Xem mẫu

  1. LỜI CẢM ƠN ! Để  hoàn thành báo cáo thực hành công tác xã hội này tôi đã nhận  được sự  hỗ  trợ, hướng dẫn, giảng dạy của các thầy cô, sự  giúp đỡ  của  nhiều cá nhân, tổ chức. Tôi xin trân trọng cảm  ơn Ban Lãnh đạo cùng các phòng chuyên  môn, các cô chú, anh chị ở Uỷ ban nhân dân xã Tân Minh huyện Thanh Sơn  tỉnh Phú Thọ – đơn vị đã tiếp nhận và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi tiếp   cận thực tế với thân chủ trên địa bàn xã. Đặc biệt chị Đinh Thị Kim Linh –  Công chức Văn hóa – Xã hội xã; Chủ tịch Hội Phụ  Nữ xã; cán bộ  phụ  nữ  thôn Dớn, gia đình thân chủ  đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ  và tạo mọi   điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực tế tại địa phương. Tôi cũng xin gửi lời cám ơn chân thành đến Ban giám hiệu Trường  Đại học Khoa Học Thái Nguyên, quý thầy cô khoa Khoa học xã hội và nhân   văn, các thầy cô Bộ  môn Công tác xã hội đã tận tâm giảng dạy và truyền   đạt những kiến thức, kinh nghiệm quý báu cho tôi; tạo điều kiện cho tôi  được đi thực tế  , được rèn luyện trau dồi thêm kiến thức, kỹ  năng, kinh   nghiệm cho bản thân để  trở  thành nhân viên công tác xã hội giỏi trong   tương lai. Tôi xin chân thành cám ơn Ths. Nguyễn Thị Hồng Trâm , người đã  tận tình hướng dẫn và giảng dạy tôi học phần này. Phú Thọ, ngày 15 tháng 11 năm 2020 Sinh viên  Bùi Thị Ngọc Lan 54
  2. MỤC LỤC 22
  3. PHỤ LỤC Phụ lục 1: Biên bản quan sát  Phụ lục 2: Biên bản vấn đàm  Phụ lục 3: Nhật kí thực hành  Phụ lục 4: Bản tự đánh giá quá trình thực hành của sinh viên Phụ lục 5: Đánh giá của cơ sở về quá trình thực hành của sinh viên           54
  4. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Chữ cái viết tắt/ký hiệu Cụm từ viết tắt CTXH Công tác xã hội TC Thân chủ NVXH Nhân viên xã hội SV Sinh viên KHV Kiểm huấn viên  PCCC Phòng cháy chữa cháy Molisa.gov.vn Cổng thông tin điện tử Bộ Lao động  –Thương binh và xã hội XĐGN Xóa đói giảm nghèo TW Trung Ương UBND Ủy ban nhân dân PVS Phỏng vấn sâu XD Xây dựng ĐTT Đài truyền thanh GTTL Giao thông thủy lợi VHTT Văn hóa thể thao CĐ Cộng đồng BCĐ Ban chỉ đạo 44
  5. PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn vấn đề can thiệp Nghèo đói là một trong những vấn đề  lớn của thế  giới ngày nay,  nghèo đói không chỉ là vấn đề của riêng quốc gia nào, mà nó mang tính chất   toàn cầu, bởi nghèo đói làm cản trở sự phát triển của con người và xã hội.  Ở Việt Nam từ trước đến nay xóa đói giảm nghèo là một trong những chủ  trương lớn của Đảng và Nhà nước ta là nhằm cải thiện vật chất, tinh thần   cho người dân.  Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp xóa đói  giảm nghèo nhưng tỷ  lệ  nghèo cả  nước vẫn còn cao đến cuối năm 2019   bình quân khoảng dưới 4% ( giảm 1,3% so với cuối năm 2018), Bình quân  tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn giảm khoảng 3 – 4% so với cuối   năm 2018. Tuy nhiên, tình trạng giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ hộ nghèo  phát sinh còn cao (bằng 17,82% tổng số  hộ  thoát nghèo) chủ  yếu do thiên  tai, tách hộ. Chênh lệch giàu – nghèo, tiếp cận các dịch vụ cơ bản, tiếp cận  thị trường, việc làm giữa các vùng, nhóm dân cư  chưa được thu hẹp, nhất  là khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên ( theo molisa.gov.vn). Một số  chính sách mang tính chất hỗ  trợ  ngắn hạn, thời vụ; trực tiếp, cho không,  mang tính bình quân, cào bằng, thời gian đầu có tác dụng tốt, giải quyết  được một số khó khăn trước mắt cho người dân, tuy nhiên đến nay không   còn phù hợp, nhưng chậm sửa đổi, bổ sung.  