Xem mẫu

  1. Luận văn thạc sỹ Trang 1 Ngành: Kinh tế TNTN&MT MỞ ĐẦU I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Ngày nay, khi nhắc đến môi trường chúng ta luôn đi kèm với sự ô nhiễm bởi các chất hoá học, sinh học… gây ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ con người, các cơ thể sống khác. Ô nhiễm môi trường được chia thành ba dạng cơ bản như sau: Ô nhiễm môi trường đất Là hậu quả các hoạt động của con người làm thay đổi các nhân tố sinh thái vượt qua những giới hạn sinh thái của các quần xã trong đất. Với nhịp độ gia tăng dân số và tốc độ phát triển công nghiệp và hoạt động đô thị hoá như hiện nay thì diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, chất lượng đất ngày càng bị suy thoái. Riêng chỉ với ở Việt Nam, thực tế suy thoái tài nguyên đất là rất đáng lo ngại và nghiêm trọng. Ô nhiễm môi trường nước Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý - hoá học - sinh học của nước, với sự xuất hiện hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng sinh vật trong nước. Xét về tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng thì ô nhiễm nước là vấn đề đáng lo ngại hơn ô nhiễm đất. Ở các đại dương, nguyên nhân chính gây ô nhiễm đó là các sự cố tràn dầu. Ô nhiễm nước có nguyên nhân từ các loại chất thải và nước thải công nghiệp được thải ra lưu vực các con sông mà chưa xử lý đúng mức; các loại phân bón hoá học và thuốc trừ sâu ngấm vào nguồn nước ngầm và nước ao hồ; nước thải sinh hoạt được thải ra từ các khu dân cư ven sông. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  2. Luận văn thạc sỹ Trang 2 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Ô nhiễm không khí Ô nhiễm không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự toả mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhìn xa do bụi. Hiện nay, ô nhiễm khí quyển là vấn đề thời sự nóng bỏng của cả thế giới chứ không phải riêng của một quốc gia nào. Môi trường khí quyển đang có nhiều biến đổi rõ rệt và có ảnh hưởng xấu đến con người và các sinh vật. Những vấn đề nổi cộm trên cho thấy, nhân loại đã bị đặt vào một bài toán vô cùng khó khăn để khắc phục và làm giảm các tác động của ô nhiễm tới môi trường sống. Để giải quyết tương đối bài toán này, một công cụ hữu hiệu nhất là sử dụng Luật Môi trường. Tại Việt Nam, Luật Bảo vệ Môi trường được ban hành đầu tiên vào ngày 27 tháng 12 năm 1993. Đến ngày 29 tháng 11 năm 2005, Luật Bảo vệ Môi trường số 52/2005/QH11 đã sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ Môi trường năm 1993. Đến nay đã trải qua 18 năm thi hành và có bổ sung, sửa đổi, cùng nhiều văn bản hướng dẫn, triển khai, nhưng so với các nước phát triển, lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam còn khá mới và chỉ được quan tâm đặc biệt trong khoảng 5 năm trở lại đây do yêu cầu quản lý môi trường trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vậy, pháp luật về bảo vệ môi trường chưa điều chỉnh hết các mối quan hệ trong xã hội, một số văn bản còn chưa được ban hành hoặc đã ban hành nhưng không sát với thực tế, thiếu tính khả thi, không thể thi hành được. II. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI Sử dụng các mô hình kinh tế để phân tích, đo lường giá trị thiệt hại nhằm nâng cao hiệu lực của Luật và Chính sách môi trường, phục vụ cho công tác quản lý vi mô, vĩ mô. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  3. Luận văn thạc sỹ Trang 3 Ngành: Kinh tế TNTN&MT III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Dựa trên cơ sở kinh tế Phúc lợi, kinh tế Vi mô, kinh tế tài nguyên thiên nhiên và môi trường, Luật và Chính sách môi trường. IV. CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu: Các tác động về mặt kinh tế của Luật và Chính sách môi trường. Nghiên cứu lý thuyết, sử dụng các công cụ, chỉ tiêu, biện pháp môi trường để phân tích. