Xem mẫu
- MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
An giang là một tỉnh có cơ cấu nông nghiệp chiếm vị trí quan trọng.
Quá trình phát triển nền nông nghiệp của tỉnh cũng là quá trình phát triển và
đổi mới các hình thức kinh tế hợp tác trong đó chủ yếu là hợp tác xã nông
nghiệp. Kinh tế hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp thực tế đã đạt được những
thành tựu nhất định và có vai trò khá quan trọng đối với việc ổn định sản xuất,
cải thiện đời sống nông dân, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng nền kinh tế của
tỉnh.
Đảng và Nhà nước đã khẳng định, kinh tế hợp tác và nòng cốt là hợp tác
xã cùng với kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Làm được điều này bản
thân hợp tác xã phải đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, từ sau những chủ trương đổi
mới của Đảng và Nhà nước về kinh tế nông nghiệp, về đổi mới cơ chế quản
lý hợp tác xã trong điều kiện hộ là đơn vị kinh tế tự chủ, các hợp tác xã nông
nghiệp của An giang nằm trong tình trạng chung của các hợp tác xã trong cả
nước là có sự phân hoá. Một số hợp tác xã ra đời, thích ứng kịp thời thì tiếp
tục phát triển và mở rộng loại hình dịch vụ; Song vẫn còn khá nhiều hợp tác
xã yếu kém, hoạt động cầm chừng, có nơi tan rã. Một nguyên nhân trong
những nguyên nhân liên quan đến công tác quản lý, trong đó quản lý về tài
chính là trọng yếu.
Do đó, việc nghiên cứu để tìm ra giải pháp nhằm hoàn thiện công tác
quản lý tài chính đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững ở các hợp tác xã
nông nghiệp tỉnh An giang là yêu cầu cấp thiết.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về sự cần thiết ra đời và tồn tại hợp tác xã
nông nghiệp; Sự cần thiết hoàn thiện công tác quản lý tài chính hợp tác xã nông
nghiệp trong điều kiện kinh tế hiện nay.
Đánh giá hiện trạng tình hình tài chính ở các hợp tác xã, trên cơ sở đó tìm
ra những mặt được và những tồn tại, tìm hiểu nguyên nhân.
Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính
hợp tác xã nông nghiệp trong thời gian tới.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình hoạt động và tài chính của các hợp
tác xã nông nghiệp dịch vụ (không bao gồm hợp tác xã Thuỷ Sản) trên địa
bàn tỉnh An giang.
- 4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện các ương pháp nghiên c
ph ứu chủ yếu sau:
- Phương pháp điều tra, thống kê: Dựa trên tình hình khảo sát thực tế tại
các hợp tác xã nông nghiệp của tỉnh An giang; Các số liệu thu thập được từ Sở Nông
nghiệp
& Phát triển nông thôn tỉnh An giang, Liên minh hợp tác xã tỉnh An giang, Cục Thống
kê tỉnh An giang.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích hiện trạng các hợp tác xã
nông nghiệp trên địa bàn tỉnh An giang từ khi Luật hợp tác xã có hiệu lực đến năm
2002 để nhận định, tổng hợp tình hình về hoạt động và tài chính hợp tác xã nông
nghiệp.
Phương pháp tổng luận: Lý giải và đề xuất một số giải pháp cần thiết
góp phần hoàn thiện công tác quản lý tài chính của các hợp tác xã tỉnh An giang.
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài bao gồm 3 chương, với 70 trang, cụ thể:
Chương 1: Tổng quan về quản lý tài chính trong hợp tác xã nông
nghiệp: Từ trang 1 đến trang 13.
Chương 2: Hiện trạng công tác quản lý tài chính hợp tác xã nông
nghiệp tỉnh An giang: Từ trang 14 đến trang 51.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính trong
hợp tác xã nông nghiệp tỉnh An giang: Từ trang 52 đến trang 70.
- CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
TRONG HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP
NHÀ NHÀ
1.1 Một số vấn đề cơ bản về hợp tác xã nông nghiệp
1.1.1 Khái niệm
Hợp tác xã: Theo Luật hợp tác xã Việt Nam, Điều 1, hợp tác xã được
định nghĩa như sau: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao
động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy
định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm
giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước”. [1]
Hợp tác xã nông nghiệp: Theo Nghị định 43/CP của Chính phủ
(29.4.1997) về việc ban hành Điều lệ mẫu Hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã
nông nghiệp được
- định nghĩa: “Hợp tác xã nông nghiệp là tổ chức kinh tế tự chủ, do nông dân và
những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp
sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể và của
từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ hỗ trợ
cho kinh tế hộ gia đình của các xã viên và kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất,
chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và kinh
doanh các ngành nghề khác ở nông thôn, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp”. [2]
T ừ
đị nh
ngh ĩ a trên v ề
h ợ
p
tác xã
nông nghi ệ
p,
có th ể
rút ra m ấ
y
đặ
c i ể m
đ ch ủ
y ế
u
sau:
Hợp tác xã nông nghiệp là một tổ chức kinh tế tự chủ của những người
nông dân, người lao động tự nguyện lập ra theo quy định của Luật hợp tác xã.
Hợp tác xã nông nghiệp không tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung mà
chỉ tổ chức hoạt động dịch vụ, hỗ trợ cho kinh tế hộ xã viên như: Tưới – tiêu
nước; Phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi; Cung ứng vật tư, phân bón
thuốc trừ sâu….
Hợp tác xã nông nghiệp có thể kinh doanh các ngành nghề, dịch vụ khác
nhau như: Chế biến, tiêu thụ nông sản… phục vụ nhu cầu sản xuất nông nghiệp,
phát triển nông thôn và đời sống của xã viên.
1.1.2 Cần thiết khách quan ra đời và tồn tại loại hình hợp tác xã nông
nghiệp Gần nửa thế kỷ qua, hợp tác xã trong nông nghiệp ở nước ta đã trải qua
nhiều thăng trầm. Sau một thời gian tồn tại, mô hình hợp tác xã “kiểu cũ” ngày
càng tỏ ra không phù hợp với đặc điểm yêu cầu của sự phát triển kinh tế trong
điều kiện mới. Nghị quyết 10 NQ/TW của Bộ chính trị (05/4/1988) ra đời đã đánh
dấu bước chuyển biến cơ bản với chủ trương coi hộ xã viên là đơn vị kinh tế
tự chủ, ngoài việc nhận khoán sử dụng ruộng đất, thực hiện các hợp đồng khác
với hợp tác xã, còn chủ động
phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ với nhiều hình thức.
Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường, có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại
và có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của
nông dân. Trong các thành phần đó, kinh tế tư thương đang chi phối, lấn át. Thể
hiện:
- Với sơ đồ trên ta thấy, quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của hộ nông
dân chịu sự chi phối của hai đối tượng: Nhà cung cấp và Nhà tiêu thụ. Nếu mọi
hoạt động dịch vụ giữa nông hộ và nhà cung cấp dịch vụ trong quá trình sản xuất
hay giữa nông hộ và nhà tiêu thụ sản phẩm trong quá trình tiêu thụ diễn ra theo
quan hệ trực tiếp, tay đôi thì:
Đối với hoạt động cung cấp dịch vụ đầu vào: Thị trường dịch vụ của nhà
cung cấp sẽ trở thành thị trường của người bán, đặc điểm của thị trường này là
nhiều người mua nhưng ít người bán, lợi thế thuộc về người bán. Mặt trái của tư
thương là khi bán thì gìm hàng, nâng giá lúc khan hiếm. Hộ nông dân với tư cách
là người mua dịch vụ sẽ bị chèn ép về giá cả và chất lượng.
Đối với hoạt động tiêu thụ sản phẩm (dịch vụ đầu ra): Tương tự như vậy,
hoạt động tiêu thụ sản phẩm của nông hộ diễn ra, thị trường lúc này trở thành thị
trường của người mua, đặc điểm của thị trường này là ít người mua nhưng lại
nhiều người bán, lợi thế lúc này lại thuộc về người mua – tư thương với vai trò là
người mua sẽ gìm giá, ép giá thiệt thòi sẽ trút hết cho nông dân gánh chịu.