Một số Ban chỉ đạo ở địa phương hoạt động chưa hiệu quả, công tác  phố hợp giữa các ngành, các cấp chưa nhịp nhàng, đồng bộ. Đội ngũ cán bộ  cơ  sở  xã, phường, thi trấn, nhất là cán bộ  làm công tác lao động – thương  binh và xã hội, thông tin cơ sở và các hội, đoàn thể không ổn định, thường   xuyên thay đổi đã ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo điều hành trong công tác   giảm nghèo. Khả  năng tiếp cận chính sách hỗ  trợ  của đồng bào dân tộc   thiểu số còn hạn chế do vị trí địa lý, trình độ nhận thức… 5
  6.   Đặc biệt, công tác xóa đói giảm nghèo càng khó khăn hơn khi đối  tượng là những người phụ  nữ  nghèo đơn thân làm chủ  gia đình, họ  không   chỉ là nạn nhân của đói nghèo mà họ còn gánh vác trọng trách nuôi sống cả  gia đình, thiếu thốn tình cảm, mặc cảm, tự ti, ít giao tiếp xã hội và chịu sự  kỳ thị của cộng đồng…. Bởi vậy hạn chế tình trạng nghèo đói là nhiệm vụ  của các cấp, các ngành nói riêng và toàn thể  cộng đồng nói chung. Trong  đó, NVCTXH được coi là những người có trọng trách nặng trong giúp đỡ  họ tự vượt qua những khó khăn trong cuộc sống bằng những kiến thức, kỹ  năng chuyên môn đặc thù. Từ  thực tiễn của vấn đề  trên, cho nên tôi đã chọn đề  tài “ Công tác  xã hội cá nhân với phụ nữ nghèo đơn thân tại hộ chị: Bùi Thị Xim xóm Dớn  xã Tân Minh huyện Thanh Sơn tỉnh Phú Thọ” nhằm làm rõ hơn về  những  tâm tư, nguyện vọng và nguyên nhân nghèo đói của hộ, từ đó có thể  đóng   góp một phần việc vào công cuộc xóa đói giảm nghèo của địa phương. 2. Lịch sử vấn đề can thiệp  Trước thời gian tiếp nhận,  chưa có báo cáo hoặc luận văn nào can  thiệp, hỗ trợ cho TC. TC sống tại xóm Dớn xã Tân Minh huyện Thanh Sơn  tỉnh phú Thọ  được chi hội Phụ  nữ  xóm  Dớn  và chính quyền địa phương  quan tâm đã được tiếp cận với mốt số dịch vụ xã hội cơ bản như thẻ bảo  hiểm y tế, trợ cấp bảo trợ xã hội hàng tháng cho phụ nữ nghèo đơn thân…. Về  hoạt động tình nguyện của các tổ  chức cá nhân: Một số  các câu  lạc bộ tổ chức tình nguyện đã đến thăm, tặng quà gồm: nhu yếu phẩm như  mì tôm, bánh kẹo, đường sữa, quần áo, tiền mặt để hỗ trợ đối tượng trong  sinh hoạt hàng ngày và phát triển kinh tế. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ can thiệp 3.1. Mục tiêu can thiệp Mục tiêu chung:  Giúp TC phát huy năng lực của bản thân, nâng cao   vai trò và khả năng xử lý, giải quyết vấn đề, giúp thân chủ kết nối với các  nguồn lực để vươn lên trong cuộc sống. 6
  7. Mục tiêu cụ thể:  + Thấu hiểu tâm tư, tình cảm của thân chủ + Xác định được vấn đề cần giải quyết + Cung cấp kiến thức, kỹ năng xử lý tình huống cho thân chủ + Thúc đẩy thân chủ tích cực tham gia các hoạt động 3.2. Nhiệm vụ can thiệp Tiến hành mô tả, phân tích và đánh giá thực trạng những mối quan  hệ xã hội nói chung và quan hệ tình cảm của thân chủ để tìm ra những khó  khăn trong cuộc sống của TC. Ngoài ra còn phải tìm hiểu được các vấn đề  khác mà TC đang gặp phải để  trợ giúp họ ổn định tâm lý, vươn lên số phận  thoát nghèo có cuộc sống tốt đẹp hơn. Tìm hiểu, nhìn nhận đánh giá đúng về vai trò của nhân viên công tác xã  hội hỗ trợ giải quyết khó khăn cho TC, tìm ra thế mạnh và tiềm năng của TC  bổ sung thêm các kĩ năng và sẵn sàng ứng phó với vấn đề có thể xảy ra. 4. Đối tượng và phạm vi can thiệp 4.1. Đối tượng can thiệp Công tác xã hội cá nhân với phụ nữ nghèo đơn thân. 4.2. Phạm vi can thiệp Không gian can thiệp: xóm Dớn, xã Tân Minh huyện Thanh Sơn tỉnh  Phú Thọ. Thời gian làm can thiệp: Bắt đầu từ  ngày 24/10/2020 đến hết ngày  15/11/2020. PHẦN II: NỘI DUNG 7
