Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN: THÔNG TIN KHOA HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thứ nhất: Xem xét dưới góc độ lý luận TTKH, cần tìm ra cách thức tối ưu để gắn TTKH với sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời đại ngày nay, khái niệm "thông tin" đã mang tính phổ biến có ý nghĩa toàn cầu, toàn nhân loại, phổ cập trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các thuật ngữ: "thời đại thông tin", "xã hội thông tin", "ưu thế thông tin" v.v... đang được lưu truyền rộng rãi, thậm chí có một số nhà lý luận còn cho rằng có cả "nền kinh tế thông tin". Thực vậy, ở Tây Âu, trong những năm gần đây, ngành công nghệ thông tin phát triển với tốc độ nhanh gấp 2 - 3 lần các ngành khác. Ngay từ năm 1993, khối lượng giá trị được tạo ra từ thông tin (bao gồm công nghệ thông tin và cả hoạt động dịch vụ mang tính thông tin) đã bằng khoảng 50% giá trị sản xuất công nghiệp của Tây Âu. Hiện nay, ở Mỹ người ta ước tính giá trị khu vực thông tin chiếm khoảng 60 - 70% GDP. Còn trên phạm vi toàn cầu, năm 2005, tốc độ tăng trưởng của thị trường công nghệ thông tin đạt 7,1%, cao gấp hơn 2 lần tăng trưởng bình quân GDP của toàn thế giới 1). Dưới góc độ lý luận, thông tin đã được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu nhưng chủ yếu là nghiên cứu về bản chất thông tin, vai trò của thông tin, vai trò xã hội của thông tin, còn đi sâu vào lĩnh vực hẹp là TTKH (TTKH) thì chưa được đề cập thỏa đáng, có thể nói là rất ít, chỉ thoáng qua. Đặc biệt là vai trò chức năng của TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, tác động của TTKH đối với với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam chưa được nghiên cứu thấu đáo. Do vậy, khía cạnh lý luận về vận dụng TTKH vào lĩnh vực kinh tế - xã hội cần được nghiên cứu tiếp. Ngày nay, TTKH là một hoạt động quan trọng không thể thiếu không chỉ đối với lĩnh vực nghiên cứu khoa học và giáo dục - đào tạo, mà cũng rất cấp thiết đối với hoạt động thực tiễn kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa v.v.. Thí dụ, xử lý dữ liệu về biến động thị trường thế giới: như giá vàng, các ngoại tệ mạnh, về giá dầu thế giới hiện nay 1) Xem:Báo cáo toàn cảnh Công nghệ thông tin Việt Nam năm 2006, Hội tin học Thành phố Hồ Chí Minh, tr.2.
  3. v.v... đòi hỏi một sự phân tích tổng hợp về kinh tế chính trị, về kinh tế - kỹ thuật, về chính trị và xã hội thế giới, phải phân tích các dữ liệu có căn cứ khoa học, để có chính sách ứng phó quốc gia. Nếu nối mạng được toàn bộ các dữ liệu thông tin về tài chính, ngân hàng, đầu tư, xuất - nhập khẩu, công nghiệp - nông nghiệp, cũng như có đầy đủ thông tin về kinh tế đối ngoại, về chính trị thế giới, về các điều kiện tự nhiên và xã hội khác v.v... thì chúng ta sẽ có các biện pháp phát triển kinh tế nói chung, cũng như góp phần đối phó với khó khăn kép của nền kinh tế nước ta như vừa lạm phát cao lại vừa tăng trưởng chậm và hiệu quả kém. Có TTKH từ sự nghiên cứu của các cơ quan nghiên cứu trong nước cũng như nghiên cứu quốc tế, nắm bắt và xử lý kịp thời các thông số kinh tế - xã hội, xử lý linh hoạt các biện pháp điều chỉnh về đầu tư, xuất - nhập khẩu, về lãi suất tín dụng ngân hàng, về tài chính và ngân sách v.v... chúng ta sẽ kìm hãm được lạm phát cao hiện nay và có khả năng kéo lạm phát xuống mức một con số, để rồi kéo về mức lạm phát tối ưu. Nói chung, nếu nắm được những TTKH, những dữ liệu có tính chính xác, được xử lý một cách khoa học, đảm bảo độ tin cậy thì chúng ta sẽ giải quyết được các vấn đề, trong đó vấn đề trung tâm là kinh tế - xã hội một cách hiệu quả. TTKH là nhân tố không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hơn thế còn là tăng trưởng có hiệu quả, nâng cao chất lượng tăng trưởng, gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội một cách tối ưu. TTKH là phạm trù riêng trong tập hợp chung của hai phạm trù lớn là thông tin và khoa học. Nó vừa nằm ở lĩnh vực thông tin, lại đồng thời nằm ở lĩnh vực khoa học, vừa mang nội dung thông tin, vừa mang bản chất khoa học. Còn nhiều khía cạnh TTKH cần được đi sâu nghiên cứu về phương diện lý luận, chẳng hạn như: phân biệt thông tin với tri thức, phân biệt thông tin với truyền thông và tuyên truyền, phân biệt thông tin nói chung với TTKH; xác định những dấu hiệu riêng của phạm trù TTKH; nghiên cứu vị trí TTKH trong hoạt động nghiên cứu khoa học và với đời sống chính trị, kinh tế và xã hội; nghiên cứu chức năng đặc thù của TTKH và quan hệ giữa các chức năng đó với kinh tế - xã hội nước ta, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, với thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay. Việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực thông tin (tri thức) để phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội nước ta
