng.
Xét trên góc độ kinh doanh, thì hoạt động cho vay là nghiệp vụ quan trọng nhất
quyết định sự tồn tại của ngân hàng. Nếu không cho vay được, sẽ không có thu nhập thì
ngân hàng sẽ bị phá sản. Hoạt động cho vay là hoạt độngđem lại lợi nhuận cao nhất
nhưng lại có độ rủi ro cao. Ngân hàng có thể cho chính phủ vay bằng cách mua tín
phiếu kho bạc, cho các cá nhân doanh nghiệp vay trong kinh doanh, tiêu dùng.. . nhằm
thúc đẩy nền sản xuất phát triển.
Ngân hàng cũng có những hoạt động để đầu tư vốn của mình như liên doanh hoặc
mua chứng khoán. cung cấp các dịch vụ để thu phí.
Tất cả các hoạt động trên là nhằm mang lại thu nhập cho ngân hàng.
- 2.3. Hoạt động trung gian thanh toán.
Ngân hàng thực hiện mọi yêu cầu của khách hàng qua sự uỷ thác của khách hàng
như chuyển tiền, thu- chi hộ các khoản tiền căn cứ vào chứng từ mà khách hàng giao
cho. Ngân hàng thực hiện việc thanh toán hộ, thanh toán không dùng tiền mặt... với hình
thức tập trung sẽ giảm được chi phí, thời gian cho khách hàng qua đó ngân hàng cũng
được có lợi với một khoản phí.
Hiện nay, nền kinh tế thị trường đang trở thành một nền kinh tế toàn cầu, vì thế vai
trò của ngân hàng trong lĩnh vực thương mại quốc tế là không thể thiếu trong việc kinh
doanh ngoại hối nhằm phụ trợ cho việc tạo nguồn để cho vay, hỗ trợ cho hoạt động xuất
nhập khẩu của doanh nghiệp
Trong thanh toán quốc tế, ngân hàng đóng vai trò trung gian thanh toán giúp cho
quá trình thanh toán theo yêu cầu của khách hàng được tiến hành an toàn, nhanh chóng
tiện lợi và giảm bớt chi phí thay vì thanh toán bằng tiền mặt. Ngân hàng bảo vệ của
khách hàng trong giao dịch thanh toán đồng thời tư vấn cho khách hàng, hướng dãn về
kỹ thuật nhằm giảm rủi ro, tạo sự an tâm tin tưởng cho khách hàng trong quan hệ giao
dịch mua bán với nước ngoài. Mặt khác, trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế,
khách hàng không đủ khả năng tài chính cần đến sự tài trợ của ngân hàng nhằm vay để
thanh toán hàng xuất nhập khẩu, ngân hàng bảo lãnh mở L/C, chiét khấu chứng từ xuất
khẩu... đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Phương tiện
thường được sử dụng là hối phiếu và séc.
Thanh toán quốc tế làm tăng cường quan hệ đối ngoại của ngân hàng trong nước
thông qua việc bảo lãnh cho khách hàng, thanh toán cho ngân hàng nước ngoài, thực
hiện thanh toán quốc tế, sẽ có được những quan hệ đại lý với ngân hàng đối tác nước
ngoài.
II. Hoạt động kinh doanh đối ngoại của NHTM
1. Đặc điểm
Kinh doanh đối ngoại của NHTM là một loại hình kinh doanh vừa mang tính
truyền thống vừa mang tính hiện đaị. Vì là kinh doanh trên thị trường nên nó cũng có
cạnh tranh và theo đuổi lợi nhuận.
- Nói đến truyền thống, bởi vì kinh doanh tiền tệ bản thân không có biên giới“cứng”
, đồng vốn là dòng chảy không biên giới đã có từ xa xưa gắn với giao lưu quốc tế, với
lưu thông tiền vàng , kim loại quý, với uy tín quốc gia, thương nhân, ngân hàng. Chính
nhờ kinh doanh đối ngoại mới đặt nền móng hình thành các trung tâm tài chính quóc tế
như trung tâm tài chính tại Hồng Kông, Singapore, Tôkyô, London..
Nối đến hiện đại là nói đến hình thức, phương thức ngày càng khác trước, đa dạng
hơn, tinh vi hơn, đồ sộ hơn trên tất cả các hoạt động:kinh doanh ngoại hối, chứng
khoán, thanh toán quốc tế, tín dụng hợp vốn, đồng tài trợ, đại lý, uỷ thác... thông qua
các nghiệp vụ rất đa dạng.
Xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá trở thành phổ biến thì bên cạnh quá trình hợp
tác theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi giữa các quốc gia luôn kèm theo quá trình cạnh
tranh gay gắt khốc liệt. Cạnh tranh là sản phẩm của nền kinh tế thị trường. Nó tồn tại
một cách khách quan với tất cả các thành viên tham gia thị tr ường. Năng lực cạnh tranh
của hoạt động kinh doanh đối ngoại của ngân hàng biểu hiện khả năng chiếm thị phần
hoạt động và chi phối một số thị trường quốc tế quan trọng, tỷ lệ vốn đầu tư ngày càng
tăng trong tổng số vốn nước ngoài đầu tư, ở chi phí dịch vụ thấp hay cao, uy tín của
ngân hàng.
Lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu và cũng là yếu tố cuối cùng để kết thúc hoạt động
sản xuất kinh doanh.. ở các nước phát triển, hoạt động ngân hàng tìm kiếm thị trường
bên ngoài lãnh thổ quốc gia là nhằm chuyển vốn dư thừa tại chính quốc gia sang các
nước kém phát triển hơn với mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận . Còn mục tiêu
của các nước đang phát triển thì là tìm kiếm các nguồn vốn từ các trung tâm tài chính để
chuyển về trong nước nhằm sử dụng có hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Như
vậy,tìm kiếm lơi nhuận chính là mục tiêu hàng đầu, quan trọng nhất trong chiến lược
mở rộng thị trường ra bên ngoài của các NHTM
Tuy nhiên,kinh doanh đối ngoại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như năng lực tài
chính, trình độ quản lý kinh doanh, uy tín, kỹ thuật công nghệ, sự quản lý giám sát của
NHNN và một số cấp có liên quan,an ninh,chủ quyền kinh tế quốc gia. Đây là lý do giải
thích tại sao hệ thống NHTM của Việt Nam còn tương đối “đóng”. Khái niệm biên giới
“ mềm” trong lĩnh vực này còn tương đối xa lạ .