  8. 1. Cơ sở lý luận  1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm công tác xã hội  CTXH là một ngành khoa học, một nghề  chuyên môn vận dụng các   kiến thức và kĩ năng nghề  để  hỗ  trợ  cho các cá nhân, nhóm, gia đình và  cộng đồng có những thay đổi phát triển các chức năng xã hội bằng các hoạt  động.Các hoạt động này tập trung vào các quan hệ  xã hội của họ  để  tạo  nên sự  tương tác giữa con người và môi trường và kết quả  của sự  tương   tác là tăng cường chức năng xã hội cho cá nhân, nhóm, gia đình, cộng đồng,   tạo nên sự phát triển bền vững cho con người. 1.1.2. Khái niệm công tác xã hội cá nhân  Công tác xã hội cá nhân là phương pháp của CTXH thông qua tiến   trình giúp đỡ khoa học và chuyên nghiệp, nhằm hỗ trợ cá nhân tăng cường  năng lực tự giải quyết vấn đề của mình. Trong tiến trình này, nhân viên xã hội cần biết vận dụng nền tảng   kiến thức khoa tâm lý học, xã hội học, và các khoa học xã hội liên quan   khác, đồng thời sử  dụng kỹ  năng, tuân thủ  đạo đức nghề  nghiệp, sát cánh   cùng đối tượng, hỗ trợ họ tự giải quyết của bản thân và có khả năng vượt  qua những vấn đề khác có thể xảy ra trong tương lai.  1.1.3. Khái niệm nghèo, đói nghèo và phụ nữ nghèo ­ Nghèo là tình trạng một bộ  phận dân cư  không được hưởng và   thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã  được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội phong tục  tập quán của địa phương ( theo Hội nghị về chống nghèo ở  khu vực Châu   8
  9. Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ  chức tháng 9/1993 tại Bang kok Thái   Lan đã đưa ra định nghĩa) ­ Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có những điều  kiện về  cuộc sống như  ăn, mặc,  ở, vệ  sinh, y tế, giáo dục, đi lại, quyền  được tham gia vào các quyết định của cộng đồng”. ­ Phụ  nữ  nghèo: theo tổ chức Escap đưa ra tại hội nghị  chống đói  nghèo năm 1993 thì “ phụ  nữ  nghèo là những người chỉ  có điều kiện thỏa  mãn một phần nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức thu nhập   thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện”. 1.1.4. Khái niệm phụ nữ nghèo đơn thân Phụ nữ nghèo đơn thân là đối tượng trong tình trạng ly thân, ly hôn  hoặc là những bà mẹ tự túc (có con nhưng chưa kết hôn), người nuôi con  một mình, đời sống của họ gặp nhiều khó khăn cả về vật chất lẫn tinh  thần. Họ thường bị cản trở trong việc gia nhập thị trường lao động hay tìm  kiếm việc làm vì phải chăm sóc con cái. (Theo tạp chí “Tiếp thị và gia đình”) 1.2. Lý thuyết ứng dụng trong can thiệp  Quá trình tìm hiểu đã vận dụng một số lý thuyết có tác động đến can   thiệp như: 9
  10. 1.2.1. Lý thuyết nhu cầu Tháp nhu cầu cầu của A.Maslow Theo A.Maslow, nhu cầu tự  nhiên của con người được chia thành 5  bậc với nhu cầu cơ  bản nhất từ  thấp  đến cao.Trong thuyết này Maslow  khẳng định để  tồn tại con người cần phải được đáp  ứng các nhu cầu cơ  bản cho sự sống như: ăn, uống, mặc,  ở….rồi sau đó mới đến các nhu cầu  bậc cao hơn: nhu cầu được tôn trọng, phát triển bản thân.   Trong những trường hợp cụ thể khác nhau thì cá nhân cần đạt được  những nhu cầu khác nhau, và nhu cầu ưu tiên đối với các cá nhân là không  giống nhau. Trong nghiên cứu này, lý thuyết nhu cầu được sử  dụng như  một công cụ để tìm hiểu và xác định nhu cầu ưu tiên của người già cô đơn,   không nơi nương tựa được nuôi dưỡng lâu dài tại trung tâm bảo trợ xã hội. 10