  4. trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu rất cấp bách. Đó cũng chính là yêu cầu đối với TTKH - thu nhận được nhiều thông tin (tri thức), xác định rõ các đối tượng thông tin, đồng thời quản lý được thông tin để đáp ứng các nhu cầu về TTKH khác nhau, mà trọng tâm là phát tỉển kinh tế - xã hội. Phạm trù TTKH là sự thống nhất biện chứng của hai ph ương diện: thông tin và khoa học, cùng nằm trong một chu trình vận động của tri thức. TTKH chính là sự truyền bá khoa học, là thông qua những công cụ nhất định (các công cụ và phương pháp truyền tin) để phổ cập tri thức, đưa tri thức vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội (khoa học, kinh tế, chính trị, văn hóa, nghệ thuật, quân sự v.v...). Nếu chúng ta coi toàn bộ hoạt động khoa học (xét về bản chất, nội dung của hoạt động khoa học) gồm hai khâu cơ bản: 1) Sản xuất (nghiên cứu), sáng tạo tri thức (khoa học); 2) Đưa tri thức vào sử dụng, phục vụ cho các đối tượng sử dụng, là khâu lưu thông và tiêu dùng tri thức. TTKH vì thế có vai trò, chức năng riêng đối với khoa học và đối với đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. TTKH là bộ phận không thể thiếu, bộ phận cơ bản vừa độc lập tương đối với nghiên cứu khoa học, đồng thời lại nằm ngay trong tiến trình nghiên cứu: thông tin dữ liệu để chuẩn bị cho ý tưởng. Có thể nói rằng, TTKH chính là xử lý một cách khoa học về nội dung các thông tin, tức là xác định, thẩm định giá trị tin và tổ chức sử dụng các giá trị tin. Vì thế TTKH khác với thông tin nói chung và các hình thức cụ thể khác của thông tin, TTKH là việc tìm ra bản chất của tin và đưa ra hệ thống tin phản ánh được bản chất của sự vật, hiện tượng chính trị, kinh tế, xã hội v.v... phục vụ cho các đối tượng với những nhu cầu tương ứng. Trong muôn vàn biểu hiện các thông tin khác nhau thì giá trị nội dung đích thực chỉ có một. Vì thế phải xác định tin nào đúng, tin nào sai, cần có cách xử lý để đi đến kết luận tính chân lý. TTKH chính là xử lý, thẩm định nội dung (giá trị tin), hệ thống các nội dung thông tin để giúp cho người nắm thông tin có điều kiện tìm ra tính chân lý hoặc chí ít cũng tiến gần nhất đến chân lý. Đối tượng nghiên cứu của TTKH cũng là một khía cạnh mới, là nghiên cứu về nội dung, bản chất của tin. Trong đời sống có rất nhiều tin, xác định tính chính xác của thông tin, mức độ khoa học của tin, xác định ý nghĩa xã hội của tin và phương pháp sử dụng thông tin cụ thể v.v... Đó cũng là đối tượng nghiên cứu của TTKH. Trong trường
  5. hợp này TTKH lại như là một phân ngành khoa học hẹp. Đây là một ‘‘khoảng trống” còn chưa được nghiên cứu thấu đáo. Mục tiêu cao nhất của TTKH là đưa tri thức, góp phần đắc lực để tri thức được ứng dụng vào đời sống một cách có hiệu quả, mà trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế - xã hội. Tri thức là một nguồn lực, một nguồn vốn vô cùng to lớn mà chi phí để sử dụng nó nói chung là không lớn (không tương xứng với chi phí tạo ra tri thức), nhiều trường hợp nhờ TTKH mà sử dụng tri thức không phải chi trả, nó chỉ phụ thuộc vào khả năng nắm nguồn lực tri thức. Một trong các yếu tố để nắm nguồn lực đó là TTKH. Hiện nay sử dụng TTKH phục vụ cho đời sống, trước hết phục vụ cho phát triển kinh tế, đang là một vấn đề cấp thiết. Vì vậy đề tài này hy vọng góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn, trong việc sử dụng TTKH phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta hiện nay. TTKH cũng là khái niệm bao gồm hai nghĩa cơ bản, khi xét về phương diện vận hành: - Hoạt động xử lý tri thức, khía cạnh nội dung khoa học của thông tin. - TTKH là hình thức xử lý nội dung thông tin một cách có tổ chức, có quy chế hoạt động theo hệ thống, là lĩnh vực thông tin trong hoạt động khoa học, gắn với nghiên cứu khoa học và phục vụ xã hội về lưu thông và cung ứng tri thức. Tuy nhiên, trong thực tế, chủ yếu người ta mới chỉ đề cập đến thông tin nói chung, chưa chú ý phân biệt thông tin với TTKH. Thậm chí, chỉ coi thông tin, TTKH như là một hoạt động bên ngoài, có quan hệ chứ không phải có cấu tạo hữu cơ về nội dung trong hoạt động khoa học, nằm trong hệ thống khoa học. Hơn thế, thông tin trong hoạt động kinh tế và xã hội được sử dụng ở cấp độ "tin tức", "thông báo", còn TTKH nghĩa là thông tin ở cấp độ lý tính, quy luật, bản chất của thông tin thì chưa được chú ý đến mức cần thiết phải có. Thứ hai: Xem xét sự cần thiết nghiên cứu đề tài dưới góc độ sử dụng TTKH phục vụ cho sự phát triển kinh - xã hội nước ta hiện nay (nói cách khác là xem xét nhu cầu về TTKH trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội). Theo tinh thần nghị quyết Đại hội X của Đảng, chúng ta phải nỗ lực phấn đấu để