- 2. Các nghiêp vụ (dịch vụ) kinh doanh đối ngoại.
Nếu căn cứ vào luât pháp hiện hành về ngân hàng và quản lý ngoại hối của nước ta
thì “kinh doanh đối ngoại” của NHTM Viêt Nam mà chúng ta đề cập được hiểu là
“hoạt động kinh doanh ngoại hối”. Các NHTM hay ngân hàng nào khác được tiến
hành kinh doanh thì luật pháp có chế định gọi là các” ngân hàng được phép” .Hiên nay
nước ta có 28 ngân hàng được phép :NHNTVN, NHCTVN,NHĐT&PTVN,NHNNVN,
và một số NHTM cổ phần NH nước ngoài đang hoạt đông trên lãnh thổ Viêt Nam .
Chúng ta đều biết, kinh doanh đối ngoại của ngân hàng có phạm vi rộng lớn trên
cả thị trường nội địa và cả thị trường quốc tế.Trong nước ,các hoạt động này mặt nào đó
gắn với nhiệm vụ chính trị của ngành ngân hàng phục vụ các yêu cầu phát triển, giao
lưu kinh tế-xã hội trong điều kiện mở cửa hiện nay như nghiệp vụ hối đoái, mua bán
ngoại tệ, nghiệp vụ thanh toán chi trả kiều hối cho người nhận trong nước, nghiệp vụ tài
khoản ngoại tệ phục vụ các tổ chức và các cá nhân “ người cư trú “ và “ người không cư
trú” tại Việt Nam, nghiệp vụ thanh toán thẻ tín dụng quốc tế đối với các cơ sở tại
thương trường Việt Nam và cả nghiệp vụ huy động vốn cho vay, bảo lãnh bằng ngoại
tệ theo cơ chế hiện hành trong nước. Tất cả những hoạt động kinh doanh ngoại hối trên
do các “ngân hàng được phép “thực hiện.
Kinh doanh đối ngoaị của các NHTM được phép trên thị trường tiền tệ quốc tế thì
lại khác, có những yêu cầu và điều kiện khá khắt khe đặt ra cụ thể trong giao dịch và
những nội dung hoạt động diễn ra trên thị trường quốc tế là: thực hiện các dịch vụ thanh
toán liên ngân hàng quốc tế, phát sinh liên quan đến việc trao đổi thương mại, dịch vụ,
đầu tư quốc tế và các quan hệ giao lưu khác hết sức đa dạng giữa các nước với nhau.
Thanh toán quốc tế thường là những hoạt động dịch vụ đối ngoại đầu tiên mà NHTM
khi bước ra thương trường quốc tế đều phải tiến hành với những đòi hỏi rất khắt khe,
trong đó yêu cầu chuẩn xác và nhanh chóng được đặt lên hàng đầu. Có 3 phương thức
thanh toán quốc tế được sử dụng phổ biến là : phương pháp chuyển tiền, phương pháp
nhờ thu, phương pháp tín dụng chứng từ L/C.
Thị trường quốc tế là thị trường chu chuyển vốn tiền tệ nhưng không phải tiền tệ
của mọi quốc gia mà bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Vì vậy hoạt động kinh doanh
ngoại hối của các NHTM trên thị trường tiền tệ quốc tế là tất yếu và thuộc loại các giao
- dịch kinh doanh vốn ngắn hạn. Lưu lượng vốn chu chuyển trên thị trường tiền tệ quốc
tế chủ yếu được hình thành từ các nguồn thuộc dự trữ lưu động do các NHTM được
phép nắm giữ và điều hành kinh doanh tác nghiệp.
Thực tế kinh doanh ngoại hối thì có hai hoạt động chính là :
- Kinh doanh chuyển đổi ngoại tệ: là loại kinh doanh diễn ra hàng ngày tại một
NHTM đối ngoại. Người ta còn gọi việc chuyển đổi này là mua, bán ngoại tệ. Thị
trường hối đoái trong nước, mua bán ngoại tệ giữa NHTM và khách hàng đều tiến hành
thông qua đồng bản tệ. Còn mua, bán ngoại tệ trên thị trường hối đoái quốc tế thực chất
là sự chuyển đổi giữa các ngoại tệ với nhau.
- Kinh doanh tiền gửi ngoại tệ: là quan hệ giữa tiền gửi giữa các NHTM , quan hệ
kinh doanh vay mượn với ngân hàng thương maị và chủ thể cho vay, nguồn vốn ngoại
tệ để cho vay thông qua nghiệp vụ tiền gửi thường được tạo ra từ hai nguồn kinh doanh
hối đoái trong nước và huy động trong thị trương tiền tệ quốc tế qua nghiệp vụ tài khoản
tiền gửi.
- Tổ chức bộ máy kinh doanh dưới hình thức lập chi nhánh hoạt động ở hải ngoại
hay liên doanh thành lập NHTM hay các định chế tài chính ở nước ngoài, cũng là loại
hình kinh doanh đối ngoại của các NHTM .
3. Vai trò của hoạt động kinh doanh đối ngoại đối với NHTM và đối với nền
kinh tế
Xu hướng toàn cầu hoá đang chi phối khuynh hướng và cấu trúc vận động của hệ
thống tài chính- ngân hàng của từng quốc gia từ khi đổi mới nền kinh tế hệ thống
NHTM Việt Nam đã sớm bắt nhịp quá trình hội nhập cộng đồng tài chính tiền tệ khu
vực và thế giới. Do đó đẩy mạnh hoạt động kinh doanh đối ngoại đối với NHTM không
chỉ là tất yếu khách quan mà còn là lẽ sống của chính ngân hàng.