Như vậy, việc hộ nông dân tự mình chống chọi và đương đầu với những quan
hệ mua – bán trong cơ chế thị trường với sự chèn ép của tư thương như vậy thì
dù mỗi người dân có cố gắng đến đâu, có làm việc cật lực đến mấy cũng không
được đền đáp xứng đáng, đúng với công sức bỏ ra. Vả lại, nếu tránh tình
trạng chèn ép của tư thương, nông hộ tự mình đảm đương cả phần dịch vụ đầu
vào, tự lo đầu ra sản phẩm sản xuất ra thì không đảm trách xuể hoặc nếu đảm
trách thì hiệu quả không cao. Chỉ có một con đường đó là các nông hộ có cùng nhu
cầu liên kết lại với nhau dưới những hình thức thích hợp thì mới tháo gỡ những
khó khăn, hạn chế thiệt hại trong sản xuất và tiêu thụ, đảm bảo ổn định và nâng
cao hiệu quả kinh tế hộ nông dân. Một trong những hình thức hoàn chỉnh nhất
của các hình thức hợp tác trong nông nghiệp đó là Hợp tác xã nông nghiệp.
- Hợp tác xã nông nghiệp ra đời đã trở thành “Hộ nông dân lớn”, một “Hộ
nông dân chung” đứng ra làm dịch vụ cho mọi nhà. Thể hiện:
1.1.3 Cơ sở của sự ra đời và phát triển hợp tác xã nông nghiệp
Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng về phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Trên cơ sở tổng kết thực tiễn kinh
tế hợp tác ở nước ta nhất là kinh nghiệm phát triển hợp tác xã trong những năm
đổi mới và kết hợp nghiên cứu tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của quốc tế
về phát triển hợp tác xã để xây dựng mô hình hợp tác xã phù hợp với đặc điểm
cụ thể của đất nước, tháng 3/1996 Quốc hội nước ta đã thông qua Luật hợp tác
xã. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất, Luật đã xác lập tư cách pháp nhân và tạo điều
kiện khuyến khích phát triển hợp tác xã trên phạm vi toàn quốc và ở mọi lĩnh vực
hoạt động.
Sau khi Luật hợp tác xã có hiệu lực (01/01/1997), hàng loạt các văn văn bản
dưới luật cũng được ban hành nhằm hoàn thiện và hỗ trợ hợp tác xã, chẳng hạn:
Nghị định 43/CP về Điều lệ mẫu hợp tác xã nông nghiệp, Nghị định 15/CP về
Chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã, Nghị định 16/CP về Chuyển đổi
đăng ký hợp tác xã và tổ chức hoạt động của liên hiệp hợp tác xã, Nghị định
02/CP về Quản lý Nhà nước đối
- với hợp tác xã. Ban bí thư Trung Ương đã có Chỉ thị 68CT/TW về phát triển kinh
tế hợp tác trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế…..
Có thể nói hai văn bản quan trọng: Luật Hợp tác xã và Nghị định 43/CP đã là
cơ sở pháp lý cần thiết cho sự ra đời và hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp,
giúp hợp tác xã thuận lợi hơn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của
mình.
1.2 Nội dung quản lý tài chính hợp tác xã nông nghiệp
1.2.1 Khái niệm quản lý tài chính hợp tác xã nông nghiệp
Để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ các hợp tác xã luôn có
các hoạt động trao đổi, các điều kiện và kết quả sản xuất thông qua các công cụ
tài chính và vật chất. Do vậy, bất kỳ hợp tác xã nào cũng phải tham gia vào các
mối quan hệ tài chính đa dạng và phức tạp. Các mối quan hệ tài chính được chia
thành các nhóm chủ yếu sau:
Thứ nhất, quan hệ tài chính giữa hợp tác xã với thị trường tài chính và
các tổ chức tài chính. Thể hiện trên các mặt hoạt động:
∙ Hợp tác xã vay vốn của các tổ chức tài chính như ngân hàng, bảo
hiểm, các trung gian tài chính….