  6. đến năm 2020, về cơ bản, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải sử dụng nhiều biện pháp, trong đó khoa học là một nhân tố quan trọng hàng đầu, phải đi trước nhiều bước. TTKH cũng là một nhân tố trong hệ thống khoa học. Nó là nhân tố tri thức, một nguồn lực để phục vụ cho quá trình đẩy nhanh sự phát triển này và đặc biệt là để phát triển hài hòa, đảm bảo cân đối giữa các mặt: kinh tế với xã hội, kinh tế với an toàn sinh thái, vật chất với tinh thần, hiện tại với tương lai. Ngay cả trong thời điểm hiện nay đang có mâu thuẫn căng thẳng giữa tăng trưởng với khó khăn về tài chính - ngân hàng và đời sống của đa số người dân bị giảm sút, đặc biệt là người có thu nhập thấp, người nghèo gặp khó khăn. Những thành tựu của đổi mới đang bị đe dọa do hạn chế của chất lượng tăng trưởng. Trước tình hình đó, TTKH phải góp phần tích cực và có hiệu quả thiết thực để đáp ứng đòi hỏi cấp bách của cuộc sống. Hiện nay, nhu cầu xã hội về TTKH là rất lớn, TTKH đang phải trả lời, phải tham gia giải quyết nhiều vấn đề do thực tiễn kinh tế - xã hội đất nước đặt ra, ví dụ: - Làm thế nào để có thông tin với chất lượng, hàm lượng tri thức khoa học cao cho sự phát triển, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển với tốc độ và hiệu quả kinh tế cao, vừa thỏa mãn được nhu cầu xã hội (với những qui chế, hạn định nào đấy), hay nói cách khác là kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội, đáp ứng phát triển toàn diện hài hòa, có hiệu quả các nguồn lực. - TTKH góp phần cung cấp những tri thức khoa học cho việc giải quyết hài hòa giữa kinh tế và chính trị, giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN với xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. - TTKH phải cung cấp tri thức khoa học cho đổi mới và phát triển kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa. - TTKH phải cung cấp những luận cứ lý luận và thực tiễn cho việc phát triển kinh tế với tốc độ cao nhưng đồng thời phải thu hẹp dần khoảng cách về thu nhập và đặc biệt là nâng cao nhanh hơn mức sống cho các nhóm, bộ phận dân cư có thu nhập thấp, chú trọng xóa đói và giảm nghèo, cải thiện nhiều hơn mức sống cho người nghèo và tầng lớp dân cư yếu thế, phát triển kinh tế với giải quyết các nhu cầu xã hội của cộng đồng.
  7. - TTKH phải cung cấp cứ liệu để phát triển bền vững về xã hội, về sinh thái, tiết kiệm tài nguyên. - TTKH phải cung cấp cứ liệu để phát triển kinh tế có hiệu quả, đồng thời tạo cơ sở thúc đẩy phát triển nền văn hóa Việt Nam XHCN, dân tộc, đại chúng và tiên tiến, phát triển kinh tế đi đôi với xây dựng con người Việt Nam, xây dựng một nền kinh tế giàu tính văn hóa và nhân văn Việt Nam v.v... - TTKH phải đáp ứng được nhu cầu tri thức cho lãnh đạo - quản lý về phát triển, về tư duy kinh tế - xã hội cũng như phổ cập tri thức cho người dân, để người dân hình thành tư duy kinh tế - xã hội hợp lý, lành mạnh nhất. - TTKH phải tạo được dữ liệu để dự báo chính xác xu thế của kinh tế thế giới, đặc biệt là phương diện xã hội của sự phát triển này v.v... Như vậy, xem xét từ góc độ TTKH phục vụ cho hoạt động kinh tế - xã hội hiện nay, với nền kinh tế nước ta đã đến lúc phải chú trọng nhiều hơn đến khía cạnh đồng bộ, hài hòa của sự tăng trưởng và hội nhập sâu hơn với kinh tế thế giới, việc nghiên cứu để gắn kết đề TTKH đối với phát triển kinh tế - xã hội là cần thiết, vì TTKH là phương tiện của sự phát triển và ngược lại, sự phát triển kinh tế - xã hội luôn có nhu cầu nhiều hơn, cao hơn về TTKH: - Nhu cầu tri thức khoa học, nhu cầu trí tuệ của sự phát triển ngày càng lớn, vừa mang tính cơ bản, vừa mang tính cấp bách trước mắt. Để đảm bảo cho đất nước phát triển đúng quỹ đạo XHCN, cần có đường lối đúng, chính sách khoa học và biện pháp hợp lý, linh hoạt. Nhu cầu TTKH trở nên cấp bách, nó đảm bảo cho việc cung cấp tri thức để đề ra đường lối, chính sách có tính khoa học hơn, chính xác hơn. - Nhu cầu cập nhật để hiện đại hóa: nền kinh tế thế giới đang chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, kinh tế thông tin. Vì vậy, TTKH như là một phương tiện, phương thức hữu hiệu để thúc đẩy tiến trình đó. Việt Nam chỉ mới ở giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, vừa phải đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, lại đồng thời kết hợp với hiện đại hóa (ở qui mô, trình độ và lĩnh vực nào có thể) nền kinh tế và xã hội, vì vậy càng phải cập nhật tốt nhất kiến thức trên các lĩnh vực: khoa học, kỹ thuật - công nghệ, kinh tế, chính trị, văn hóa và cả tư tưởng phát triển, cũng như cả các lĩnh
  8. vực tinh thần khác v.v... để phục vụ có hiệu quả cho tiến trình phát triển của đất nước. Ở đây, TTKH được xem như một phương tiện, một yếu tố tiên phong trực tiếp của lực lượng sản xuất. - Nhu cầu TTKH về các vấn đề xã hội gắn với sự phát triển kinh tế còn ít được quan tâm giải quyết thỏa đáng. Thí dụ: xử lý thông tin về tính chính trị, tính nhân văn - văn hóa - dân trí- tâm lý - đạo đức của sự phát triển kinh tế, về quản lý nội bộ của các công ty trên thế giới, chống tội phạm và tham nhũng ở các công ty cổ phần và công ty tư nhân (thường chúng ta chỉ hay nhấn mạnh ở khu vực nhà nước), nội dung của xã hội dân sự và sự phát triển của nó ở Phương Tây, ở Phương Đông cũng như ở Việt Nam hiện nay, vấn đề bảo hiểm xã hội và an sinh cho các đối tượng và trường hợp khác nhau, thông tin về các vấn đề xã hội mang tính chính trị như an ninh xã hội, dân chủ trong đời sống của thời mở cửa và hội nhập với thế giới bên ngoài v.v.., đều cần có những phân tích, xử lý khoa học về phương pháp và nội dung. - Nhu cầu TTKH về an ninh kinh tế ngày càng cấp thiết, sự hòa quyện an ninh kinh tế với an ninh xã hội ngày càng tăng lên. - Nhu cầu TTKH về