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  4. Luận văn thạc sỹ Trang 4 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Chương I TỔNG QUAN Hệ thống pháp luật Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau, được phân định thành các ngành luật, các chế định pháp luật và được thể hiện trong các văn bản do cơ quan Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền ban hành theo những hình thức, thủ tục nhất định. Việc gọi tên hệ thống pháp luật có nhiều quan điểm khác nhau, trong đó, có quan điểm cho rằng, hệ thống pháp luật bao gồm hai bộ phận là công pháp và tư pháp, quan điểm khác cho rằng cần phải phân biệt hai khái niệm: Hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật thực định và quan điểm chỉ có một khái niệm hệ thống pháp luật, không thể phân biệt rõ nét hai khái niệm hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật thực định. Theo quan điểm này, hệ thống pháp luật có nội dung rất rộng, bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành và những nguồn khác nữa của pháp luật tồn tại trên thực tế mà dựa trên cơ sở đó tính hiện thực của pháp luật đựơc bảo đảm và pháp luật phát huy hiệu lực. Theo quan điểm này hệ thống pháp luật là một khái niệm chung bao gồm hai mặt cụ thể là: Hệ thống cấu trúc của pháp luật và hệ thống văn bản pháp luật (hệ thống nguồn của pháp luật). Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam bao gồm: Hiến pháp do Quốc hội ban hình và luật (bộ luật) do Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước ký quyết định ban hành. Có thể kể một số bộ luật như: Luật sở hữu trí tuệ, luật hình sự, luật trách nhiệm dân sự, luật hợp đồng và luật bảo vệ môi trường. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  5. Luận văn thạc sỹ Trang 5 Ngành: Kinh tế TNTN&MT 1.1. LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, được Quốc hội Việt Nam khoá XI trong kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 và có hiệu lực vào ngày 01 tháng 7 năm 2006, là luật quy định về quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và việc bảo hộ các quyền đó. 1. Quyền sở hữu trí tuệ: quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. 2. Quyền tác giả: quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. 3. Quyền liên quan đến quyền tác giả: quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. 4. Quyền sở hữu công nghiệp: quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. 5. Quyền đối với giống cây trồng: quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu. 6. Tên thương mại: tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  6. Luận văn thạc sỹ Trang 6 Ngành: Kinh tế TNTN&MT 1.2. LUẬT HÌNH SỰ Khái niệm luật hình sự nói về những luật có chung tính chất là xác định những hành vi (tội) mà xã hội đó không muốn xảy ra, và đề ra những hình phạt riêng biệt và nặng nề hơn bình thường nếu thành viên xã hội đó phạm vào. Tùy theo loại tội và thẩm quyền, sự trừng phạt (về mặt) hình sự bao gồm tử hình, giam giữ, bị quản thúc hoặc bị phạt vạ. Những tội cổ xưa như sát nhân (giết người), phản quốc .v.v. luật hình sự nơi nào cũng có. Nhưng cũng có nhiều tội ở nước này đưa vào luật hình sự mà nước khác thì không. Ngay cả trong các bộ luật đôi khi cũng không rõ ràng về ranh giới giữa dân sự và hình sự. Luật hình sự thường được tiến hành khởi tố bởi chính quyền, không giống như luật dân sự thường được tiến hành khởi tố bởi người dân hay các pháp nhân khác. 1.3. LUẬT TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ Luật trách nhiệm dân sự là một nhánh pháp luật giải quyết các tranh chấp giữa các cá nhân và/hoặc các cơ quan tổ chức, theo đó bên bị thiệt hại có thể được đền bù cho những thiệt hại đó. Ví dụ, nếu một nạn nhân bị ôtô đâm đòi người lái xe bồi thường thiệt hại hoặc chấn thương