  11. 1.2.2. Lý thuyết hệ thống sinh thái  Lý thuyết này khẳng định con người luôn sống trong một môi trường  nhất định (bao gồm môi trường xã hội và môi trương tự nhiên), chịu sự ảnh  hưởng sâu sắc tới môi trường đó. Mỗi người đều phải tham gia vào môi trường sống khác nhau, điều đó  có thể hình thành những khả năng thích nghi riêng để phù hợp mới môi trường  mới hoặc môi trường đó thay đổi để phù hợp với cá nhân có thể tồn tại. Lý thuyết hệ thống sinh thái được sử dụng để tìm hiểu và phân tích  các yếu tố trong môi trường sống của đối tượng được khảo sát, từ  đó phát  hiện những khó khăn và rào cản trong việc đáp  ứng nhu cầu quan hệ  cho  phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con. Tìm hiểu về sự tác động ảnh hưởng của  các mối quan hệ, những hệ quả từ các mối quan hệ trong đời sống có liên   quan   tới   đối   tượng.   Trên   cơ   sở   đó,   giúp   đối   tượng   thích   nghi   với   môi  trường sống tốt hơn hay đề ra một số biện pháp cải thiện môi trường sống  phù hợp hơn cho đối tượng này. 11
  12. Các yếu tố môi trường ảnh hưởng như: ­ Cấp độ  vi mô: là các yếu tố thuộc về bản thân phụ  nữ  nghèo đơn  thân nuôi con: tâm lý, sự mặc cảm, nhận thức... ­ Cấp độ  trung mô: Những mối quan hệ với đối tượng như  bạn bè,   công việc, gia đình… ­ Cấp độ  vĩ mô: là những yếu tố từ cộng đồng, các yếu tố  văn hóa,  quan niệm xã hội, các thiết chế, chính sách xã hội tại nơi đối tượng đang  sinh sống… 1.2.3 Lý thuyết phân tầng của Karl Max và Max Weber Xã hội học hiện đại, kể  cả  xã hội học hiện đại phương Tây nói  chung đều thừa nhận có hai ông tổ  của lý thuyết phân tầng xã hội – đó là  Karl Marx và Max Weber. Bởi lý thuyết của hai ông tổng hợp lại đã cung  cấp cho người ta những nhận thức rất cơ  bản về  tiền  đề  và điều kiện  ( hay những nhân tố về kinh tế, chính trị, văn hóa) dẫn đến sự phân chia xã   hội thành các giai cấp và tầng lớp khác nhau. a. Lý thuyết phân tầng xã hội của Karl Marx (1818 – 1883) Karl Marx là nhà triết học và kinh tế  học Đức, nhà lý luận của phong trào  công nhân thế giới, nhà sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa   cộng sản khoa học. Theo tập thể các tác giả cuốn Nhập môn xã hội học (Tony Bilton và cộng   sự) – một cuốn sách giáo khoa tốt nhất, tổng hợp nhất và có giá trị nổi bật,  thì “ Marx đã cung cấp cho xã hội học và chính trị  học hiện đại một trong   những tiếp cận lý thuyết phân tầng bao quát mạnh mẽ  nhất. Cũng lúc đó,  cách giải thích về  xã hội của ông là một cách giải thích bị  tranh luận gay   gắt nhất trong mọi học thuyết xã hội, bởi vì nó không chỉ  là lý thuyết xã  12
  13. hội học, mà cũng là một triết lí về  con người và một cương lĩnh cho sự  thay đổi cách mạng trong xã hội… Các nhà xã hội học khác nhau đã chấp  nhận những quan điểm khác nhau đó,  những người khác thì  ở  lưng chừng, nhưng điều chắc chắn là bất cứ  lý  thuyết   phân   tầng   nào   đều   vay   mượn   của   Marx   cách   lý   giải   về   giai  cấp….Với Marx mối quan hệ  giai cấp là chìa khóa mọi mặt của xã hội”   {43,56}. Marx cho rằng sản xuất của cải vật chất là hoạt động trước tiên  của con người và nó phải đến trước mọi hoạt động khác. Chừng nào mà xã  hội có thể  sản xuất nhiều hơn nhu cầu tối thiểu để  sinh sống thì giai cấp   mới có thể xuất hiện. Bất cứ xã hội có giai cấp nào đều xây dựng trên mối  quan hệ giữa những người bóc lột – kẻ bị bóc