khía cạnh kinh tế của các lĩnh vực văn hóa tinh thần, khoa học, nghệ thuật, thể thao, chính trị - xã hội và ngược lại, cần có TTKH về khía cạnh văn hóa (xã hội) trong kinh tế. - Nhu cầu đánh giá thực trạng sử dụng TTKH, vai trò chức năng của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Công tác này hiện còn nhiều bất cập và hạn chế cần được khắc phục. Nguồn lực TTKH chưa thực sự được phát huy. Đây cũng là một phương diện lý luận và thực tiễn có tính liên ngành: thông tin, khoa học, kinh tế và xã hội cần được nghiên cứu. Trên các phương diện lý luận và thực tiễn phát triển của đất nước về kinh tế - xã hội, cũng như gắn với lĩnh vực chuyên môn hẹp (TTKH), đang đặt ra nhu cầu nghiên cứu đề tài: TTKH với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Như vậy, sự cần thiết nghiên cứu đề tài này xuất phát từ hai phương diện cơ bản: 1) Cần nghiên cứu rõ hơn những vấn đề về lý luận TTKH, để TTKH gắn với thực tiễn kinh tế - xã hội; 2) Sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta đang ngày càng đòi hỏi,
  9. càng có nhu cầu lớn hơn về tri thức, do đó có nhu cầu cao hơn về TTKH, đòi hỏi nhiều hơn về TTKH. 2. Tình hình nghiên cứu Ở nước ngoài đã có nhiều tác giả nổi tiếng nghiên cứu về lĩnh vực thông tin, ví như: A. Toffler và D. Bell ở Mỹ, A. Eliacov, B.L. Inozemsev ở Nga, Paul A. David, Domonique Foroy ở Pháp v.v... Dưới góc độ nghiên cứu quan hệ giữa thông tin với kinh tế - xã hội, có thể nêu ra một số tác giả và công trình tiêu biểu: - Afanasev V.G. Thông tin xã hội và quản lý xã hội, Hà nội, 1979. - Jashin G.E. Thông tin kinh tế là gì? Tài liệu dịch, ký hiệu TC2210, Thư viện Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. - Rezman L.Đ. Xã hội thông tin và vai trò của viễn thông trong sự hình thành xã hội thông tin 2). Nội dung đề cập đến ảnh hưởng của công nghệ thông tin và sự hình thành khái niệm xã hội thông tin, sự tác động xã hội của thông tin. - Inozemsev B.L. Kinh tế hậu công nghiệp và xã hội hậu công nghiệp3). Nội dung đề cập đến kinh tế và xã hội hậu công nghiệp, đến xu thế gia tăng vai trò của thông tin. - Eliacov A. Ưu thế thông tin của Mỹ và Nga 4). Tác giả nêu lên ưu thế thông tin của Mỹ so với Nga. Do vậy, xét từ góc độ đóng góp vào nền kinh tế, thì thông tin ở Mỹ có vai trò lớn hơn nhiều so với ở Nga. - Tikhovovich E.A. Thời đại thông tin và những vấn đề cấp thiết của nền kinh tế 5). Tác giả xem thông tin như là một điều kiện của phát triển kinh tế, coi kinh tế mang bản chất thông tin. - Meitus. V. Doanh nghiệp ảo trong xã hội thông tin 6). Ở đây đề cập đến một khía cạnh mới của kinh tế: hình thành xí nghiệp mới (ảo) do tác động của thông tin. 2) T/c: "Những vấn đề triết học”( tiếng Nga), số 3/2001, tr.3-9. 3) T/c: "Khoa học và xã hội”(tiếng Nga), số 3/2001, tr.140-152. 4) T/c: "Đối thoại”(tiếng Nga), số 11/2005. 5) T/c: "Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”( tiếng Nga), số4/2005. 6) T/c: "Các vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý”(tiếng Nga), số 4/2006.
  10. - Meliansev B. Cuộc cách mạng thông tin của nền kinh tế mới 7). Tác giả chỉ ra vai trò biến đổi mang tính cách mạng của kinh tế do ảnh hưởng của cách mạng thông tin. - Eliacov A. Cuộc cách mạng thông tin đang tiếp tục 8). Tác giả chứng minh sự phát triển tiếp tục nhanh hơn của cách mạng thông tin và nền kinh tế phải thích ứng. - Sapra G. Nền kinh tế thông tin 9). Ở đây tác giả đã đưa một khái niệm hoàn toàn mới hẳn: nền kinh tế thông tin. Nói chung, những vấn đề lý thuyết chung về thông tin đã được nghiên cứu từ lâu và khá nhiều ở nước ngoài. Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về thông tin hoặc liên quan đến thông tin kinh tế - xã hội, ví dụ: - Nguyễn Nhâm. Thông tin kinh tế và quản lý kinh tế ở cơ sở, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1987. Tài liệu đề cập về cung cấp dữ liệu trong quản lý kinh tế. - Lê Xuân Hòa. Điều tra và xử lý thông tin trong quá trình quản lý, Nxb Thống kê, 1999. Tài liệu đề cập về nghiệp vụ xử lý tin một cách cụ thể ở dạng đơn giản. - Viện TTKH xã hội. Những thách thức trong xã hội thông tin (Tập tài liệu tham khảo nội bộ, năm 2001). Tài liệu này đề cập nhiều về các khía cạnh chung của thông tin với sự phát triển nói chung. - Hàn Viết Thuận (chủ biên). Giáo trình Hệ thống thông tin kinh tế (Đại học Kinh tế Quốc dân), Nxb Lao động - xã hội, 2004. Tài liệu hướng dẫn tra cứu, tìm tin, dữ liệu kinh tế. - Nguyễn Hữu Hùng. Thông tin từ lý luận tới thực tiễn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2005. Tác giả nêu phương pháp luận về sử dụng thông tin, chủ yếu dưới góc độ thông tin học để phục vụ cho nghiên cứu về các vấn đề khác. - Vũ Đình Hòe, Tạ Ngọc Tấn, Vũ Hiền. Truyền thông đại chúng trong công tác lãnh đạo quản lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Các tác giả đã nêu lên vai trò 7) T/c: "Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”(tiếng Nga), số 2/2001. 8) T/c: "Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”(tiếng Nga), số 8/2006. 9) T/c: "Nhà kinh tế”(tiếng Nga), số 10/2005.