Trong kinh doanh đối ngoại hay còn được gọi là hoạt động kinh doanh ngoại hối
thì NHTM giữ vị trí trung tâm. Các ngân hàng này đảm nhiệm hầu hết các hoạt động
chuyển hoá ttrên thị trường ngoại hối với tư cách người bán hoặc người mua, Vai trò
chủ đạo này xuất phát từ vị trí trung tâm của NHTM trong việc thực hiện thanh toán
- quốc tế. Qua đó, ngân hàng là người cuối cùng hình thành nền tảng doanh thu của thị
trường hối đoái.
Khi cần thực hiện các hợp đồng thanh toán bằng ngoại tệ thì trước sau ngân hàng
cũng phải thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối. Dịch vụ chuyển đổi ngoại tệ của
NHTM nhằm đáp ứng nhu cầu chi trả bằng ngoại tệ khác của khách hàng bản xứ mà
NHTM chưa có sẵn. Cũng vì yêu cầu bảo toàn giá trị tiền tệ trong kinh doanh khi một
loại ngoại tệ có sẵn đang có xu hướng mất giá so với ngoại tệ khác. Các NHTM thường
thanh toán hộ theo yêu cầu khách hàng nên trong nghiệp vụ kinh doanh hầu hết các
ngân hàng còn thực hiện các hoạt động ngoại hối theo hình thức liên ngân hàng, có
nghĩa là các NHTM trực tiếp mua bán với nhau không liên quan tới nghiệp vụ khách
hàng. Mục đích của hoạt động này đối với các NHTM là lợi nhuận thu được trên cơ sở
chênh lệch tỷ giá của các giao dịch ngay trên thị trường hối đoái hoặc từ việc tích trữ
đầu cơ ngoại hối hoặc từ việc thu phí.
Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước cũng là mục tiêu quan trọng
nhất trong chiến lưọc mở rộng thị trường ra bên ngoài của các NHTM Việt Nam, bởi vì
nó đóng vai trò trung gian chuyển vốn từ các trung tâm tài chính quốc tế về trong nước
nhằm góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại có những lợi ích:
Một là, tranh thủ được các nguồn vốn trên thị trường quốc tế thông qua ngân hàng
nước ngoài hoặc các chi nhánh của họ, ngân hàng liên doanh với nước ngoài tại Việc
Nam để đầu tư phát triển kinh tế đất nước.
Hai là, có điều kiện và học hỏi công nghệ ngân hàng tiên tiến, nhất là ở các khâu
thanh toán kinh doanh ngoại hối, thẩm định dự án ngừa phòng rủi ro kiểm soát nọi bộ
và giám sất tài chính. Hợp tác kinh doanh tạo cơ hội cho ta có điều kiện tìm kiếm bạn
hàng, khách hàng, đào tạo cán bộ qua các ngân hàng liên doanh như
INDOVINABANK, FIRSTVINABANK, VID PUBLIC... các NHTM Việt Nam sẽ th
được nhiều kinh nghiệm, bài học khá tốt về cách quản lý ngân hàng góp phần làm
phong phú thêm và sôi động hơn thị trường chính Việt Nam, tạo nên môi trường cạnh
tranh lành mạnh từ đó, góp phần quốc tế hoá hoạt động của NHTM Việt Nam.
- Ba là, góp phần quan trọng khuyến khích mở rộng xuất khẩu, kiểm soát tốt nhập
khẩu. Tài trợ xuất nhập khẩu là một mảng dịch vụ thuộc hệ thống tất cả các dịch vụ
chuyên biệt của ngân hàng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp tronh hoạt động xuất nhập
khẩu.Thực hiện hoạt động này ngân hàng cung ứng vốn bằng tiền hoặc bảo lãnh giúp
doanh nghiệp gia tăng hệu quả kinh doanh thực hiện thương vụ thành công khi có sự
thiếu hụt vốn trong doanh nghiệp.
Bốn là, tạo điều kiện cơ hội mở rộng thị trường tìm kiếm bạn hàng trên những lĩnh
vực kinh doanh khác nhau, thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước nâng
cao vị thế chính trị, kinh tế, ngoại giao, giao lưu văn hoá dân tộc với thế giới
Trên thực tế đã cho chúng ta thây hội nhậo quốc tế về hoạt động ngân hàng đang là
một xu thế của thời đại. Nó đem đến cho mỗi quốc gia nhiều lơi ích để phát triển, khơi
thông các kênh luân chuyển vốn từ nước ngoài vào thị trường Việt Nam- nơi đang càn
nhiều vốn đầu tư và nó cũng tạo điieù kiện cho các NHTM Việt Nam, các doanh nghiệp
trong nước có cơ hội đầu cho nước ngoài
- Chương II
Thực trạng hoạt động kinh doanh đối ngoại
của các NHTM Việt Nam
I. Thực trạng tình hình hoạt động
1. Một số thành tựu đã đạt được
Qua hơn 10 năm đổi mới cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế,trong đó có
kinh tế đối ngoại của các NHTM Viêt Nam dần có những khởi sắc. Cũng như nhưng
hoạt động kinh doanh tiền tệ ngân hàng trong nước,chuyển từ cơ chế độc quyền của
NHNN sang cơ chế thi trường, đa dạng hoá các loại hình kinh doanh tiền tệ -tín dụng-
ngoại hối’trong đó vai trò chủ đạo và chủ lực vẫn thuộc các tổ chức tín dụng nhà nước.
Hoạt động kinh doanh đối ngoại của NHTM Viêt Nam từng bước được xác lập vị thế
trên thương trường.
Hiện nay, lĩnh vực này không còn độc quyền Nhà nước do Vietcombank đảm trách
như thời tập trung bao cấp nữa,và bản thân Vietcombank trong cơ chế mới cũng đã trở
thành một NHTM thực thụ của Nhà nước.Nếu không tự đổi mới và phấn đấu giữ vững
nâng cao chất lượng “chữ tín“ chắc chắn Vietcombanh đã không thể tồn tại và phát triển
đến nay, không thể thực hiện vai trò là NHTM quốc doanh chủ đạo và chủ lực trong
lĩnh vực ngoại hối.