∙ Hợp tác xã tham gia các hoạt động đầu tư tài chính.
Thứ hai, quan hệ tài chính giữa hợp tác xã với thị trường (hàng hoá và
thị trường lao động) thông qua các quan hệ thanh toán cho các dịch vụ về hàng hoá
và lao động.
Thứ ba, quan hệ tài chính giữa hợp tác xã với Nhà nước để giải quyết
các nghĩa vụ tài chính theo pháp luật.
Thứ tư, quan hệ tài chính trong nội bộ hợp tác xã. Đó là các khía cạnh
tài chính liên quan đến vấn đề phân phối thu nhập và chính sách tài chính của hợp
tác xã (Cơ cấu tài chính, chính sách tái đầu tư, chính sách lợi tức cổ phần, sử dụng
ngân quỹ nội bộ trong hợp tác xã…)
Như vậy, quản lý tài chính trong hợp tác xã nông nghiệp là sử dụng các công
cụ và biện pháp tác động vào hoạt động tài chính của hợp tác xã (thể hiện ở các
mối quan hệ tài chính) nhằm tạo điều kiện trợ giúp, kiểm soát quá trình kinh
doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh của hợp tác xã.
- 1.2.2 Nội dung của công tác quản lý tài chính trong hợp tác xã nông
nghiệp:
1.2.2.1 Tài chính trong hợp tác xã nông nghiệp:
a. Tài sản và nguồn hình thành:
Đối với một hợp tác xã, muốn tiến hành sản xuất – kinh doanh, dịch vụ
phải có những phương tiện – Tài sản và tài sản này có thể có được từ nhiều
nguồn khác nhau.
a1. Tài sản của hợp tác xã: Cũng như các loại hình doanh nghiệp
khác, tài sản của hợp tác xã bao gồm: tài sản lưu động và tài sản cố định.
Tài sản lưu động là những tài sản được kỳ vọng chuyển thành
tiền trong vòng một chu kỳ hoạt động hay một năm. Tài sản lưu động bao
gồm những thành phần chủ yếu sau: Tiền và các tài sản tương đương tiền; Các
khoản phải thu; Vật tư, hàng hoá tồn kho.
Tài sản lưu động có tác dụng đảm bảo quá trình sản xuất – kinh doanh được
tiến hành liên tục.
Tài sản cố định là những tài sản được đầu tư dùng để phục vụ
cho quá trình hoạt động sản xuất ,dịch vụ trong hợp tác xã. Tài sản cố định
bao gồm những thành phần chủ yếu sau: Máy móc, thiết bị và dụng cụ quản lý;
Phương tiện vận tải; Nhà, xưởng và vật kiến trúc..
Tài sản cố định có tác dụng đảm bảo năng lực sản xuất kinh doanh của hợp
tác
xã.
a2. Nguồn hình thành tài sản:
Theo Thông tư 48, nguồn vốn hợp tác xã sử dụng cho sản xuất
kinh
doanh dịch vụ bao gồm:
Nguồn vốn chủ sở hữu:
(1) Vốn góp của xã viên : Đây là vốn quy định đóng góp khi xã
viên gia nhập hợp tác xã và cũng là một trong những điều kiện để nông hộ trở
thành xã viên. Vấn đề mức, hình thức và thời hạn góp vốn do điều lệ của từng
hợp tác xã quy định. Mức đóng góp của xã viên có thể nhiều hơn mức tối thiểu
- “Nhưng ở mọi thời điểm không vượt quá 30% tổng số vốn điều lệ của hợp tác
xã”[3].
Như vậy, một trong những nguồn hình thành vốn hợp tác xã là vốn góp xã
viên, điều này làm cho chúng ta liên tưởng đến vốn góp của các cổ đông trong
công ty cổ phần. Vậy có sự khác nhau nào giữa chúng?
- Đối với hợp tác xã nông nghiệp các xã viên dù mức đóng góp ở mức tối
thiểu hay tối đa thì quyền biểu quyết vẫn ngang nhau, mỗi người một phiếu bầu.