  11. truyền thông phục vụ cho lãnh đạo, quản lý. - Đường Vinh Sường: Thông tin kinh tế với quản lý nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004. Tác giả chủ yếu đề cập đến vai trò của thông tin để chế định đối với những khuyết tật của kinh tế thị trường. (Công trình này về thực chất là công bố kết quả đề tài cấp bộ của Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: ‘‘Thông tin kinh tế với việc khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường” do chính tác giả chủ nhiệm đã được nghiệm thu năm 2000. Nội dung cơ bản của nó là thông tin kinh tế phải giúp cho việc quản lý nhà n ước chủ động chế ngự những khuyết tật bẩm sinh của kinh tế thị trường. - Hoàng Ngọc Kim. TTKH với công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đề tài cấp cơ sở của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002. Nội dung chủ yếu là nêu lên khía cạnh thông tin nói chung với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không nghiên cứu TTKH độc lập, đúng nghĩa cần có. Đã có một số công trình nghiên cứu thực tiễn có liên quan đến thông tin, ví dụ như: - ThS. Đoàn Thị Hải Yến và cộng sự. Nghiên cứu phương pháp xây dựng Báo cáo tổng quan kinh tế quí (Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2008). - Một số tài liệu khác như: Cẩm nang báo cáo kinh tế quí, Cẩm nang xây dựng bản tin ngoại thương (tài liệu của Trung tâm Thông tin và Dự báo Quốc gia - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2000) v.v... Cũng cần khẳng định rằng việc cập nhật và đưa thông tin về kinh tế - xã hội thì rất nhiều và thường xuyên, nhưng ít có những công trình mang tính chuyên nghiệp dưới góc độ TTKH ở các cơ quan kinh tế, các cơ quan nghiên cứu, hoạt động thông tin. Về phương diện này ít có những công trình nghiên cứu tương xứng. Tất cả các công trình nghiên cứu nêu trên chưa đề cập đến hoặc chưa đạt đến độ cần có về phạm vi và chiều sâu, còn nặng về thông tin và nhẹ về khoa học, còn thiên về mô tả mà chưa đi sâu nghiên cứu bản chất vấn đề dưới góc độ TTKH. Do vậy cần có những công trình đi sâu nghiên cứu một số nội dung sau:
  12. - Khu biệt rõ phạm trù TTKH. Các công trình đã có mới giải quyết thuần túy lý luận thông tin (các công trình nước ngoài), hoặc nặng về mô tả thông tin nói chung (công trình trong nước). Nhiều công trình vẫn chưa tách biệt được TTKH với thông tin nói chung. Trong thực tiễn ít tác giả khu biệt, phân định rõ điều này. - Mối quan hệ giữa TTKH (chứ không phải thông tin nói chung) với tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. - Làm rõ hơn các chức năng cơ bản của TTKH đối với kinh tế - xã hội, định vị TTKH trong sự phát triển kinh tế - xã hội. - Khảo sát đánh giá khách quan thực trạng tác động của TTKH đối với tổng thể phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thời gian vừa qua, tổng kết những bài học kinh nghiệm để sử dụng có hiệu quả TTKH phục vụ quá trình phát triển này. Cũng đã có một số đề xuất, nhưng vì những lý do khác nhau, nay mới có điều kiện để nghiên cứu tốt hơn. - Đưa ra được các giải pháp mới, có tính khả thi cao và hiệu quả để TTKH phục vụ tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nền kinh tế nước ta đang đứng trước yêu cầu phải phát triển với tốc độ cao để khắc phục sự tụt hậu so với khu vực và thế giới, đồng thời phải đảm bảo chất lượng tăng trưởng, phải phát triển theo đúng quĩ đạo XHCN, phải giải quyết tốt yêu cầu kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội, phát triển theo nguyên tắc tái sản xuất mở rộng bền vững (về xã hội và sinh thái). Điều đó đòi hỏi mọi lực lượng xã hội phải nỗ lực, trong đó TTKH là một yếu tố - một lực lượng tiền phong của sự phát triển. Như vậy, việc nghiên cứu đề tài này sẽ khỏa lấp được "những lỗ hổng” khoa học và thực tiễn, do các nghiên cứu trước đó để lại. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu Nghiên cứu để tạo ra được một công trình lý luận có tính hệ thống về TTKH,
  13. tìm ra cơ chế, phương thức để TTKH gắn nhiều hơn, chặt chẽ hơn với thực tiễn kinh tế - xã hội, để TTKH vừa có được ý nghĩa khoa học lại vừa mang ý nghĩa thực tiễn thiết thực, nâng cao tính hiệu quả của TTKH, để TTKH trở thành một trong những nhân tố tích cực hàng đầu của sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, đóng góp cụ thể vào việc nâng cao tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, đồng thời kinh tế hài hòa với khía cạnh xã hội và các khía cạnh khác của sự tăng trưởng. Nhiệm vụ * Làm rõ phạm trù TTKH: - Phát hiện, khái quát và bổ sung những nét mới, hoàn chỉnh hơn về nội hàm, đặc trưng của phạm trù TTKH. - Bổ sung những điểm mới, nêu bật các vai trò, chức năng chung của TTKH (trong mối liên hệ trực tiếp với phát triển kinh tế - xã hội). * Làm rõ ý nghĩa thực tiễn của TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay: - Đưa ra được một đánh giá mới (đầy đủ và thuyết phục hơn so với các công trình đã được nghiên cứu có liên quan đến chủ đề này) về vai trò, chức năng của TTKH trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời kỳ đã qua. - Rút ra những bài học kinh nghiệm về sử dụng TTKH phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. * Tìm ra các giải pháp cụ thể hóa chức năng của TTKH để TTKH phục vụ một cách hiệu quả cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay, để đảm bảo cho kinh tế nước ta vừa có tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời nâng cao chất lượng tăng trưởng và giải quyết tốt các vấn đề xã hội: - Về quan điểm, phương thức chung để thực hiện vai trò, chức năng của TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay. - Về những vấn đề cụ thể hóa vai trò, chức năng của TTKH (gắn với kinh tế - xã hội), để TTKH phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH và hội nhập sâu hơn với kinh tế thế giới.