Cùng với Vietcombank bắt đầu vào cuộc còn có các NHTM quốc doanh khác,mà
mới trước đó với danh nghĩa các ”ngân hàng chuyên doanh”,chỉ hoạt đông trên thương
trường nội địa.Vơí phương châm phát triển thận trọng ,tiến chắc không thể phủ nhận sự
tiến bộ của NHCTVN, NHĐT&PTVN, NHNNVN trong lĩnh vực này. Đồng thời ,
một số NHTM cổ phần ra đòi sớm đã từng bước khẳng định được vị thế . Nễu xét trên
giác độ hạch toán kinh doanh trên thị trương tiền tệ quốc tế của nhiều NHTM nước ta
đều có lãi,chưa để xẩy ra những thất thoát gì đáng kể về vốn ngoại tệ.
- Một số NHTM nước ta đã sớm tiếp cận với các phương thức kinh doanh quốc tế
hiện đại để vận hành vào Viêt Nam như thẻ tín dụng quốc tế , phòng buôn tiền quốc tế,
dịch vụ chuyển tiền điện tử quốc tế đã thu lợi hàng chục triệu USD mỗi năm cho nhà
nước đặc biệt là từ sau khi bùng nổ cuộc khủng hoảng tài chình tiền tệ tại các nước khu
vực Đông Nam á vào giữa năm 1997 và đầu năm 1998 thì cơn sốt nóng ngoại tệ với sự
gia tăng đột ngột tỷ giá là sự thử thách gay go đầu tiên của nưóc ta trong thời kỳ đổi mới
tính từ năm 1990 trở lại đây trên lĩnh vực tài chính- tiền tệ- đối ngoại.
Những giải pháp tình thế trong quản lý vầ điều hành ngoại hối nhạy bén kiên quyết
của chính phủ, ngân hàng Nhà nước cùng với sự phát triển nỗ lực vượt bậc trong tác
nghiệp của hệ thống NHTM được phép kinh doanh ngoại hối đã đẩy lùi được cơn sốt
nóng này.
Từ sau khi đổi mới đến 1997 xuất khẩu nước ta tăng trưởng vói tỷ lệ cao, hàng
năm từ 20- 25%. Đấy là nhờ tiềm lực kinh tế đất nước phát triển được tác động bởi các
chủ trương chính sách vĩ mô của Đảng và chính phủ dành cho xuất khẩu ngày càng đi
vào cuộc sống. Ngân hàng cũng đã có nhiều đóng góp đắc lực về vốn tín dụng thanh
toán đối ngoại.... tạo nhiều thuạn lợi cho xuất khẩu.
Những năm gần đây với hoạt động của NHTM nhằm đẩy mạnh huy động vốn và
cho vay phục vụ CNH, HĐH đất nước phát huy nội lực, tranh thủ tối đa nguồn lực bên
ngoài phục vụ mục tiêu phát triển đất nước.
2. Tình hình hoạt động .
Mặc dù đã có những thành tựu như trên nhưng hoạt động kinh doanh đối ngoại của
các NHTM Việt Nam còn có một số tồn tại:
Chưa đa năng hoá theo cơ ché thị trường, điều đó được thể hiện ngay cả trong
nghiệp vụ huy động vốn và sử dụng vốn ngoại tệ. Các hình thức huy động còn đơn điệu,
chưa có các hình thức huy động dài hạn, chưa thu hút được các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài hay các cá nhân nước ngoài, ngân hàng nước ngoài mở tài khoản
ngoại tệ. Còn bị động trong huy động vốn và sử dụng, điều này thể hiện rất rõ trong
năm 97 khi bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và nhất là
trong năm 99- 2000 người dân có khuynh hướng chuyển dịch tiền gửi từ VND sang
- USD. Hậu quả là, các NHTM có dư số tiền gửi ngoại tệ tăng nhanh mà không sử dụng
hết được số vốn khả dụng bằng USD.
Cuối năm 1996 chỉ có 18% tiền gửi bằng ngoại tệ trong tổng tiền gửi sang đến
năm 97-99 thì tỷ lệ này là 30%. Nhưng trong năm 2000 tỷ lệ này tiếp tục gia tăng với
tốc độ nhanh hơn, 9 tháng đầu năm tốc độ huy động tiền gửi ngoại tệ tăng mạnh 25.5%
năm 99 lên 41.2% năm 2000 và tốc độ huy động tiền gửi bằng VND giảm tương ứng
19.2% năm 99 xuống còn 14.2% năm 2000. Hiện tượng nguồn vốn USD chảy vào các
NHTM tăng mạnh, hơn nữa các NHTM lại nâng lãi suất huy động USD lên cao được
nhiều USD, lên lượng vốn USD tiềm năng trong dân chúng chảy mạnh vào hệ thống
ngân hàng. Một thực tế khá sinh động hiện naylà nguồn ngoại tệ để cho vay của các
NHTM là rất lớn nhưng không cho vay ra được. Không biết rằng có bao nhiêu nguyên
nhân nhưng chỉ riêng các hợp đồng tín dụng cho vay bằng ngoại tệ mà các ngân hàng
đã ký với doanh nghiệp đến nay đã lên tới hàng trăm triệu USD nhưng vẫn chưa giải
ngân được. Tiền ngân hàng vẫn năm chờ các thủ tục như tổng dự toán chưa được duyệt,
gói thầu chưa lập xong, thiết bị cung cấp chưa lựa chọn, hợp đồng thi công chưa được
ký... nên các chủ đầu tư không dại gì rút vốn vay để chịu lãi suất. Khi các NHTM cho
doah nghiệp vay bằng ngoại tệ nhưng doanh nghiệp không tạo ra mặt hàng xuất khẩu để
tái tạo ra ngoại tệ sẽ không có ngoại tệ trả nợ cho NHTM và tất nhiên doanh nghiệp
phải mua ngoại tệ để trả nợ sẽ bị thiệt hại về tỷ giá so với khi vay, ngoài ra cũng rất khó
cho doanh nghiệp khi lập kế hoạch hoá về giá thành sản phẩm và tài chính cho những
năm mắc nợ.