do tai nạn gây ra, đây sẽ là một vụ kiện dân sự. 1.4. LUẬT HỢP ĐỒNG Để cho hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể thực hiện có hiệu quả và đảm bảo được sự quản lý của Nhà nước thì Nhà nước ban hành nhiều qui phạm pháp luật để áp dụng trong việc cụ thể hóa các vấn đề của hợp đồng. Như vậy, pháp luật về hợp đồng gồm một hệ thống các văn bản pháp luật khác nhau, trong mỗi văn bản pháp luật đó sẽ bao gồm nhiều điều luật qui Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  7. Luận văn thạc sỹ Trang 7 Ngành: Kinh tế TNTN&MT định cụ thể hóa các nội dung của hợp đồng, định hình các qui tắc xử sự của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Từ đó ta có thể kết luận pháp luật về hợp đồng như sau: Pháp luật về hợp đồng là một hệ thống các quy tắc sử xự của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện nhằm bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong hợp đồng. 1.5. LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước, dân tộc và nhân loại; Để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước và trách nhiệm của chính quyền các cấp, các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân trong việc bảo vệ môi trường nhằm bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong lành, phục vụ sự nghiệp phát triển lâu bền của đất nước, góp phần bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu; Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 27/12/1993 và 29/11/2005. Luật này quy định về hoạt động bảo vệ môi trường, chính sách, biện pháp và nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong bảo vệ môi trường. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  8. Luận văn thạc sỹ Trang 8 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Chương II THIẾT LẬP MỤC TIÊU VÀ CHỈ TIÊU SAU KHI KẾT THÚC MỘT CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG 2.1. CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG Chính sách môi trường cụ thể hoá Luật Bảo vệ Môi trường (trong nước) và các Công ước quốc tế về môi trường. Mỗi cấp quản lý hành chính đều có những chính sách môi trường riêng. Nó vừa cụ thể hoá luật pháp và những chính sách của các cấp cao hơn, vừa tính tới đặc thù địa phương. Sự đúng đắn và thành công của chính sách cấp địa phương có vai trò quan trọng trong đảm bảo sự thành công của chính sách cấp trung ương. 2.2. CÁC VẤN ĐỀ CHUẨN TẮC VÀ PHÂN TÍCH CÁC VẤN ĐỀ CHUẨN TẮC Hầu hết các nhà kinh tế đều lập luận rằng hiệu quả kinh tế đạt được khi sự chênh lệch giữa lợi ích và chi phí là tối đa. Điều này chính là một tiêu chí cơ bản để đánh giá các nỗ lực bảo vệ môi trường. Bởi vì xã hội có những nguồn lực có hạn để chi tiêu, phân tích lợi ích - chi phí có thể giúp làm sáng tỏ sự đánh đổi phức tạp để tạo ra các loại đầu tư xã hội khác nhau. Trong thực tế, có những khó khăn đáng kể mà phần lớn là vì những khó khăn vốn có trong việc đo lường lợi ích và chi phí. Ngoài ra, còn có mối quan tâm về sự công bằng và quá trình xem xét công đức, bởi vì các chính sách công chắc chắn liên quan đến người thắng và kẻ thua, ngay cả khi các lợi ích tổng hợp vượt quá chi phí tổng hợp. 2.2.1. Tiêu chuẩn đánh giá chính sách môi trường Hơn 100 năm trước, Vilfredo Pareto đề ra tiêu chuẩn nổi tiếng để đánh giá xem liệu một sự thay đổi của xã hội ví dự như chính sách công cộng, có làm cho thế giới tốt đẹp hơn không: Một sự thay đổi là Pareto hiệu quả nếu có Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  9. Luận văn thạc sỹ Trang 9 Ngành: Kinh tế TNTN&MT ít nhất một người được làm cho tốt hơn và không ai bị làm nghèo đi (1896). Tiêu chí này có sức hấp dẫn đáng kể. Nhưng hầu như không có chính sách công cộng nào đáp ứng các thử nghiệm là cải thiện Pareto thực sự, bởi vì khi một chính sách công cộng được đưa ra thì chắc chắn có một số người trong