  14. 4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu TTKH ứng dụng, tức là nghiên cứu bản chất khoa học của thông tin trong mối liên hệ với sự phát triển kinh tế - xã hội, nghiên cứu một lĩnh vực độc lập của sự gắn kết 2 phạm trù với nhau: thông tin khoa học và kinh tế - xã hội. Nghiên cứu cấu trúc của TTKH phục vụ cho yêu cầu tổng thể về đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Phạm vi nghiên cứu - Lý thuyết: khảo sát những vấn đề cơ bản liên quan đến nội hàm của phạm trù TTKH, nghiên cứu thêm và bổ sung để làm rõ hơn vai trò, chức năng thực tiễn kinh tế - xã hội của TTKH. - Thực tiễn: những vấn đề nằm trong giới hạn kinh tế và xã hội, những vấn đề TTKH liên quan đến kinh tế và xã hội. Không chỉ coi TTKH tác động đến các vấn đề kinh tế, các vấn đề xã hội của kinh tế mà xem thông tin các vấn đề xã hội tác động ngược lại đối với kinh tế, đặc biệt kinh tế tác động lại chính TTKH. - Thời gian và không gian: từ năm 1986 đến nay, trong không gian kinh tế và xã hội Việt Nam, đặc biệt chú ý giai đoạn từ 2001 đến nay và dự báo trong tương lai. Phương pháp nghiên cứu - Vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu lý luận, nghiên cứu kinh tế - xã hội. Đặc biệt lưu ý: tư duy lôgic gắn với lịch sử; coi thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý, thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội là thước đo, là tiêu chuẩn cơ bản nhất để đánh giá về tính đúng đắn của lý luận, của tư tưởng, của một đường lối, chính sách, biện pháp nào đó; - Phương pháp tư duy lý luận: nghĩa là phải trừu tượng hóa một cách khoa học. Phải đúc kết thực tiễn bằng tư duy lý luận, khái quát lý luận phải dựa vào hệ thống các phạm trù nhất định làm công cụ tư duy. Để nghiên cứu về thực tiễn đa dạng, tư duy về một vấn đề phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và hướng về thực tiễn nhưng khám phá thực tiễn phải bằng tư duy khoa học (lý luận);
  15. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành (phương pháp nghiên cứu thông tin với phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội, khoa học kinh tế). Ở đây là đề cập đến việc phải vận dụng các công cụ của thông tin học để xử lý tư liệu, vận dụng những kiến thức triết học xã hội để áp dụng vào tư duy về thông tin và các vấn đề kinh tế và xã hội, vận dụng tư duy kinh tế chính trị để giải quyết những khía cạnh sở hữu và lợi ích, quan hệ giai cấp và giai tầng xã hội, quan hệ phân phối lợi ích..., từ quan điểm lợi ích để xem xét mục đích, nội dung và ý nghĩa của thông tin, thông tin vì ai và bằng cách nào v.v... Như vậy không chỉ có tư duy hệ thống mà còn phải có tư duy liên hoàn, tư duy tổng thể. - Phương pháp khảo cứu, điều tra - thống kê, phân tích - tổng hợp, đối chiếu và so sánh giữa lý luận với lý luận, giữa lý luận với thực tiễn, giữa thực tế này với thực tế khác v.v..; - Phương pháp kế thừa: Trên cơ sở nghiên cứu tổng quát toàn bộ những giá trị khoa học của các công trình (có thể nắm được) đã có để tránh lặp lại, kế thừa và lựa chọn những kết luận đã có (mà tác giả thừa nhận) rồi mới có thể suy nghĩ và sáng tạo mới. 5. Nội dung nghiên cứu Kết cấu nội dung cơ bản gồm lời mở đầu, 3 chương, kết luận: Mở đầu: Khái quát về lý do, mục đích, phương pháp, nội dung, ý nghĩa nghiên cứu Chương 1: Vai trò, chức năng của TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Chương 2: Thực trạng TTKH phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta Chương 3: Những giải pháp để TTKH đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đổi mới KT-XH ở nước ta hiện nay Kết luận chung Danh mục tài liệu tham khảo 6. Ý nghĩa của đề tài Đề tài là một công trình độc lập, có giá trị khoa học mang bản sắc riêng và giá
  16. trị thực tiễn rõ rệt: bổ sung và phát triển thêm một b ước lý luận về TTKH và gắn TTKH với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội; nó vừa có tính thời sự của việc nghiên cứu, phản ánh nhu cầu cấp bách của thực tiễn, vừa gắn lý luận với thực tiễn, phát huy vai trò tiền phong của lý luận để tác động chủ động, tích cực, có hiệu quả vào sự phát triển kinh tế - xã hội. * Về lý luận - Tạo ra một sản phẩm khoa học có tính liên ngành: thông tin và kinh tế, thông tin và xã hội, phản ánh tính đặc trưng của thời đại: thời đại thông tin và kinh tế tri thức; - Sẽ "vẽ” được hình hài mới về phạm trù TTKH, làm cho nó có "da thịt” đầy đủ hơn; nét riêng mà các tác giả sẽ thực hiện trong nghiên cứu là đưa ra một phương pháp tiếp cận chính xác hơn đối với phạm trù