Và do việc tham gia hay ra khỏi hợp tác xã là hoàn toàn tự nguyện nên xã viên
hợp tác xã bị khống chế mức góp vốn tối đa, điều này không xảy ra đối với
công ty cổ phần. Vốn góp xã viên trong hợp tác xã là điều kiện để hợp tác xã có
thể hoạt động được, tham gia vốn hoàn toàn mang tính tương trợ, giúp đỡ nhau
cùng hoạt động, cùng hưởng dịch vụ không phân biệt giàu – nghèo.
(2) Vốn được chuyển giao từ hợp tác xã cũ hoặc từ chính quyền
xã: Do đặc điểm lịch sử đã từng tồn tại hợp tác xã, một số hợp tác xã “kiểu cũ” khi
chuyển sang hoạt động dưới hình thức hợp tác xã “kiểu mới” thì vẫn còn một số
nhập nhằng về vốn, tài sản giữa cũ và mới. Tuy nhiên vấn đề vốn thuộc sở
hữu hợp tác xã cũ chuyển sang lại là nguồn vốn để hợp tác xã mới tiếp tục hoạt
động. Đây là nguồn vốn khá phức tạp nên việc xử lý cần phân định rạch ròi
tránh tình trạng nhập nhằng và không đánh giá đúng giá trị hiện tại của vốn.
(3) Vốn có được từ việc tích luỹ của các quỹ hợp tác xã : Các quỹ
hợp tác xã là nguồn vốn sở hữu tập thể của hợp tác xã chưa sử dụng đến. Hợp tác
xã có các quỹ trích từ lợi nhuận sau thuế như sau: Quỹ phát triển sản xuất – kinh
doanh, quỹ dự phòng tài chính và quỹ khác do Đại hội xã viên quyết định. Mức
trích và việc chi dùng các quỹ được Đại hội xã viên quyết định và ghi trong điều lệ
hợp tác xã.
Vốn công trợ: Đây là khoản tài trợ của Nhà nước. Nguồn vốn này
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các hợp tác xã khi vốn huy động chưa đáp
ứng nhu cầu cho hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Nguồn vốn vay và các nguồn vốn chiếm dụng:
(1) Nguồn vốn vay : Đây là nguồn vốn ngoại sinh, nguồn vốn này
có tác dụng đa năng, đối với vay ngắn hạn sẽ bù đắp khoản thiếu hụt tạm thời về
vốn đối với hợp tác xã, bảo đảm cho hợp tác xã sản xuất liên tục; đối với vay dài
hạn sẽ bù đắp việc đầu tư dài hạn, điều này đặc biệt quan trọng đối với hợp
tác xã khởi sự và mở rộng quy mô. Tuy nhiên để sử dụng được nguồn vốn này
hợp tác xã cần phải đáp ứng những điều kiện vay vốn.
- ồn vốn chiếm dụng : Là các khoản nợ phải thanh toán
(2)Ngu
nhưng chưa đến hạn thanh toán. Nguồn vốn này có tác dụng tiết kiệm đáng kể
đối với các khoản vốn phải đầu tư.
- Các nguồn vốn huy động khác: Gồm vốn nhận liên kết, liên doanh,
tài trợ, hỗ trợ của các cá nhân trong và ngoài nước.
Như vậy trong cơ chế thị trường, vốn hoạt động dịch vụ hợp tác xã nông
nghiệp có thể huy động từ nhiều nguồn khác nhau, cả bên trong lẫn bên ngoài.