lột. Lịch sử  xã hội “ văn minh” theo Marx là lịch sử  của những hình   thức khác nhau về sự bóc lột và thống trị giai cấp. Theo ông: “ Mọi xã hội   đều bao hàm sự bóc lột giai cấp trên cơ sở những quan hệ sản xuất, chính   cái này mà Marx gọi là phương thức sản xuất. Chìa khóa để  tìm hiểu một  xã hội nhất định là khám phá ra trong đó phương thức sản xuất nào chiếm  ưu thế. Tiếp đó chúng ta biết được mô hình cơ  bản của những mối quan   hệ xã hội và chính trị và có thể đánh ra xung đột và những tiềm năng thay  đổi nào đã được gắn bó với xã hội” {43,57}. Thật ra, Marx không đưa ra một chỉ dẫn riêng về  các nhân tố  dẫn   đến phân tầng xã hội, nhưng qua tác phẩm tiêu biểu của ông – từ Bản thảo   kinh tế  ­ triết học 1844 đến Tuyên ngôn Cộng sản, từ  phê phán khoa học  chính trị kinh tế đến bộ Tư bản đồ sộ, ta có thể thấy trong quan niệm của   Marx, sự  phân chia cốt yếu giữa các giai cấp trong một xã hội nhất định  đều bắt nguồn từ quyền sở hữu tài sản đối với các phương tiện sản xuất. 13
  14. Trong xã hội phong kiến, lãnh chúa có quyền thu lấy toàn bộ  tài  sản thặng dư  do nông dân sản xuất ra trên mảnh đất thuộc quyền sở  hữu  của lãnh chúa. Trong xã hội tư bản, nhà tư bản có quyền chỉ  huy lao động  và chiếm hữu phần thặng dư do công nhân tạo ra. Theo Marx, nhà tư  bản   có quyền đó “ Không phải nhờ những phẩm chất cá nhân hay những phẩm   chất con người của hắn,  mà chỉ có được với tư cách là người sở hữu tư bản [14,89]. Như vậy, nêu bật nhân tố hàng đầu của phân tầng xã hội là quyền  sở  hữu tài sản Marx (và cả  F. Engel) còn lưu ý đến yếu tố  phân công lao   động xã hội mà bản thân nhân tố  này lại có mối quan hệ tác động qua lại  với lực lượng sản xuất xã hội và do đó với quyền sở hữu tài sản. Điều đó giải thích tại sao trong khi phân tích hai giai cấp chủ yếu   trong xã hội là tư sản, vô sản vào thời đại của mình, ông không hề bỏ qua  các giai tầng xã hội khác như: giai cấp nông dân, giai cấp địa chủ, những  người sản xuất nhỏ, tầng lớp tăng lữ, tầng lớp trí thức xuất thân từ các giai  cấp khác nhau; tầng lớp công nhân “ quý tộc”, tầng lớp vô sản “lưu manh”   trong bản thân giai cấp công nhân…[ 43,108]. b. Lý thuyết phân tầng xã hội của Marx Weber (1864 – 1992) Marx Weber là nhà kinh tế học, nhà sử học đặc biệt ông còn được  tôn vinh là một nhà xã hội học bách khoa toàn thư. Marx Weber cũng là một người Đức nhưng thuộc thế hệ hậu sinh   của Marx, ông đã đưa ra lý thuyết phân tầng của mình, trong đó vừa có  điểm “ vay mượn” của Marx vừa có điểm phát triển thêm. Ý kiến của Weber khác với Marx theo nhiều cách. Ông bác bỏ mục  đích và chính sách của các nhà xã hội chủ nghĩa Đức vì coi chủ nghĩa cộng  14
  15. sản là một Utopia không thể đạt tới. Bao quát hơn, ông bác bỏ  ý kiến cho  rằng các nhà xã hội học có thể khái quát hóa các cấu trúc xã hội bằng cách  sử dụng sự phân tích các phương thức sản xuất. Với Weber, mỗi xã hội về  mặt lịch sử đều độc nhất và phức tạp. Mặc dù không tán thành mục tiêu chính trị của Marx, hơn nữa ông  còn phê phán, bác bỏ quan niệm của Marx cho rằng những quan hệ kinh tế  luôn luôn là yếu tố  giải thích cấu trúc xã hội và động lực đầu tiên của sự  thay đổi xã hội. Ông tin rằng những tư  tưởng tôn giáo có một  ảnh hưởng   độc về mặt lịch  sử  và rằng lĩnh vực chính trị  thường là lực lượng kiểm soát cốt yếu trong   những thay đổi xã hội song khi bàn đến cơ  cấu xã hội dưới chủ  nghĩa tư  bản, Weber cũng phải thừa nhận rằng chính những quan hệ kinh tế đã