Xem mẫu
- Luận văn
Pháp luật về kiểm
soát suy thoái nguồn
thuỷ sinh
1
- NỘI DUNG
PHẦN I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Khái niệm chung về thuỷ sinh.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, thuỷ sinh là những loài " sống ở dưới
nước, mọc ở trong nước". Thuỷ sinh bao gồm động vật thuỷ sinh và thực
vật thuỷ sinh.
N guồn thuỷ sinh là một khái niệm khá rộng, nó bao gồm toàn bộ các
loài động và thực vật sống ở trong nước. Môi trường sống của nguồn thuỷ
sinh bao gồm vùng nước, mặt đất ngập nước và cả phần đất mà các loài
thuỷ sản sinh sống.
H iện nay, nguồn thuỷ sinh đang ở trong một tình trạng suy thoái trầm
trọng. Và để hiểu thế nào là suy thoái nguồn thuỷ sinh, thì trước hết ta phải
hiểu là suy thoái là gì?
Suy thoái là “ở trong tình trạng yếu và sút kém dần có tính chất kéo
dài”. Như vậy nguồn thuỷ sinh có thể sẽ lâm vào tình trạng suy thoái khi
chúng bị giảm về chất lượng và cạn kiệt về số lượng trong khoảng thời gian
nhất định .”
2. Những nguyên nhân gây suy thoái nguồn thủy sinh.
2.1. N hững ảnh hưởng từ tự nhiên đối với nguồn thuỷ sinh.
Môi trường sống của nguồn thuỷ sinh bao gồm vùng nước, mặt đất
ngập nước và cả phần đất mà các loài thuỷ sinh sinh sống. Do đó, nguồn
thuỷ sinh tồn tại có chất lượng hay không trước tiên phải phụ thuộc vào
mô i trường sống của chúng.
Một số thành phần môi trường chi phối trực tiếp số lượng và chất
lượng của các loài thuỷ sinh như: nước, đất, không khí, rừng, các yếu tố tự
nhiên thuộc về thời tiết như nhiệt độ, gió, mưa…Trong quá trình vận động
của tự nhiên các yếu tố này có thể diễn biến theo các chiều hướng khác
nhau ảnh hưởng đến sản lượng của các loài thuỷ sinh. Chẳng hạn như: sự
suy thoái rừng, ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, hoạt động của núi
2
- lửa…Thường làm cho nguồn thuỷ sinh suy thoái về chất lượng và giảm sút
về số lượng. Bên cạnh đó, sự biến mất hoặc thoái hoá rừng ngập mặn cũng
làm giảm các chức năng nuôi dưỡng và bảo vệ bờ biển gây nên hiện tượng
xói mòn nơi đây. Mà đặc biệt đây lại là khu vực sinh sống và nuôi dưỡng
quan trọng của các loài thuỷ sinh.
Mặt khác, trong quá trình tiến hoá và phát triển, sự thối rửa của xác
động vật và thực vật, của bản thân nguồn thuỷ sinh chết ở tự nhiên cũng
thải ra các thán khí gây ô nhiễm, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng các
thành phần môi trường sống của nguồn thuỷ sinh.
Một nguyên nhân quan trọng nữa là sự biến đổi khí hậu. Biển và đại
dương là nơi hấp thụ nhiều khí CO2 nhất. Nhưng hiện nay, do các hoạt
động của con người, hàm lượng CO 2 trong không khí đã tăng lên đáng kể,
dẫn đến lượng CO2 trong nước biển tăng, gây ra hiện tượng axit hóa. Nước
biển bị axit hóa gây ảnh hưởng rất lớn đến các loài sinh vật biển, đặc biệt là
các loài sử dụng cacbonat canxi để tạo nên bộ khung cho cơ thể như san hô
và các loài giáp xác, thân mềm .
N hư vậy, chính bản thân thiên nhiên cũng đã và đang góp phần vào
quá trình suy giảm số lượng và chất lượng các loài thuỷ sinh. Tuy nhiên,
cần phải nhấn mạnh rằng, sự tác động của thiên nhiên tạo ra những ảnh
hưởng từ từ, chậm chạp. Tự nguồn thuỷ sinh có thể lấy lại được thế cân
bằng nếu không có sự tác động mạnh mẽ từ con người. Điều mà biện pháp
pháp luật nói riêng và các b iện pháp khác nói chung được thực hiện chính
là nhằm hạn chế các tác động tiêu cực từ con người.
2.2. N hững ảnh hưởng từ hoạt động của con người tới nguồn thuỷ sinh.
N hư trên đã trình bày, sự suy thoái về môi trường tự nhiên cũng gây
nên những tác động không nhỏ tới sự suy thoái của nguồn thuỷ sinh. Tuy
nhiên, thủ p hạm chính tạo ra những tác động nghiêm trọng cho sự suy thoái
thuỷ sinh lại chính là con người.