Vấn đề khi có nhu cầu vốn hợp tác xã phải cân nhắc khi quyết định nên chọn
nguồn nào để đạt hiệu quả kinh tế.
b. Thu – chi trong hợp tác xã:
b1.Thu trong hợp tác xã:
Như trên đã phân tích, hợp tác xã nông nghiệp là “hộ nông dân lớn”, một
“Hộ nông dân chung” đứng ra làm dịch vụ cho mọi nhà. Để hoạt động được hợp tác
xã phải có lượng tài sản nhất định, lượng tài sản này được hình thành từ nhiều
nguồn khác nhau, nhưng cơ hữu và chính yếu vẫn từ việc đóng góp xã viên, nên
để bảo toàn và phát triển “vốn chung” này hợp tác xã phải đảm bảo sự quay về
của vốn thông qua các nguồn thu. Có thể nói, thu chính là phương tiện để hợp tác
xã hoạt động. Đối với hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ, nguồn thu có được từ:
Dịch vụ phí: Đây là khoản thu từ việc cung ứng dịch vụ cho hộ xã
viên. Ngoài ra hợp tác xã nông nghiệp còn có các khoản thu khác:
Thu về các hoạt động tài chính;
Thu từ việc thanh lý hay nhượng bán tài sản cố định, vật tư…..
Các khoản nợ không ai đòi…
Tuy nhiên thu từ dịch vụ phí đối với các hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ
vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu.
b2. Chi tiêu trong hợp tác xã:
Các hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ tuỳ loại hình hoạt động cụ thể có các
khoản chi khác nhau, nhưng cơ bản gồm các khoản chi tiêu sau đây:
Chi mua vật tư, hàng hoá phục vụ sản xuất – kinh doanh, dịch vụ;
Chi trả tiền công lao động trực tiếp và gián tiếp;
Chi xây dựng cơ bản và mua sắm tài sản cố định;
Chi khen thưởng;
Chi về phúc lợi tập thể;
Các khoản chi sản xuất – kinh doanh, dịch vụ khác;
- Các khoản nộp cho Nhà nước;
- Chi trả nợ ngân hàng.
c. Lợi nhuận và phân phối lợi nhuận trong hợp tác xã
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất –
kinh doanh, dịch vụ và các hoạt động khác mang lại, là cơ sở để đánh giá hiệu
quả kinh tế các hoạt động của hợp tác xã.
Lợi nhuận của hợp tác xã là khoản tiền chênh lệch giữa thu nhập và toàn bộ
các khoản mà hợp tác xã chi để có được thu nhập đó từ các hoạt động của hợp tác
xã. Như vậy, hợp tác xã có được lợi nhuận từ: Hoạt động kinh doanh và hoạt động
khác.
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh dịch vụ: là lợi nhuận thu được từ việc
cung ứng dịch vụ trong nông nghiệp của hợp tác xã. Lợi nhuận từ hoạt động
kinh doanh dịch vụ là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí tạo ra dịch vụ
phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Lợi nhuận từ các hoạt động khác: Là khoản chênh lệch giữa khoản thu – chi
tạo ra hoạt động đó. Thông thường lợi nhuận từ những hoạt động khác trong
hợp tác xã bao gồm:
+ Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: Là chênh lệch giữa thu và chi của
hoạt động cho thuê tài sản; mua bán chứng khoán; mua bán ngoại tệ; lãi tiền
gửi ngân hàng thuộc vốn kinh doanh; lãi cho vay vốn; lợi tức cổ phần và lợi
nhuận được chia từ vốn góp liên doanh, liên kết;….
+ Lợi nhuận từ hoạt động bất thường: Bao gồm các khoản phải trả
nhưng không trả được do phía chủ nợ; khoản nợ khó đòi đã duyệt bỏ nhưng
nay thu hồi được; khoản thu vật tư, tài sản thừa sau khi đã bù trừ hao hụt mất
mát; khoản chênh lệch do thanh lý, nhượng bán tài sản…..
Lợi nhuận có ý nghĩa rất lớn đối với toàn bộ hoạt động của hợp tác
xã vì lợi nhuận tác động đến tất cả mọi hoạt động, đến tình hình tài chính trong
hợp tác xã. Là nguồn tích luỹ cơ bản để mở rộng tái sản xuất , là nguồn vốn quan
trọng để đầu tư phát triển, là nguồn tham gia đóng góp theo luật định vào ngân
sách nhà nước. Việc phấn đấu thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng
đảm bảo cho tình hình tài chính của hợp tác xã được ổn định, vững chắc.