xã hội sẽ bị làm cho nghèo đi. Gần 50 năm sau đó, Nicholas Kaldor (1939) và John Hicks (1939) mặc nhiên công nhận một tiêu chí thực dụng hơn đó là xác định "sự cải thiện Pareto tiềm năng:" Tiêu chuẩn này được định nghĩa như sau: Một chính sách công cộng được xác đinh như là cải thiện phúc lợi nếu những người đạt được lợi ích từ sự thay đổi chính sách có thể bù đắp hoàn toàn những kẻ thua cuộc, thậm chí chỉ với (ít nhất) một người thắng cuộc sẽ vẫn tốt hơn là không ai thắng cuộc. Tiêu chuẩn Kaldor-Hicks, một kiểm định xem liệu lợi ích toàn xã hội có vượt quá chi phí toàn xã hội hay không, là nền tảng lý thuyết cho việc sử dụng phương thức phân tích được gọi là lợi ích - chi phí (hoặc giá trị hiện tại ròng) để phân tích. Cả tiêu chuẩn hiệu quả Pareto và tiêu chuẩn Kaldor-Hicks đều không kêu gọi hỗ trợ cho bất kỳ chính sách nào mà lợi ích lớn hơn chi phí. Thay vào đó, chìa khóa để xác định một chính sách có hiệu quả chính là khoảng cách giữa lợi ích và chi phí là lớn nhất. Nếu mục tiêu là để tối đa hóa khoảng cách giữa lợi ích - chi phí (lợi ích ròng), khi đó ∑[ ] Trong đó qi là khối lượng chất thải được xử lý của nguồn i (i=1-N); Bi là hàm lợi ích từ nguồn i; Ci là hàm chi phí từ nguồn i; là mức độ hiệu quả của việc bảo vệ môi trường (xử lý chất thải ô nhiễm môi trường). Điều kiện Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  10. Luận văn thạc sỹ Trang 10 Ngành: Kinh tế TNTN&MT then chốt nổi bật lên từ việc tối đa hóa bài toán trong phương trình (1) là lợi ích cận biên bằng với chi phí cận biên. Tiêu chuẩn Kaldor-Hicks rõ ràng là thực tế hơn so với tiêu chuẩn nghiêm ngặt của Pareto, nhưng thời gian tồn tại tiêu chuẩn của nó ít bền vững hơn và đã bị bác bỏ từ nhiều phía khác nhau. Các câu hỏi đã được đặt ra về việc liệu lợi ích và thiệt hại xã hội có thể được thể hiện thông qua sự kết hợp đơn giản của việc thay đổi phúc lợi của các cá nhân. Do đó, lưu ý rằng tiêu chuẩn Kaldor-Hicks không được coi là điều kiện cần cũng như điều kiện đủ để đưa ra một chính sách công. Trong những năm gần đây đã có nhiều cuộc tranh luận giữa các nhà kinh tế với nhau và giữa các nhà kinh tế với những người có liên quan mật thiết khác về ý nghĩa của việc thường xuyên sử dụng khái niệm “tính bền vững”. Phát triển bền vững, là quá trình vận hành đồng thời ba bình diện phát triển: Kinh tế tăng triển bền vững, xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định, văn hóa đa dạng và môi trường trong lành, tài nguyên được duy trì bên vững. Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức cho phát triển bền vững bao gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế chân kiềng” kinh tế, xã hội, môi trường. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  11. Luận văn thạc sỹ Trang 11 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Hình 2.1. Kinh tế - Xã hội - Môi trường trong phát triển bên vững - Công bằng xã hội - Công bằng giữa các thế hệ - Đời sống được nâng cao - Xã hội đoàn kết Xã hội Kinh tế Môi trường - Kinh tế tăng trưởng - Tài nguyên thiên nhiên cao giàu có - Hiệu quả kinh tế lơn - Môi trường sống trong - Tiết kiệm tài nguyên lành - Môi trường sản xuất thuận lợi hơn và phù hợp với trình độ sản xuất Sinh thái học và nhiều ngành bên ngoài nền kinh tế khác đã đưa tính bền vững là tiêu chí duy nhất và toàn diện nhất mà có thể nên hướng đến phát triển toàn cầu. Ngược lại, các nhà kinh tế có xu hướng xác định tính bền vững chỉ là sự công bằng giữa các thế hệ. Như vậy, hầu hết các nhà kinh tế chỉ xem tính bền vững như là một yếu tố để phát triển hướng đi như mong muốn. 2.2.2. Phân tích lợi ích - chi phí của việc điều chỉnh môi trường Trong khi khái niệm đơn giản, tính đúng đắn của thực nghiệm phân tích lợi ích - chi phí dựa trên những ước lượng đáng tin cậy sẵn có của các lợi ích và chi phí xã