Nước ta nguồn ngoại tệ phân lớn là nguồn kiều hối chuyển từ nước ngoài về
nhưng NHTM chỉ cho phép người cư trú mở tài khoản tiền gửi nngoại tệ bằng tiền mặt
nhưng lại không cho phép vay bằng ngoại tệ, khách hàng chỉ mua bán ngoại tệ với
NHTM khi thật cần thiết.
Các NHTM Việt Nam huy động vốn bằng ngoại tệ mà không thể cho vay được
nên phải gửi ngoại tệ ra nước ngoài nhằm hưởng lãi cao và biến ngoịa tệ tièn mặt thành
ngoại tệ chuyển khoản ( có lợi ích được sử dụng trong thanh toán quốc tế ). Việc các
NHTM gửi ngoại tệ ra ngân hàng nước ngoài là hoạt động kinh doanh bình thường được
luật pháp cho phép và phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần làm tăng GDP tăng lãi
- cho NHTM và người gửi. Song là kinh doanh tiền tệ nên hoạt động này có lãi và cũng
có rủi ro, đòi hỏi NHTM phải chú trọng tới hiệu quả, an toàn dù số dư tiền gửi nhiều
hay ít. Sẽ là tốt hơn nếu NHTM dùng nguồn vốn ngoại tệ huy dộng được để dầu tư
trong nước. Vì đứng trên góc độ quản lý vĩ mô việc gửi ngoại tệ ra nước ngoài tiếp tục
gia tăng sẽ có những tác động không tốt đến nguồn vốn phát triển kinh tế của nước ta.
đối với nguồn vốn trong nước không phát huy hết hiệu quả, không được khai thác triệt
để nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh, còn đố với nguồn vốn từ nước ngoài cũng giảm
sút vì lãi suất ở Việt Nam (nước tiếp nhận vốn đầu tư) thấp hơn so với lãi suất quốc tế.
Hơn nữa, việc các NHTM gửi ngoại tệ ra nước ngoài, không cho vay trong nước cũng
làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào sự ổn định của môi trường kinh tế
vĩ mô ở Việt Nam, càng làm xấu đi hoạt động thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài
vốn đã có chiều hướng giảm sút gần 3 năm nay.
Hoạt động kinh doanh đối ngoại trong lĩnh vực ngân hàng rất phức tạp nên đòi hỏi
phải có vốn đủ sức hoạt động , phải có những trang bị, phương tiện tiên tiến dủ khả
năng và đáp ứng kịp thời đầy đủ các nhu cầu của kkhách hàng và cạnh tranh được với
các ngân hàng nước ngoài. Nhưng hiện nay tiềm lực tài chính của các NHTM Việt Nam
còn nhỏ bé, tổng số vốn tự có của 4 NHTM quốc doanh lớn nhất Việt Nam chỉ khoảng
5500 tỷ VND. Như vậy với điều kiện cho vay đối với một khách hàng không vượt quá
15% vốn tự có theo quy định hiện hành thì toàn bộ các NHTM quốc doanh cũng chỉ có
thể cho vay hợp vốn cho một khách hàng giá trị tối đa là 825 tỷ VND. Do đó, khi các
nhu càu đầu tư cho những công trình trọng điểm của nền kinh tế... rất khó có thể huy
động được đủ vốn từ các NHTM trong nước. Cho nên các tổng công ty, các nhà xuất
nhập khẩu tầm cỡ đều là khách hàng thường xuyên của ngân hàng nước ngoài cùng với
những dịch vụ nhanh,chính xác và ít rủi ro. Như vậy, các NHTM Việt Nam chưa đủ sức
làm ăn với các doanh nghiệp có tầm cỡ.
Thị trường nội tệ liên ngân hàng thì không hoạt động, thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng hoạt động kém hiệu quả, nhiều khi nhu cầu bán lớn hơn nhu cầu mua tạo nên sự
mất cân đối lớn. Mặc dù các ngân hàng có nhu cầu ngoại tệ lớn để bán cho khách hàng
L/C và trả nợ vay đến hạn nhưng việc mua từ các ngân hàng là rất khó bởi tâm lý găm
giữ ngoại tệ trong thời điểm tỷ giá có xu hướng tăng lên. Tình hình đó càng làm việc
lưu chuyển vốn trong xã hội trở lên bị cản trở nhiều hơn.