tạo   nên cơ sở của sự  bất bình đẳng, tức là tạo điều kiện và điều kiện cho sự  phân chia xã hội thành các giai cấp khác nhau. Chỉ  có điều “ Weber nhấn   mạnh tầm quan trọng của thị trường như là cơ sở kinh tế cho giai cấp hơn  là tài sản. Với ông nguyên nhân đầu tiên của bất bình đẳng trong chủ nghĩa  tư  bản là khả  năng thị  trường – đấy là những kỹ  năng mà người làm thuê   mang ra thị trường lao động. Những khác biệt trong phần thưởng giữa các  nghề nghiệp kết quả từ kỹ năng hiếm hoi mà nhóm nghề nghiệp cần giữ.   Nếu kỹ  năng được quá cầu thì tiền thưởng sẽ  cao” [43,65]. Và người có  điều kiện để thuê những kỹ năng ấy không ai khác ngoài những người nắm   giữ, sở hữu tài sản trong tay. Weber còn đưa ra khái niệm “ cơ  may đời sống”, thuật ngữ  này  dùng để chỉ tất cả các phần thưởng và lợi thế  nào do khả  năng thị  trường  đem đến. Những cơ may đời sống bao gồm thu nhập, bảo hiểm, phụ cấp, 15
  16. … Bởi vậy, chúng ta có thể phân biệt những nhóm có khả năng thị trường  tương tự và những nhóm này có thể gọi là giai cấp. Như  vậy, chúng ta có thể  thấy rằng Weber đồng ý với Marx là  những nét  kinh tế  cốt  yếu  của  chủ  nghĩa  tư  bản là quyền sở  hữu các  phương tiện sản xuất và những thị  trường cho hàng hóa và lao động. Sự  khác biệt cốt yếu là Marx nhấn mạnh yếu tố  kinh tế  còn Weber nhấn   mạnh yếu tố phi kinh tế.  Nếu có những điểm mới trong lý thuyết phân tầng của Weber thì  những điểm đó được thể hiện chủ yếu trong tiểu luận “ Giai cấp, địa vị và  đảng”. Ở tác phẩm này, Weber cho rằng sự  bất bình đẳng trong xã hội có  thể không dựa trên cơ sở những mối quan hệ kinh tế, nhưng lại dựa trên uy  tín hay quyền lực chính trị  được huy động thông qua một đảng. Ngoài ra  theo Weber, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, giai cấp lao động   có thể phân chia thành từng tầng lớp: có kỹ năng, bán kỹ năng và không có  kỹ năng, mà các kỹ năng này thực chất là trình độ học vấn và tay nghề ­ lại  đưa đến sự  khác biệt về  cơ  may đời sống thể  hiện  ở  mức thu nhập, phụ  cấp, tiền thưởng… Tuy nhiên, khi đánh giá học thuyết của Weber thì có một vấn đề  trong sự giải thích của ông: không thể có tiêu chuẩn để phân chia lực lượng   – lao động thành giai cấp và phân tầng. Nói một cách khác, sự phân tích của  Weber về  khả  năng thị  trường sẽ  đặt mỗi cá nhân vào một giai cấp riêng   rẽ. Một cách quan trọng hơn, những tiếp cận của Weber có xu hướng tập  trung vào công việc, coi nhẹ của cải như một yếu tố cốt yếu trong cấu trúc  giai cấp. 16
  17. Từ  các lý thuyết phân tầng của Marx và Weber, xã hội học hiện  đại đã rút ra ba nhân tố cơ bản dẫn đến sự  phân chia xã hội thành các giai  cấp và tầng lớp là: sở hữu tài sản, trí tuệ; quyền lực. Như vậy, cả Marx và Weber đều coi xã hội phương Tây là xã hội  tư  bản và cả  hai đều thống nhất là những nét phân biệt cốt yếu của điều   đó là sự sở hữu tư nhân về các tài sản sản xuất và một thị trường lao động.  Chính vì lẽ đó mà tập thể tác giả cuốn nhập môn xã hội học đã đưa ra kết   luận rằng những tư  tưởng của Marx và Weber có thể  phối hợp một phần  để  tạo nên mô hình ba giai cấp chính trong xã hội tư  bản hiện đại. Tầng  lớp trên ít ỏi gồm những ai nắm được tư liệu sản xuất. Giai cấp này trùng  với giai cấp tư sản của Marx. Tuy nhiên, những người không sở hữu các tài  sản sản xuất không thể  được mô tả  tất thảy như  là vô sản. Người nghèo  theo lý thuyết phân tầng không chỉ  bị  rơi xuống tầng đáy của thang bậc  phân tầng xã hội mà gần như   ở  ngoài lề  của hệ  thống thứ  bậc đó. Lớp   nghèo bị coi là giai cấp dưới trong hệ thống phân tầng, có địa vị xã hội thấp  kém, không có quyền lực, uy tín, không sở  hữu của cải và  ở  bên lề  thị  trường lao động.  