hội, bao gồm ước lượng tỷ lệ chiết khấu xã hội. 2.2.2.1. Chiết khấu: Các quyết định được đưa ra hôm nay đều có tác động cả trong hiện tại và tương lai. Trong lĩnh vực môi trường, nhiều ảnh hưởng của tương lai là từ việc cải tiến chính sách, và như vậy trong bối cảnh này, lợi ích cũng như chi phí trong tương lai của các chính sách đã bị chiết khấu. Giá trị hiện tại của lợi ích ròng (PVNB) được định nghĩa như sau: Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  12. Luận văn thạc sỹ Trang 12 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Nếu mục tiêu là để tối đa hóa khoảng cách giữa lợi ích và chi phí (lợi ích ròng), thì mức độ liên quan đến bảo vệ môi trường (xử lý chất thải ô nhiễm) được định nghĩa là hiệu quả mức độ bảo vệ: ∑ { } (2) Trong đó Bt là lợi ích tại thời điểm t, Ct là chi phí tại thời điểm t, r là tỷ lệ chiết khấu và T là năm phân tích cuối cùng. PVNB có giá trị dương nghĩa là chính sách hoặc dự án đó có tiềm năng để mang lại hiệu quả Pareto (thỏa mãn tiêu chuẩn Kaldor–Hicks). Do đó, thực hiện phân tích lợi ích – chi phí hoặc giá trị hiện tại dòng (NPV) đòi hỏi giá trị chiết khấu làm dịch chuyển các tác động trong tương lai sang những giá trị tương đương mà có thể được so sánh. Về bản chất, tiêu chuẩn Kaldor–Hicks cung cấp cơ sở hợp lý cho việc phân tích lợi ích - chi phí và chiết khấu. 2.2.2.2. Khái niệm lợi ích và phân loại Nếu một sự thay đổi của môi trường có ý nghĩa với bất kỳ ai đó trong hiện tại hoặc tương lai thì nó sẽ xuất hiện trong một đánh giá kinh tế. Môi trường có thể được coi như là một dạng tài sản tự nhiên cung cấp các luồng dịch vụ được sử dụng bởi con người trong việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ, chẳng hạn như: Sản lượng nông nghiệp, sức khỏe con người, giải trí và nhiều hàng hóa vô định khác như chất lượng cuộc sống. Bảo vệ môi trường thường đòi hỏi nhữngviệc làm thiết thực của vốn, lao động và các nguồn lực khan hiếm khác. Sử dụng các nguồn lực này để bảo vệ môi trường có nghĩa là chúng không sẵn có để được sử dụng vào những mục đích khác. Do đó, khái niệm kinh tế của các giá trị hoặc lợi ích của hàng hóa và dịch vụ môi trường được diễn đạt bằng thuật ngữ sự sẵn sàng của xã hội để thực hiện một sự đánh đổi giữa việc sử dụng cạnh tranh những nguồn lực hạn chế, và thuật ngữ sự sẵn sàng của các cá nhân để thực hiện những Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  13. Luận văn thạc sỹ Trang 13 Ngành: Kinh tế TNTN&MT đánh đổi này. Vì vậy, những lợi ích của một chính sách môi trường được định nghĩa là một tập hợp sự sẵn lòng chi trả của các cá nhân (WTP) cho việc giảm hoặc ngăn ngừa những thiệt hại của môi trường hoặc sẵn lòng chấp nhận bồi thường của các cá nhân (WTA) để chịu đựng các thiệt hại môi trường như thế. Những lợi ích mang lại cho con người từ việc bảo vệ môi trường là rất nhiều và đa dạng. Dưới góc độ sinh lý, lợi ích như vậy có thể được phân loại như là liên quan đến sức khỏe con người (tỷ lệ tử vong và bệnh tật), các tác động sinh thái (cả thị trường và phi thị trường) hoặc thiệt hại về vật chất. Từ góc độ kinh tế, một sự phân biệt quan trọng là giữa giá trị sử dụng và giá trị không sử dụng. Ngoài những lợi ích trực tiếp (giá trị sử dụng) mà con người nhận được thông qua bảo vệ sức khỏe của họ hoặc thông qua việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, người ta cũng nhận được giá trị thụ động hoặc không sử dụng từ chất lượng môi trường, đặc biệt trong lĩnh vực sinh thái. Ví dụ, một cá nhân có thể coi trọng một sự thay đổi tốt cho môi trường vì bởi vì người đó muốn giữ gìn các tùy chọn để sử dụng trong tương lai hoặc bởi vì người đó mong muốn những người thừa kế của mình được hưởng môi trường trong sạch. Vẫn còn những người khác mà họ không sử dụng một trong những lợi ích từ môi trường trong hiện tại hoặc