- Các NHTM Việt Nam có hệ thống thanh toán chưa hiện đại. Một số ngân hàng đã
sử dụng phương tiện của tổ chức viễn thông tài chính quốc tế kiên ngân hàng để chuyển
các khoản thanh toán đi và nhận các khoản thanh toán đến từ các ngân hàng đại lý nước
ngoài, nhưng mưói nhỉ được thực hiện ở hội sở chính, chưa có đến các chi nhánh. Ngay
trong cùng một hệ thống NHTM được phép kinh doanh đối ngoại ở nước ta như
VIETCOMBANK chẳng hạn thì các giao dịch kinh doanh đối ngoại đúng nghĩa của nó
cũng chỉ tập trung tại hội sở Trung ương và một và choi nhánh chủ yếu. Hoạt động kinh
doanh về vốn , kinh doanh ngoại hối, vay và bảo lãnh quốc tế... đều xử lý theo nguyên
tắc tập trung chứ không phân tán mở rộng. Thị trường tài chính quốc tế và khu vực là
một mạng liên thông toàn cầu hoạt động 24/24 giờ, dịch vụ ngân hàng nội địa của nhiều
nước nhờ sự giúp đỡ của hệ thống vi tính và mạng viễn thông đã đưa hoạt động ngân
hàng đến tận cửa hiệu, khách sạn, gia đình. Kế toán và thanh toán qua ngân hàng được
thực hiện và lưu giữ trong hệ thống vi tính không cần chứng từ. Dịch vụ ngân hàng đã
liên kết các doanh nghiệp, các nhà đầu tư với nhau trên phạm vi toàn cầu mỗi giao dịc
chỉ tính bằng giây thì thực tế hệ thống thanh toán cuả NHTM Việt Nam còn có khoảng
cách lớn đối với hoạt động xuất khẩu, NHTM có dịch vụ cho bạn hàng của doanh
nghiệp xuất khẩu Việt Nam mở L/C tại ngân hàng, trên cơ sở đó có thể cho doanh
nghiệp vay tiền để tiến hành sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Tuy nhiên, do giới hạn về
trình độ nghiệp vụ đặc biệt là thông tin về bạn hàng nên tín dụng trên cơ sở L/C còn rất
hạn chế và mức độ rủi ro cao (10- 15%). Thêm vào đó vai trò trung gian của NHTM đối
với các giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu còn rất thụ động, hầu như NHTM chưa có
giải pháp gì để tăng độ an toàn nhất là thanh toán hàng xuất cho các doanh nghiệp Việt
Nam và do đó lại càng hạn chế tín dụng cho xuất khẩu. Hiện nay, phía Việt Nam yeu
cầu doanh nghiệp trong nước mở L/C thời hạn 180 ngày( trước đây có thể kéo dài L/C
tới 360 thậm chí 540 ngày).để tránh phí quá cao, một số doanh nghiệp đã mở L/C
“ngầm” qua ngân hàng nước ngoài. Tuy chi phí mở L?c tại ngân hàng thương mại quốc
doanh vẫn thấp hơn so với các ngân hàng nước ngoài nhưng việc phát hành hối phiếu
và bán hôí phiếu cho nhà đầu tư hầu như không được chấp nhận ở Việt Nam. Ngoài ra
doanh nghiệp Việt Nam phải ký quỹ tới 80% giá trị L/C trong khi các doanh nghiệp
đang rất thiếu vốn mà cơ sở nước ngoài mở L/C tại ngân hàng Việt Nam chỉ phải đặt
cọc giá trị L/C càng làm cho tín dụng xuất khẩu trở nên khó khăn. Mặt khác, độ an toàn
- trong tín dụng xuất khẩu trở nên không cao do ngân hàng hầu như không chịu trách
nhiệm đối với doanh nghiệp xuất khẩu, điều này không những không thúc đẩy xuất
khẩu mà ngược lại còn kìm chế. Bản thân phương thức L/C tỏ ra ưu việt hơn so với các
phương thức thanh toán quốc tế khác vì nó đảm bảo quyền lợi của cả hai bên (bên bán
và bên mua) song nó không phải là phương thức thanh toán đảm bảo tránh được rủi ro
hoàn toàn cho các bên tham gia trong đó có ngân hàng. Rủi ro trong thanh toán L/C,
ngoài những mất mát, thiệt hại xảy ra do không thu hồi được vốn đã trả thay cho doanh
nghiệp mà còn rủi ro về uy tín của ngân hàng trong thanh toán quốc tế và các khoản chi
phí phát sinh vô ích khác.
Trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của các NHTM Việt Nam trong thời gian
qua thực hiện thanh toán L/C đã mang lại thu nhập cho ngân hàng khi ngân hàng thực
hiện một cách thận trọng. Bên cạnh đó cũng có NHTM đã buông lỏng việc quản lý thực
hiện thanh toán cho nên hiện đang phải hiênj hứng chịu hậu quả khó có thể khắc phục
và còn ảnh hưởng lâu dài đến hoạt động ngân hàng .Có NHTM dư nợ cho vay bắt buộc
(trả thay cho khách hàng) tư những năm trước còn tồn đọng hàng chục triêu USD nơ
gốc không có khả năng thu hồi.
Trong năm 2000,tình trạng khan hiếm ngoại tệ đã bộc phát và kéo dài.Các doanh
nghiệp phải mua gom ngoại tệ tư nhiều NHTM để thanh toán L\C hoặc để trả nợ vay
nước ngoài...Hệ thống NHTM cũng rất khó khăn trong việc xoay sơ được ngoại tệ để
cung ứng cho doanh nghiêp.Một thưc tế là đang có xu hướng chuyển dịch các nghiêp
vụ xuất nhâp khẩu sang các ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước
ngoài.Nhiều dự án lớn có hiệu quả trong lĩnh xuất khẩu gạo,thuỷ hải sản,cà phê...đa rơi
vào các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.Việc thanh toán những mặt hàng xuât khẩu
chủ lực của Việt Nam đều được tiến hành hầu như tối đa qua các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài: thanh toán xuất khẩu gạo với số lượng lớn qua BNP (Pháp) xuất khẩu than
qua Citibank (Mỹ) và Ing Bank(Hà Lan), thuỷ hải sản qua BFCE(Pháp), cà phê xuất
khẩu qua chi nhánh ngân hàng Deutsche (Đức) ... Mở cửa hội nhập quốc tế về thương
mại và dịch vụ, đầu tư nên việc thiết lập quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài là
yêu cầu không thể thiếu với bất cứ NHTM nào khi được phép thực hiện các dịch vụ
thanh toán quốc tế và các hoạt động kinh doanh trên thị trường tiền tệ quốc tế. Nhưng
có tình trạng đặt quan hệ đại lý dàn đều,số lượng quá yêu cầu cần thiết, thiếu sự chỉ đạo
- chung của NHNN về chính sách quan hệ ngân hàng đại lý giữa các NHTM nước ta ,
thiếu hẳn sự liên kết phối hợp với nhau để trao đổi thông tin kịp thời trong đánh giá tín
nhiệm ngân hàng đại lý để ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra. Nhất là trong điều
kiện, hâu hết các NHTM Việt Nam đều chỉ có quan hệ đại lý tài khoản loại “ Nostro”
tức là phía ta gửi vốn ngoại tệ của mình ở nước ngoài chứ hầu như chưa có việc ngân
hàng dại lý ở nước ngoài thiết lập quan hệ tài khoản đại lý, loaị ” Loro” tức là ngoại tệ
huy động trên thị trường tiền tệ quốc tế thông qua nghiệp vụ tài khoản tiền gửi đối với
nước ta.