3
- Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, con người có
điều kiện để cải tiến công cụ sản xuất, thúc đẩy phát triển các hoạt động
công nghiệp cũng như nông nghiệp, và song song đó là quá trình đô thị
hoá, giao thông vận tải đường thuỷ…cũng làm nên sự ô nhiễm nặng nề cho
nguồn thuỷ sinh.
V í dụ như, với hàng chục nghìn lượt tàu thuyền ra vào cảng Hải
Phòng và phương tiện thủy nội địa hoạt động gia tăng trong khu vực, mỗi
năm, chúng đã thải ra sông, biển hàng nghìn tấn chất thải sinh hoạt, nhiên
liệu, cặn dầu, nước rửa tàu lẫn chất thải rắn, mạt kim loại, sơn và các chất
tẩy rửa trong quá trình hoạt động.
Bên cạnh đó, chính sự khai thác, đánh bắt, con người cũng góp phần
đáng kể vào quá trình suy thoái nguồn thuỷ sinh, như việc khai thác không
đúng phương pháp, không đúng kỹ thuật, hoặc dùng những phương tiện,
công cụ mang tính huỷ diệt hàng loạt…
Từ 10 năm trở lại nay, tốc độ tàu thuyền khai thác thủy sản tăng nhanh
đáng kể, cùng theo đó là hiện tượng khai thác bằng các ngư cụ phạm pháp:
mắt lưới quá nhỏ, mìn, đ iện, chất hóa học, đều gây nên tác động xấu tới
nguồn lợi hải sản và môi trường biển. Kết quả của nhiều cuộc điều tra cho
thấy tới hơn 50% số ngư dân được phỏng vấn đều cho rằng sản lượng khai
thác có xu hướng giảm, khuynh hướng này chắc chắn đe dọa tính bền vững
của nguồn lợi hải sản.
Sự nhiễm bẩn của nước do các hoạt động sản xuất nông nghiệp như
phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, hay như dầu, cyanur…cũng đã ảnh hưởng
trực tiếp đến môi trường sống của các lo ài thuỷ sinh.
Theo báo cáo hiện trạng Môi trường Việt Nam của Bộ Khoa Học
Công Nghệ thì từ năm 2000 đến nay, do ngư dân bắt đầu sử dụng cyanur
trong khai thác và có tới 50% số mẫu khảo sát cho thấy có hàm lượng
cyanur vượt quá giới hạn cho phép. Mặc khác, với mật độ tàu thuyền khai
thác lớn thì lượng chất thải, dầu, nước dằn tàu xả ra môi trường nước xung
4
- quanh cũng là một vấn đề gây nên ô nhiễm môi trường biển. Bên cạnh đó là
các sự cố, tai nạn hàng hải đều là nguyên nhân gây ô nhiễm, phá hủy môi
trường sống thuỷ sinh. Tổng sản lượng dầu xâm nhập vào môi trường biển
V iệt Nam năm 2000 đã là 17.650 tấn...
K hông những thế việc bón phân tươi trực tiếp cho các ao cá đã gây ô
nhiễm nước cùng với sự ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức tăng trưởng của
một số loài thuỷ sinh. Hầu hết, các hệ sinh thái của các vùng thành phố
ho ặc khu vực đông dân cư đ ều bị ô nhiễm.
N uôi trồng thủy sản mặn - lợ được xác định như hướng phát triển
mang tính đột phá của ngành thủy sản những năm qua. Với mục tiêu tăng
tỷ lệ sử dụng, mặt nước tiềm năng cho nuôi trồng thủy sản cũng như tăng
hơn nữa sản lượng nuôi trồng thủy sản. Vì vậy, rất nhiều diện tích rừng
ngập mặn, đất trồng lúa đã và đang được chuyển đổi sang làm đ ầm nuôi
tôm, cùng với các chất thải từ ao nuôi đ ã trở thành những nguy cơ gây ô
nhiễm hữu cơ nghiêm trọng cho các vùng ven biển.
Đ ặc biệt, do các hoạt động phát triển, một số b ãi sinh sản của các loài
thuỷ sinh (nhất là cá) đã bị mất. Ví dụ: sau khi hình thành hồ Hoà Bình và
hồ Thác Bà, bãi đẻ của cá Mòi, cá Cháy và các loài cá khác bị chìm sâu
dưới đáy hồ. Tương tự, bãi đẻ của các loài thuỷ sinh ở khu vực sông Thao,
sông Lô, hạ lưu sông Hồng đã bị mất từ 15 – 20 năm nay.