tương lai cho bản thân hoặc người thừa kế, nhưng họ vẫn muốn bảo vệ môi trường vì họ tin rằng môi trường cần được bảo vệ hoặc đơn giản họ cảm thấy hài lòng khi biết những gì của ngày hôm nay vẫn còn tồn tại cho đến ngày mai. 2.2.2.3. Khái niệm chi phí và phân loại Khái niệm về chi phí trong bối cảnh môi trường, hay chính xác hơn, chi phí cơ hội, là một thước đo giá trị của bất cứ điều gì phải hy sinh để ngăn ngừa hoặc làm giảm nguy cơ của một tác động môi trường. Do đó, chi phí của các chính sách môi trường là những lợi ích xã hội bị bỏ qua do sử dụng các Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  14. Luận văn thạc sỹ Trang 14 Ngành: Kinh tế TNTN&MT nguồn lực khan hiếm cho các mục đích chính sách môi trường, thay vì đưa những nguồn lực đó để sử dụng tốt nhất tiếp theo 2.2.3. Các phương pháp tiếp cận khác để phân tích mục tiêu của chính sách môi trường Những nhà quản lý và các nhà nghiên cứu đã đề xuất ra các tiêu chí ước lượng khác mà có thể đánh giá được các chính sách môi trường. Một cách tiếp cận, phản ánh cách diễn giải phổ biến của Đạo luật không khí sạch và một vài bộ luật môi trường khác, đã được khẳng định chỉ dựa vào thông tin của khoa học tự nhiên để xác định các chính sách mà loại trừ hoàn toàn những rủi ro môi trường hoặc giảm rủi ro đến mức được coi là chấp nhận được. Ví dụ, đạo luật Không khí sạch là một trong số những văn bản pháp lý liên quan đến việc giảm ô nhiễm khói và không khí nói chung. Chính phủ sử dụng đạo luật này để thực thi các tiêu chuẩn không khí sạch, điều này đã góp phần cải thiện sức khỏe con người và kéo dài tuổi thọ. Nhưng kể từ khi ô nhiễm môi trường không có khả năng biểu lộ ngưỡng sạch dưới đây: Phân tích y tế - sức khỏe là một phương pháp để đánh giá tính kinh tế của chính sách y tế và các quy định an toàn. Đó là một bước đi xa hơn bằng cách cố gắng xác định số lượng tài nguyên và chi phí cơ hội, dựa trên quan điểm cho rằng chi tiêu cho các chương trình điều tiết mà nguồn lực là từ các cá nhân, khiến họ chi tiêu ít hơn cho an toàn và chăm sóc sức khỏe, do đó làm tăng tỷ lệ mắc bệnh và/hoặc rủi ro tỷ vong. Như vậy, lợi ích y tế công cộng bị tương phản với những ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe. Phân tích y tế - sức khỏe cung cấp một thước đo “lợi ích ròng” (người được cứu sống), nhưng phương pháp phân tích này bị một số hạn chế nghiêm trọng đó là: Nó không bao gồm các lợi ích khác ngoài việc giảm bớt các rủi ro; mỗi cá nhân chỉ phải trích ra một tỷ lệ phần trăm ngân sách tương đối nhỏ để điều chỉnh môi Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  15. Luận văn thạc sỹ Trang 15 Ngành: Kinh tế TNTN&MT trường nghĩa là có thể không có ảnh hưởng nào đáng kể đến chi tiêu y tế cá nhân, và phân tích chính xác phụ thuộc vào nhiệm vụ khó khăn là đánh giá mối quan hệ phức tạp giữ sự đánh đổi thu nhập cận biên và rủi ro về sức khỏe. Phân tích phân phối cung cấp một cách tiếp cận khác để phân tích các mục tiêu kinh tế của chính sách môi trường. Phân tích lợi ích - chi phí chỉ tập trung vào tổng lợi ích ròng, và không đưa vào bản báo cáo hiệu quả phân phối của các chính sách. Tuy nhiên, vấn đề về phân phối phát sinh trong cả hai mặt lợi ích và chi phí tính toán, và xuất hiện cùng một số chiều, bao gồm: Phân tích chéo (như đặc điểm địa lý, thu nhập, chủng tộc, khu vực, và công ty) và tính liên thời gian (chẳng hạn như theo mùa, hàng năm, dài hạn, và giữa các thế hệ). Phân bổ vốn chủ sở hữu có thể là một sự xem xét mang tính xã hội quan trọng, đặc biệt là trong vấn đề tác động đến những người có thu nhập khác nhau, và hai phương pháp tiếp cận đến vấn đề này xứng đáng được đề cập đến: Phân tích lợi ích - chi phí theo trọng số phân phối và phân tích phân phối riêng biệt. Tuy nhiên, hầu hết các nhà kinh tế không ủng hộ việc cố gắng để kết hợp các cân