TTKH, tránh sự đồng nhất TTKH với thông tin nói chung. Đưa ra cách hiểu, cách vận dụng lý luận thông tin vào thực tiễn của một vấn đề phức hợp; - Bổ sung và phát triển rõ hơn về vai trò, chức năng, tác động của TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, làm rõ TTKH là một yếu tố - một lực lượng hàng đầu của lực lượng sản xuất trực tiếp đối với sự phát triển kinh tế xã hội hiện nay; - Đây là một sản phẩm gắn kết hai nội dung: khoa học ở lĩnh vực thông tin và kinh tế - xã hội, gắn kết TTKH với phát triển kinh tế xã hội, một bước tiến về sự thống nhất biện chứng giữa khoa học - lý luận với thực tiễn; - Nêu rõ TTKH như là dòng sông chuyên chở tri thức, kinh nghiệm, lý luận khoa học phục vụ cho xã hội nói chung và sự phát triển kinh tế - xã hội nói riêng; - Đề tài cũng khám phá những nét mới về chức năng TTKH để đáp ứng nhu cầu về tri thức; - Khái quát, tổng kết, đúc kết mới về lý luận thông qua nghiên cứu các tài liệu, thông tin mới và nghiên cứu thực trạng TTKH trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, rút ra được các bài học kinh nghiệm về ứng dụng TTKH để phát triển kinh tế - xã hội; - Tầm quan trọng của TTKH cần được nhận thức tốt hơn;
  17. - Đề tài phản ánh được chức năng thực tiễn của thông tin. * Về thực tiễn, có thể vận dụng những kết quả nghiên cứu vào việc phát triển kinh tế - xã hội hiện nay + Tác động vào các chủ thể của xã hội, các chủ thể nhận thức đúng tầm quan trọng của TTKH là một nguồn vốn đặc biệt - nguồn vốn tri thức, khoa học, lực lượng to lớn mà trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta còn chưa được chú trọng đúng mức. (Các ngành, các cấp, các địa phương, các đơn vị khoa học và kinh tế cần phải sử dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả hơn); + Giúp cho các cơ quan quản lý khoa học và kinh tế đánh giá đúng, mới về thực trạng, vai trò, chức năng của TTKH thời gian qua trong lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Gợi ý cho các cấp, các ngành và đặc biệt là các nhà quản lý sử dụng TTKH như là lực lựng xung kích, đi tiên phong (thậm chí phải đi trước nhiều bước), mở đường cho việc giải quyết các vấn đề (về khoa học, về thực tiễn nói chung và kinh tế - xã hội nói riêng); Giúp cho các cơ quan nghiên cứu, quản lý và các cơ quan đang trực tiếp vận hành, sử dụng, cán bộ khoa học cũng như người lao động có cách hiểu, cách tiếp cận tốt hơn về TTKH, có được hệ giải pháp mới để sử dụng TTKH vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay; - Kết quả nghiên cứu của đề tài là luận cứ mới giúp cho các cơ quan quản lý khoa học và hoạch định chính sách về TTKH; - Làm tài liệu mới với những nội dung mới nhất định để phục vụ cho các cán bộ khoa học kinh tế và hoạt động thông tin, cho các đối tượng có nhu cầu tìm hiểu về TTKH gắn với thực tiễn kinh tế - xã hội. 7. Sản phẩm của đề tài - Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài dày 170 trang đánh máy A4); - Báo cáo tóm tắt 25 trang; - Bản kiến nghị (khoảng 10 - 15 trang A4); - Sản phẩm trung gian: Kỷ yếu gồm
  18. + Các chuyên đề; + Các bài viết, bài tổng hợp, các nghiên cứu nhỏ và chi tiết. - Đĩa CD ghi toàn bộ kết quả nghiên cứu. Chương 1 VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA THÔNG TIN KHOA HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 1.1. KHÁI NIỆM THÔNG TIN VÀ THÔNG TIN KHOA HỌC 1.1.1. Khái niệm thông tin Khái niệm thông tin dưới các góc độ sinh học, triết học, điều khiển học quản lý, kinh tế học, xã hội học v.v... được đề cập khác nhau nhưng đều có những nét chung. Khái niệm thông tin liên quan đến các khái niệm tri thức. Tri thức là những hiểu biết có hệ thống về sự vật, hiện tượng tự nhiên hay xã hội 10). Thuật ngữ "Thông tin" theo tiếng Anh: information (có nguồn gốc từ tiếng Latinh), là sự giải thích, sự trình bày. Theo quan niệm của chúng tôi, thông tin là sự truyền tin. Thông tin chính là sự truyền tải tri thức trong xã hội. Thông tin là các kiến thức, tri thức được làm thành các dữ liệu, tin tức để lưu chuyển, phổ biến và sử dụng giữa những cá nhân hay tập thể và cộng đồng xã hội với các qui mô và trình độ khác nhau. Như vậy, ta có thể hiểu khái niệm thông tin có bản chất chung như sau: - Thông tin là một phạm trù của nhận thức, nó thông qua việc sử dụng các công cụ biểu hiện đặc trưng để nhận thức thế giới khách quan. - Nội dung thông tin là tri thức bao gồm tri thức cũ và tri thức mới, được vật thể 10) Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hà Nội - Đà Nẵng, 1997, tr 998.