Trong nền kinh tế cơ chế thị trường phần lớn các doanh nghiệp trong quá trình
kinh doanh đã biết khai thác một cách tốt nhất mối quan hệ mật thiết với các ngân hàng
trên nhiều phương diện như sử dụng các dịch vụ thanh toán, thu tiền, trả lương, vay vốn
của ngân hàng .... nhằm mở rộng hoạt động, đổi mới công nghệ, đảm bảo an toàn trong
thanh toán. hầu hết các doanh nghiệp đều có xu hướng lựa chọn cho mình một ngân
hàng đáng tin cậy để lo mọi quan hệ thanh toán ủng hộ mình khi có sự tiếp xúc với các
ngân hàng khác hay thực hiệ giao dịch thương mại với nươc ngoài. Vì vậy. Ngân hàng
ngày càng có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh.
Những năm gần đây, nhất là sau khi Chính phủ cho phép các ngân hàng nước ngoài
dược mở chi nhánh tại Việt Nam hay thành lập ngân hàng liên doanh với ngân hàng
Việt Nam thì các ngân hàng nước ngoài đã nhanh chóng chiếm thị phần tiền gửi cũng
nhu thị trường hoạt động tín dụng Việt Nam.Từ năm 1997 trở lại đây thị trường của cá
chi nhánh ngân hàng nước ngoài có xu hướng bùng nổ. Thị trường tiền gửi, thị phần của
các ngân hàng nước ngoài tăng 9.2 lần từ 2% năm 94 lên 18.5% năm 97 sau đó giảm
nhẹ còn 14.7% năm 99, còn thị trương tín dụng tăng 14.6 lần từ 2% (94) lên 29.2%(97)
và còn 25.7%(99). Trong lĩnh vực ngân hàng buộc các ngân hàng phải chấp nhận cơ chế
cạnh tranh khốc liệt. Các ngân hàng trong nướcngay từ lúc đầu bị mất đi thị trường lẫn
khách hàng va có thể sẽ tiếp tục bị thu hẹp thị trường nếu như không thể khẳng định
được mình, tiếp rục làm ăn thua lỗ tất yếu sẽ rơi vào tình trạng ngày càng tồi tệ. Với
một thị phần khá lớn như hiện nay, có thể nói khả năng chi phối và ảnh hưởng của các
chi nhánh ngân hàng chủ yếu tập trung vào các dự án lớn, trọng điểm của Việt Nam.
Như vậy chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang luồn sâu vào những nghành trọng điểm
của quốc gia, khả năng chi phối của nước ngoài đối với một số lĩnh vực của đời sống
- kinh tế xã hội tại Việt Nam là hết sức rõ ràng và rất có khả năng chi phối hệ thống tài
chính của Việt Nam nếu như các nhà quản lý tiền tệ không có một chiến lược kiểm soát
một cách hợp lý.
Một hạn chế nữa là đội ngũ cán bộ đối ngoại cuả NHTM Việt Nam còn bất cập
chưa đáp ứng được yêu cầu của kinh tế thị trường, cán bộ am hiểu nghiệp vụ ngân hàng
sâu sắc song trình độ ngoại ngữ , tin học. Một số lãnh đạo NHTM không có trình độ
ngoại ngữ , không am hiểu luật pháp, do đó đã chấp nhận pháp hành nhứng L/C hoặc dễ
dãi tu chỉnh L/C với những nội dung điều khoản gây bất luận cho ngân hàng. Vấn đề
nhân lực cho hoạt động kinh doanh trên thị trường quốc tế của các NHTM Việt Nam
thực ra không phải là một vấn đề khó bởi vì ta đã có rất nhiều sinh viên xuất sắc được
đào tạo tại các trường đại học trong nước và chúng ta cũng có hàng vạn sinh viên Việt
Nam đã và đang học tại các trường đại học ở các nước công nghiệp phát triển.Kiến thức
học vấn nói chung và ngoại ngữ của các sinh viên này không kém sinh viên ngoại
quốc,thâm chí còn có mặt suất sắc.Ngoài ra ,chúng ta còn có thể thu hút đội ngũ cán bộ
Việt Nam làm việc cho các NHTM quốc doanh Việt Nam thay vì để họ đi làm thuê cho
công ty nước ngoài .
Trong việc triển khai loại hình dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế tại nước ta như: visa,
master card cũng phát sinh một tình hình không thể tiếp tục duy trì được mà nguyên
nhân là do thiếu một cơ chế hợp tác liên doanh kinh doanh giũa các NHTM n ước ta
trong lĩnh vực này, do thói quen sinh hoạt và chi tiêu bằng tiền mặt trong dân cư còn
phổ biến.
Ngày nay, hệ thông ngân hàng Việt Nam đang tiếp tục củng cố và không ngừng
phát triển các quan hệ hợp tác quốc tế ,góp phần thu hút và huy động nhiều nguồn vốn
,khai thông được các quan hệ tài chính-tín dụng với các tổ chức như:
IMF,WB,ADB...mở đường cho việc thu hút đầu tư trực tiếp và mở rông thương mại với
nước ngoài .Bằng việc đổi mới công nghê và hiện đại hoá hệ thống thanh toán ngân
hàng có khả năng thực hiện tốt hơn các dich vụ thanh toán trong nước và quốc tế,góp
phần thúc đẩy hoạt động xuây nhập khẩu và làm cho môi trường đầu tư ở Việt Nam hấp
dẫn và có tính canhj tranh cao hơn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài .
- II. Nguyên nhân của thực trạng trên.