nhắc phân phối vào phân tích lợi ích - chi phí, nhưng họ khuyên nên sử dụng riêng biệt phân tích phân phối như là một phần phụ để phân tích lợi ích - chi phí tiêu chuẩn như: phân tích phân phối có thể kiểm tra tác động đến nhóm dân số, cũng như phân phối thu nhập hoặc của cải của các quốc gia. Các nhóm dân số thường xuyên được xem xét trong bối cảnh chính sách bao gồm các thành phần kinh tế, chính phủ, người tiêu dùng, người già và trẻ em. Phân tích phân phối cũng có thể báo cáo về tiềm năng thay đổi lợi nhuận của các công ty, thay đổi việc làm, đóng cửa nhà máy, thay đổi doanh thu, chính phủ và tính cạnh tranh của ngành công nghiệp. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  16. Luận văn thạc sỹ Trang 16 Ngành: Kinh tế TNTN&MT 2.3. CÁC VẤN ĐỀ THỰC CHỨNG VÀ PHÂN TÍCH Với những cải tiến phúc lợi mà việc làm của các tiêu chí hiệu quả và phương pháp đánh giá có liên quan trong phương pháp phân tích lợi ích - chi phí có thể mang lại chính sách môi trường, đó là hợp lý để yêu cầu việc tiếp nhận nào trong ba ngành của chính phủ là hành pháp, lập pháp, và tư pháp sử dụng các công cụ phân tích này. 2.3.1. Ban hành luật pháp Trong những năm qua, Quốc hội đã gửi những tín hiệu lẫn lộn về việc sử dụng các phân tích lợi ích - chi phí trong việc đánh giá chính sách. Một số quy chế thực sự đòi hỏi việc sử dụng các phân tích lợi ích - chi phí, trong khi những số khác đã được giải thích để loại trừ có hiệu quả việc xem xét các lợi ích và chi phí trong việc phát triển của một số quy định nhất đinh. Nhưng điều này đã không ngăn cản cơ quan quản lý xem xét lợi ích và chi phí trong đề xuất của họ. Mặc dù lập luận như vậy, phân tích lợi ích - chi phí chính thức đã không thường xuyên được sử dụng để giúp thiết lập tính chặt chẽ của tiêu chuẩn môi trường. Nhà nước đã ủng hộ một tập hợp các phương pháp tiếp cận để thiết lập các tiêu chuẩn khác nhau, chẳng hạn như Đạo luật không khí sạch. Các nhà kinh tế và một số học giả đã dành rất nhiều thời gian tranh luận rằng tiêu chí như vậy là không hợp lý cũng không được định rõ. 2.3.2. Nhận biết pháp lý Ngành tư pháp cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hơn nữa việc sử dụng các phương pháp phân tích để hỗ trợ các cơ quan đưa ra quyết định. Những quy tắc mặc định này yêu cầu cơ quan hành chính xem xét các chi phí quy định khi ban hành các quy định và phản ánh một sự chấp nhận pháp lý rộng rãi của việc phân tích lợi ích - chi phí trong quản lý luật lệ. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  17. Luận văn thạc sỹ Trang 17 Ngành: Kinh tế TNTN&MT 2.3.3. Sắp đặt tiêu chuẩn Tại sao việc sử dụng các kỹ thuật phân tích không trở nên phổ biến hơn trong chính sách môi trường? Thay vì tại sao Quốc hội tiếp tục làm luật thường xuyên mà không liên quan đến lợi ích và chi phí? Đầu tiên, một số quy định cho phép các doanh nghiệp được thành lập để trục lợi và thiết lập các rào cản nhập ngành để truyền cho họ một lợi thế cạnh tranh. Ví dụ, tiêu chuẩn chỉ huy và kiểm soát giới hạn tổng lượng xả thải của một doanh nghiệp có thể là nguyên nhân để các doanh nghiệp làm giảm sản lượng của họ để đáp ứng yêu cầu môi trường. Việc hạn chế đầu ra có thể đẩy giá sản phẩm của doanh nghiệp cao hơn chi phí trung bình của nó, và kết quả là, doanh nghiệp có thể kiếm được chênh lệch. Sự cạnh tranh mạnh mẽ sẽ tiêu tan tiền chênh lệch này, nhưng các quy định về môi trường thường tạo ra các rào cản gia nhập thị trường bằng cách áp đặt các tiêu chuẩn khí thải nghiêm ngặt đối với các doanh nghiệp mới, do đó đưa ra một lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Thứ hai, thậm chí nếu các quy định môi trường không làm tăng lợi nhuận của toàn bộ một ngành công nghiệp, nó có thể mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp nhất định trong một ngành công nghiệp. Các