Trong phạm vi nghiên cứu này sẽ  vận dụng lý thuyết phân tầng   của K.Marx và M.Weber về quyền sở hữu tài sản, phân công lao động, khả  năng  thị trường lao động, cơ  may đời sống, uy tín xã hội…để  phân tích và thấy  rõ những đặc trưng của người nghèo từ đó đưa ra các giải pháp tích cực để  xây dựng mô hình giảm nghèo hiệu quả, nhanh chóng, rút ngắn ranh giới   của sự  giàu – nghèo trong xã hội, hạn chế  sự  bất bình đẳng trong xã hội  bởi mỗi người trong xã hội đều có những vai trò, những vị thế nhất định. 1.3. Cơ sở pháp lý 17
  18. 1.3.1. Những chủ  trương, chính sách và Quy định của  Đảng và Nhà   nước về xóa đói giảm nghèo Ngay từ khi nước ta mới dành được độc lập năm 1945, Chủ  tịch Hồ  Chí Minh đã dành sự  quan tâm sâu sắc đến việc chăm lo đời sống cho   những người lao động nghèo khổ. Người coi đói nghèo là một thứ  “ giặc”  và đặt nó lên hàng đầu. Người kêu gọi Chính phủ  và toàn dân chống lại  giặc đói với lý do: “ chúng ta dành được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết  đói, chết rét thì độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do,   của độc lập khi dân được ăn no mặc đủ…”. Tư tưởng của Hồ Chí Minh là   sợi chỉ  đỏ  xuyên suốt trong các chủ  trương, chính sách của Đảng và Nhà  nước ta về XĐGN nhất là trong thời kỳ mới. Trong nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng: “Vấn đề lương thực   phải được giải quyết một cách căn bản”. Đây là chủ trương quan trọng liên  quan đến an ninh lương thực và tấn công vào đói nghèo “ về  lương thực   thực phẩm” khá nổi tiếng ở nước ta trong những năm đầu đổi mới. Nghị  quyết Đại hội lần thứ  VII của Đảng chỉ  rõ: “ Đảm bảo vững   chắc nhu cầu lương thực, khắc phục tình trạng thiếu đói thường xuyên và  nạn đói giáp hạt  ở  một số  vùng”. Tức là tập trung vào giải quyết cơ  bản  đói nghèo tuyệt đối và đói nghèo “ về lương thực thực phẩm”. Nghị  quyết Đại hội VIII của Đảng đã xác định rõ đói nghèo là một   trong những chương trình phát triển kinh tế xã hội vừa cấp bách trước mắt   vừa cơ bản lâu dài và nhấn mạnh “ phải thực hiện tốt chương trình XĐGN  nhất là đối với vùng căn cứ  cách mạng, vùng đồng bào dân tộc. Xây dựng  và   phát   triển   quỹ   XĐGN   bằng   nhiều   nguồn   vốn   trong   nước   và   nước  ngoài…” đồng thời lần đầu tiên đưa ra chỉ tiêu XĐGN đến năm 2000 và các  năm tới: “ Giảm tỷ  lệ  nghèo đói xuống còn khoảng 10% đến năm 2000,  bình quân giảm 300.000 hộ/năm. Trong 2 – 3 năm đầu của kế hoạch 5 năm,  tập trung xóa cơ bản hộ đói kinh niên”. Đại hội IX của Đảng đã nhận thức sâu sắc về  XĐGN, đặt XĐGN  trong chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội thời kỳ 2001 – 2010 nhấn mạnh   làm tốt công tác XĐGN sẽ  góp phần tăng trưởng kinh tế, thực hiện công  bằng xã hội, góp phần ổn định từng bước phát triển đất nước và hội nhập   18