Xét về hiên trạng trên trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của các NHTM Việt
Nam ,ta có thể dễ dàng nhận thấy :năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam còn
thấp . Đó là do nước ta có xuất phát điểm thấp ,cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn
lạc hậu và đang trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển sang cơ chế thị trường .Hậu
quả chiến tranh còn năng nề ,hoạt động đối ngoại của ngành Ngân hàng nói chung và
hoạt động kinh doanh đối ngoại của các NHTM nói riêng trong giai đoạn đàu đổi mới
(1989-1995) có chính sách cấm vận về tiền tệ-tín dụng-thanh toán quốc tế liên quan đến
USD là rõ nhất .Ngoài ra do hậu quả nơ. nần nước ngoài của thời tập trung bao cấp để
lại chưa được xử lý thoả đáng trong quan hệ kinh doanh đối ngoại của đất nước ,ảnh
hưởng uy tín quốc tế của ngành Ngân hàng .Hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai
đoạn này chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước vẫn còn nhiều yếu
tố bao cấp chưa thực sự năng động trong khi các ngân hàng nước ngoài rất linh hoạt chỉ
nhìn vào hiệu quả kinh tế của các dự án vốn để cho vay .Rõ ràng các ngân hàng trong
nước đã co cụm hơn trong hoạt động tín dụng .Đáng chú ý hơn việc hạ thấp các điều
kiện vay vốn đến đôi khi không quản lý được các nguồn thu nợ đã tạo ra sự cạnh tranh
không lành mạnh giữa các ngân hàng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đén đời sống kinh
tế,chính trị ,xã hội Việt Nam .
Hiện nay, thị trường ngoại tệ có những dấu hiệu mất cân bằng thể hiện qua tỷ giá
trong giao dịch của các NHTM liên tục ở mức sát trần NHNN phải can thiệp để hỗ trơ
thị trường một số ngoại tệ đăp ứng nhu cầu thanh toán gặp khó khăn ...Thời gian qua
,nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu trên thị trường quốc tế tăng mạnh do giá xăng dầu
trên thị trường quốc tế tăng trong khi đó nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu dầu thô cũng
tnăng nhưng chưa bán lại cho ngân hàng. Vì trong vòng hơn 1 năm qua, lãi suất USD
trên thị trường quốc tế tăng do áp lực kiềm chế lạm phát và do nhu cầu về tín dụng đối
voứi đồng USD tăng, còn tại Việt Nam tình hình lại diễn biến theo chiếu hướng ngược
lại. Năm 1999, nền kinh tế rơi vào tình trạng thiểu phát, chỉ số giá cả của cả năm ở mức
rất thấp ( chỉ có 0.1%) năm 2000 nền kinh tế tiếp tục rơi vào tình trạng này, nhiều
doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả( hơn 60% các DNNN làm ăn thua lỗ) nên các
cơ hội đầu tư trong nước đã thiếu làm cho các NHTM gặp khó khăn trong tìm kiếm dự
án khả thi. Vì vậy, nhu cầu tín dụng đối VND bị giảm sút. Do chênh lệch lãi suất USD
- giữa Việt Nam và thị trường quốc tế nên các ngân hàng có xu hướng đầu tư vốn USD ra
nước ngoài nhiều hơn.
Lượng cung ngoại tệ giảm còn do quy định của Chính phủ về tỷ lệ kết hối theo
quyết định 180 ngày 30/9/1999 giảm tỷ lệ kết hối từ 80% xuống còn 50% làm cho
lượng USD mua được của ngân hàng giảm mạnh. Kể từ tháng 4/2000, khi một loạt các
ngân hàng cả quốc doanh và cổ phần chạy đua nâng lãi suất tiết kiệm USD lên cao hơn
cả lãi suất tiết kiệm của VND gần như ở tất cả các kỳ hạn, vì lý do này mà người dân có
xu hướng chuyển các khoản tiền gửi của mình từ VND sang USD. Nhiều người muốn
mua USD tại thị trường tự do làm lượng cầu tăng nên giá USD tăng
Các NHTM Việt Nam nói chung đều có vốn tự có thấp, kinh doanh ngoại hối đòi
hỏi phải có trình độ nnhạy bén, bản lĩnh. Việc quy định trạng thái ngoại tệ dư thừa hoặc
dư thiếu cuối ngày theo QĐ 180 NHNN năm 1998 là không được vượt quá 30% (trong
đó USD là 15%) vốn tự có của ngân hàng là cứng nhắc, không tạo ra thông thoáng để
các NHTM tận dụng thời cơ thuận lợi khi trên thị trường quốc tế các ngoại tệ thường
xuyên biến động thậm chí lâm vào tình trạng mất giá, phá hoặc nâng giá ngoại tệ thì
việc quy định buộc các ngân hàng chỉ được phép dư thừa 15% khi USD lên giá hoặc đối
với các ngaọi tệ khác là không hợp lý.
Các NHTM Việt Nam có mức độ rủi ro cao nhất là rủi ro quốc tế nên đôi khi làm
mất uy tín và khách hàng. Quá trình hội nhập quốc tế về ngân hàng có nghĩa là gia tăng
sự giao dịch với bên ngoài với quy mô lớn hơn, sâu sắc hơn trong khi các ngân hàng
trong nước Việt Nam vẫn còn thiếu kinh nghiệm chưa nắm vững tình hình tài chính của
những đối tác nhập khẩu hàng hoá Việt Nam. Một số NHTM đã bảo lãnh cho doanh
nghiệp mở L/C nhập hàng trả chậm quá ồ ạt, tràn lan, thẩm định hồ sơ qua loa, đại khái.
Thực tế cho thấy, mặt hàng nhập đó thường là các mặt hàng đã qua sử dụng, những mặt
hàng tồn kho khó tiêu thụ ở nước ngoài hoặc những mặt hàng ở trong nước, vì vậy hiệu
quả kinh doanh rất thấp. Thực chất việc mua hàng trả chậm của doanh nghiệp có sự bảo
lãnh của ngân hàng là một hình thức vay vốn, tiền hàng bao gồm cả lãi suất trả chậm
cộng thêm chi phí bảo lãnh của ngân hàng cho nen trong quá trình kinh doanh, tỷ giá
biến động do ảnh hưởng của nền kinh tế do trình độ quản lý kinh doanh yếu kém thậm
chí thua lỗ phá sản... dẫn đến doanh nghiệp không có khả năng thanh toán và ngân hàng
nguon tai.lieu . vn