doanh nghiệp trong một ngành công nghiệp có khả năng sẽ phải chịu những chi phí khác nhau trong các yêu cầu pháp lý, bởi vì một số doanh nghiệp sẽ có thể điều chỉnh quá trình sản xuất của họ dễ dàng hơn những số khác. Thứ ba, động lực để đưa ra các quy định đôi khi đến từ các nhà sản xuất thiết bị kiểm soát ô nhiễm, công nghệ thân thiện với môi trường, hoặc các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất được ưu tiên bởi chế độ quản lý. Ví dụ, các công ty chuyên về dọn dẹp các khu vực có rác thải nguy hại đã xuất hiện để đáp ứng nhu cầu của làm sạch môi trường. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  18. Luận văn thạc sỹ Trang 18 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Thứ tư, quy định về môi trường thường áp đặt chi phí không cân xứng trên một số khu vực của đất nước. Những khu vực mà chịu chi phí trung bình thấp hơn sẽ trở nên tương đối hấp dẫn cho vốn lưu động, có thể mang lại lợi ích kinh tế chẳng hạn như việc làm và thu nhập từ thuế. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  19. Luận văn thạc sỹ Trang 19 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Chương III LỰA CHỌN CÔNG CỤ - CÁC PHƯƠNG TIỆN ĐỂ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG Những chính sách môi trường thường kết hợp việc xác định các mục tiêu với một số phương tiện để đạt được mục tiêu đó. Trong phần này, chúng ta nghiên cứu các biện pháp (các công cụ) mà Chính phủ có thể sử dụng để đạt được những mục tiêu chính sách đã định. Chúng ta bắt đầu với các vấn đề quy chuẩn và sau đó lần lượt phân tích để làm sáng tỏ vấn đề. 3.1. CÁC VẤN ĐỀ CHUẨN TẮC VÀ PHÂN TÍCH CÁC VẤN ĐỀ CHUẨN TẮC Thậm chí nếu các mục tiêu và mục đích của chính sách môi trường được thực hiện như đã định, phân tích kinh tế có thể mang lại những hiểu biết quý giá cho việc đánh giá và phác thảo các chính sách môi trường. Chúng ta bắt đầu bằng cách xem xét các chỉ tiêu mà nó có thể được đưa ra để tìm kiếm những công cụ chính sách tốt hơn, và sau đó quay lại liệt kê các hạng mục chính của các công cụ chính sách môi trường, bao gồm công cụ chỉ huy - kiểm soát và các công cụ dựa vào thị trường. Các vấn đề chéo đã được xem xét, kể cả sự bất định, thay đổi công nghệ, và các vấn đề phân phối. Chúng ta nghiên cứu các bài học mà nó xuất hiện từ nghiên cứu và kinh nghiệm. 3.1.1. Các tiêu chuẩn để lựa chọn công cụ chính sách Một loạt các tiêu chuẩn đã được thừa nhận là có liên quan đến việc lựa chọn các công cụ chính sách môi trường, bao gồm: 1) Công cụ chính sách sẽ đạt được mục tiêu hoặc tiêu chuẩn của Nhà nước; Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
  20. Luận văn thạc sỹ Trang 20 Ngành: Kinh tế TNTN&MT 2) Với chi phí thấp nhất có thể, bao gồm cả sự bằng lòng của bộ phận tư nhân, bộ phận giám sát và thi hành công cộng; 3) Sẽ cung cấp cho Chính phủ những thông tin cần thiết để thực hiện các chính sách; 4) Các công cụ linh hoạt khi đối mặt với những thay đổi trong thị hiếu và công nghệ; 5) Công cụ cung cấp những động lực nhằm khích lệ việc nghiên cứu, phát triển, và áp dụng tốt hơn các công nghệ xử lý chất thải gây ô nhiễm; 6) Thi hành công cụ chính sách sẽ dẫn đến một sự phân phối công bằng các lợi ích và chi phí bảo vệ môi trường; 7) Chính sách là khả thi về mặt chính trị dưới dạng ban hành và thực hiện? Mục (1) đến (5) cùng tham khảo một khái niệm toàn diện của các tiêu chí về hiệu quả chi phí, trong khi mục (6) đề cập đến công bằng phân phối, và mục (7) đề cập đến tính khả thi về mặt chính trị. Để rõ ràng hơn, đầu tiên chúng ta dự định rằng phân bổ kiểm soát giữa các nguồn lực mà kết quả là mục tiêu tổng hợp đạt được với chi phí thấp nhất có thể, có nghĩa là, việc phân bổ thỏa mãn vấn đề giảm thiểu chi phí sau đây: { } ∑ ∑ [ ] ̅ Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
nguon tai.lieu . vn