1.2.2.2Nội dung của công tác quản lý tài chính trong hợp tác xã
nông
- nguồn tài chính Nợ ngắn hạn u tư
Tài sản lưu Nợ dài hạn
nhằm
động Tài sản Vốn chủ sở
11 hữu
cố định
Tạo nguồn
- Sơ đồ 1:
Quá trình tạo nguồn và sử
d
ụng vốn
Sơ đồ 1 cho thấy, khi hợp tác xã mới thành lập, vốn chủ sở hữu và các khoản
nợ chính là nguồn cơ hữu đối với việc đầu tư tài sản đáp ứng nhu cầu sản
xuất – kinh doanh, dịch vụ của hợp tác xã.
Nội dung của công tác quản lý tài chính hợp tác xã giai đoạn này là thực hiện
tốt việc huy động các nguồn vốn đáp ứng đủ nhu cầu vốn và sử dụng chúng một
cách có hiệu quả.
Để làm tốt công tác quản lý tài chính ở giai đoạn này cần:
Tính toán đúng nhu cầu vốn;
Xem xét cân nhắc giữa cơ cấu vốn huy động (vốn vay và vốn chủ sở
hữu);
Đầu tư vào những tài sản thật sự cần thiết, tránh tình trạng quá thừa hay
quá thiếu trong đầu tư.
b. Sử dụng vốn có hiệu quả, điều tiết thu – chi đảm bảo
nguồn vốn cho hoạt động được liên tục.
Sơ đồ 2: Chu kỳ sản xuất và dòng ngân lưu
12
- Sơ đồ 2 cho thấy vòng lưu chuyển tiền tệ sản xuất trong hợp tác xã, cụ
thể: Từ nguồn vốn huy động được hợp tác xã tiến hành đầu tư, một phần dùng
để mua sắm máy móc, thiết bị cho hoạt động sản xuất; phần còn lại dùng để
mua nguyên, nhiên, vật liệu và thuê mướn nhân công. Với những yếu tố đầu vào
này, hợp tác xã tiến hành sản xuất ra những sản phẩm, dịch vụ. Như vậy tài sản
tiền tệ (vốn bằng tiền) của hợp tác xã đã trở thành tài sản vật chất (hàng hoá lưu
trữ, dịch vụ cung ứng). Những hàng hoá lưu trữ hoặc dịch vụ cung cấp cho xã
viên sẽ trở thành tài sản tiền tệ. Nếu việc cung ứng theo kiểu trả ngay, thì tài
sản vật chất sẽ trở thành tài sản tiền tệ ngay; nếu việc cung ứng phải thu sau
mỗi vụ thì tài sản vật chất trở thành khoản phải thu và chỉ trở lại hình thái tiền tệ
khi các khoản phải thu được thanh toán. Đây chỉ là sự vận động đơn giản từ tiền
sang hàng, tới khoản phải thu và quay trở lại thành tiền trong một chu kỳ kinh
doanh.
Một hoạt động khác thể hiện trong sơ đồ 2 là hoạt động đầu tư. Diễn ra trong
chu kỳ kinh doanh. Tài sản cố định của hợp tác xã được sử dụng và bị hao mòn
trong quá trình tạo ra dịch vụ, giá trị hao mòn của chúng được thu hồi qua khấu
hao tài sản cố định.
Như vậy, nội dung của công tác quản lý tài chính ở giai đoạn tạo ra dịch
vụ là nhằm đảm bảo sự tái tạo và tăng lên của tài sản tiền tệ sau một chu kỳ
hoạt động. Để làm tốt công tác quản lý giai đoạn này cần thực hiện một số công
việc sau:
Đối với tài sản lưu động:
Quản lý tốt hàng tồn kho;
Thực hiện tốt công tác thu hồi các khoản phải thu.
Tổ chức và kiểm soát tốt luân chuyển tiền.
Đối với tài sản cố định:
Thực hiện công tác khấu hao và bảo quản tốt tài sản hiện vật nhằm đảm
bảo năng lực phục vụ và khả năng tái đầu tư tài sản.
c. Thực hiện công tác phân phối trong hợp tác xã
nguon tai.lieu . vn