  19. quốc tế  trong xu thế  toàn cầu hóa. Như  vậy, đến Đại hội này, Đảng và  Nhà nước đã chủ  trương XĐGN một cách bền vững và gắn liền với phát  triển. Mục tiêu chiến lược XĐGN thời kỳ 2001 – 2010 mà Đại hội IX đề ra  là: “ Cơ bản xóa đói, giảm nghèo số  hộ  nghèo, cơ  bản phấn đấu đến năm  2010 về  cơ  bản không còn hộ  nghèo. Thường xuyên củng cố  thành quả  XĐGN”. Đại hội lần thứ X của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Tập trung đầu tư  xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và trợ cấp về điều kiện sản xuất,  nâng cao kiến thức để  người nghèo, hộ  nghèo, vùng nghèo tự  vươn lên  thoát nghèo và cải thiện mức sống một cách bền vững; kết hợp chính sách  nhà nước với sự  giúp đỡ  trực tiếp và có hiệu quả  của toàn xã hội, của  những người khá giả cho người nghèo, hộ  nghèo nhất là đối với vùng đặc  biệt khó khăn. Ngăn chặn tình trạng tái nghèo”. Đại hội lần thứ  XI của Đảng đã đề  ra định hướng cơ  bản: “ Nâng   cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tạo cơ hội bình đẳng  tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ  các dịch vụ  cơ  bản, các  phúc lợi xã hội. Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp  với từng thời kỳ; đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức bảo đảm   giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc  biệt khó khăn. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số  hộ  có  thu nhập trung bình khá trở  lên. Có chính sách và các giải pháp phù hợp  nhằm hạn chế  phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch về  mức sống giữa  nông thôn với đô thị” Đại hội lần thứ XII (2016) của Đảng, đã tiếp tục nhấn mạnh: “ Đổi  mới chính sách giảm nghèo theo hướng tập trung, hiệu quả  và tiếp cận  phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhằm bảo đảm an sinh xã hội cơ  bản và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản”. Như vậy, có thể nói rằng chủ trương quan điểm của nhà nước ta về  XĐGN thể hiện rất rõ quan điểm có ý nghĩa chiến lược, xuyên suốt và nhất  quán của Đảng ta là tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến độ  và  công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển nhằm hướng tới phát  triển bền vững, góp phần thực hiện mục tiêu: “ Dân giàu, nước mạnh, xã  hội công bằng, dân chủ và văn minh”. 19
  20. 1.3.2. Luật pháp và chính sách của Nhà nước 1.3.2.1. Luật pháp liên quan đến xóa đói giảm nghèo Quan điểm trên của Đảng và Bác Hồ được thể hiện trong Hiến pháp  năm 2013, khoản 1, Điều 14 quy định: “Ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa  Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh  tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến  pháp và pháp luật”. Trên tinh thần đó, Nhà nước đã và đang triển khai hàng  loạt chương trình phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh,   công bằng xã hội trên cả nước, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa,  vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo.Trọng tâm là  phát triển hạ  tầng và dịch vụ  thiết yếu, thúc đẩy sản xuất, nâng cao thu   nhập cho các huyện nghèo, hộ nghèo, người nghèo. Sự vào cuộc của cả hệ  thống chính trị với tinh thần “ vì người nghèo” mang đậm chất nhân văn đã  lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội bằng những nội dung, hình thức thiết  thực. 1.3.2.2. Chính sách của Nhà nước Việt Nam về xóa đói giảm nghèo ­ Quyết định 275/QĐ – TTg năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ phê   duyệt Danh sách các huyện nghèo và huyện thoát nghèo giai đoạn 2018 ­  2020 ­   Quyết   định   số   1722/QĐ   –   TTg   của   Thủ   tướng   Chính   phủ:   Phê   duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn  2016 – 2020 ­ Quyết định số  59/2015/QĐ – TTg của Thủ  tướng Chính phủ  về  việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 –  2020 20
nguon tai.lieu . vn