  19. hoá bởi các công cụ lao động và sản phẩm lao động, các công cụ đặc thù của thông tin như sách báo, các phương tiện truyền thanh, truyền hình, các thiết bị điện tử v.v… và đặc biệt là chính con người - con người có tích luỹ tri thức ở các mức độ khác nhau. Đó là sự phản ánh thế giới hiện thực được con người thu nhận bằng hình thức thông tin. Thông tin chính là sự chuyển tải (dịch chuyển) tri thức giữa con người với con người. Tri thức là nội dung đích thực của thông tin, là sản phẩm của ý thức - nhận thức của chúng ta. Vì thế, thông tin phụ thuộc vào hoạt động ý thức của con người. Thông tin được truyền tải bằng những hình thức và công cụ đặc trưng của quy trình nhận thức, dưới dạng các dấu hiệu có tính lôgic bằng ngôn ngữ riêng, có vật mang tin cụ thể để chứa đựng thông tin như sách, báo, truyền hình, truyền thanh v.v... và biểu hiện dưới dạng tiếng nói, cử chỉ, ngôn ngữ, chữ số, bảng biểu, sơ đồ v.v... gọi là các dữ liệu. - Các thành tố cơ bản của thông tin gồm: + Tri thức là nội dung thông tin, là dữ liệu để được xử lý, truyền tải, lưu thông. + Đối tượng dùng tin: gắn liền với nhu cầu cá nhân hay tổ chức cụ thể nào đó, phục vụ cho hiểu biết, cho đời sống kinh tế - xã hội hay cho cá nhân, cho học tập hoặc nghiên cứu, giảng dạy v.v... + Chủ thể xử lý thông tin là con người (cá nhân hay tập thể, tổ chức) với các công cụ, phương tiện để làm tin, thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền tải tin theo các cấp độ và qui mô khác nhau. - Đặc điểm về giá trị của thông tin: khác với các sản phẩm vật chất, của giá trị thông tin không bị tiêu dùng hết, không bị hao mòn, không bị mất đi do tiêu dùng, ngược lại nó dễ dàng được sao chụp lại và truyền tải. Nhiều khi người dùng tin không phải trả chi phí vì tin đã được đăng tải, công bố rộng rãi. Nó được làm giàu và phong phú thêm không ngừng do quá trình lưu thông và sử dụng tri thức. Do vậy, thông tin tiết kiệm được nhân trí rất lớn cũng như các lượng vật chất và tài chính để sáng tạo ra tri thức mới, mà nhiều khi không thể sáng tạo lại được những tri thức mà người khác đã tạo ra. - Sở hữu giá trị trong thông tin: Trong quá trình sản phẩm thông tin được
  20. chuyển đưa cho người khác tiêu dùng thì người chủ sở hữu giá trị tri thức vẫn không mất quyền sở hữu (càng được khẳng định rõ hơn khi Luật sở hữu trí tuệ ra đời); - Lưu trữ sản phẩm thông tin: tương đối độc lập về thời gian, tuỳ theo nhu cầu và giá trị của tin, cũng như trình độ hiểu biết của người làm thông tin; về không gian cũng rất linh hoạt và nhiều khi rất dễ dàng, thí dụ: có thể lưu trữ thông tin bởi các thư viện khác nhau, nhưng cũng có thể lưu trữ thông tin bằng chính đời sống xã hội hiện thực hàng ngày, bằng con người thông qua văn hoá và sản xuất, thông qua sinh hoạt xã hội. - Chi phí bảo quản: Nói chung, không cần chi phi lớn để bảo quản, xử lý, lưu chuyển giá trị thông tin, nếu so sánh với chi phí để sáng tạo ra giá trị thông tin. - Thông tin là sản phẩm sạch đối với môi trường. - Thông tin có ưu điểm liên kết, vì thế mà thu hẹp khoảng cách không gian và thời gian của những đối tác liên kết với nhau 11). Bản chất tự nhiên của thông tin Dưới góc độ sinh học và triết học, nhiều người cho rằng mô hình thông tin là cơ sở tồn tại của toàn bộ giới tự nhiên 12). Đi xa hơn nữa, nhiều nhà nghiên cứu cũng có chung một quan điểm rằng, thông tin là thực thể phát triển của tự nhiên và xã hội. Theo Giáo sư I. Iuzvisin (Nga): "Thông tin - đó là tất cả ngọn nguồn của những nguyên nhân đầu tiên của các hiện tượng và quá trình trong các cấu trúc vĩ mô và vi mô của toàn thế giới" 13). Bản chất đặc biệt của thông tin chính là quan hệ lợi ích. Đây là vấn đề tưởng như cách xa với nhau nhưng thực ra, đó mới là điểm nhấn trong nội dung thông tin. Trong tự nhiên thông tin là hình thức phản ánh, phản xạ tự nhiên giữa các tế bào của mỗi thực thể sinh vật, là sự phản ứng của sinh thái, sự sống. Thí dụ, cảm giác nóng lạnh thì bộ não con người phải thông báo cho bộ phận cơ thể tìm cách xử lý việc nóng 11) Xem: A.Eliacov, T/c: "Đối thoại" (tiếng Nga) số 11/2001. 12) Xem: I. Freigenberg, R. Rovinxki. Mô hình thông tin của tương lai với tính cách là một chương trình phát triển. T/c: "Những vấn đề kinh tế” (tiếng Nga), số 5/2000. 13) Dẫn theo: E.A.Tikhonovich, T/c:"Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”(tiếng Nga), số 4/2005.
nguon tai.lieu . vn