Các biện pháp thuỷ lợi cũng có ảnh hưởng rất lớn đến các loài thuỷ
sinh đắp đê lấn biển, ngăn mặn, đắp đê ngăn lũ làm phân cách mạng lưới
các hệ sinh thái ở nước, các quần xã sinh vật không được trao đổi và b ổ
sung cho nhau. Cùng với đó việc con người đắp đập chắn ngang sô ng xây
dựng các hồ chứa nước cũng làm thay đổi chất lượng nước, phân tách nhiệt
độ…dẫn tới là thay đổi sinh thái quần thể động thực vật ở vùng nước đó
làm mất đi một số loài sống ở vùng nước chảy, nước tĩnh và nước nông.
Thành phần của các loài thuỷ sinh tại các hồ chứa đều giảm rất nhiều so với
các sông hình thành ra nó. Ở thượng lưu hồ, nước bị ngập ứ, úng ở đoạn
5
- sông phía trên hồ chứa làm giảm khả năng tự làm sạch của nguồn nước, tốc
độ dòng chảy bị chậm lại làm thay đổi cuộc sống của thuỷ sinh vật, các loài
cá nước chảy phải nhường chỗ cho các loài cá nước tĩnh do không thể thích
nghi, dẫn đến sự tuyệt chủng của một số giống loài quý. Ở hạ lưu đập việc
chắn dòng chảy làm nhiều lo ài thuỷ sinh không thể di chuyển đến vùng cao
hơn, sản lượng cũng bị giảm. Lượng phù sa, lượng muối dinh dưỡng, hàm
lượng hữu cơ, sinh vật phù du ở các vùng hạ lưu cũng suy giảm nghiêm
trọng.
3. Thực trạng suy thoái thuỷ sinh
3.1. Trên thế giới
Một hệ sinh thái bền vững là m ột hệ sinh thái mang đ ến cho nguồn
thuỷ sinh môi trường sống an toàn. Ở những nơi đó, các loại tảo và san hô
phát triển mạnh, cung cấp thức ăn và nơi trú ẩn cho động vật biển. Nhưng
số lượng hệ sinh thái như vậy ngày càng ít đi. Kể từ năm 1950, 29% loại cá
mà con người có thể đánh bắt gần như đã tuyệt chủng (một loài được coi là
tuyệt chủng khi ít nhất 90% số lượng cá thể trong loài đã biến mất), và điều
đáng báo động là tốc độ biến mất của các loài thuỷ sinh ngày càng tăng.
Theo kết quả phân tích, nếu tốc độ này giữ nguyên thì những loài sinh vật
biển mà con người có thể đánh bắt hiện nay sẽ biến mất vĩnh viễn vào năm
2048.
Bên cạnh đó, theo tờ Mongabay.com, thì một phần ba số loài san hô
có nguy cơ tuyệt chủng, 415 vùng hệ sinh thái “chết”, số lượng cá mập và
cá ngừ giảm, và chỉ còn 1/4 diện tích đại dương giữ lại đ ược những đặc
tính như ban đầu.
Từ những năm 1950 đến nay, trữ lượng các loài cá có giá trị thương
mại cao như cá ngừ, cá hồi, cá tuyết, cá mũi kiếm và cá đuối đ ã bị giảm
đến 90%. Ở miền Bắc Atlantic, trong vòng một thế kỷ, các loài cá tuyết, cá
pôlắc, cá êfin đều giảm khoảng 89%. Loài cá ngừ vây xanh cũng là loài
đang có nguy cơ tuyệt chủng vì bị đánh bắt quá mức. Theo kết quả của một
6
- cuộc nghiên cứu ở vùng Tây Bắc biển Atlantíc, số lượng cá thể của loài cá
mập ở vùng biển này đã giảm đi 40- 89 % chỉ trong vòng 14 năm. Loài rùa
biển cũng không nằm ngoài số phận đó. Trong số 7 loài rùa biển có trên trái
đất thì có 6 loài đang bị đe dọa nghiêm trọng. Riêng loài rùa xanh đã giảm
hơn 99%.
3.2. Tại Việt Nam
X ét trong nền kinh tế quốc dân Việt Nam, nguồn lợi thu được từ thuỷ
sản chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng. Nhất là trong những năm gần
đây, phát triển nguồn thuỷ sản đã nhanh chóng đạt được mức sản lượng
tăng trưởng nhảy vọt, nhằm đảm bảo an ninh thực phẩm và tạo nguồn
nguyên liệu chủ yếu cho xuất khẩu. Việt Nam phấn đấu đến năm 2010 sẽ
đạt tổng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 2 triệu tấn, giá trị kim ngạch
xuất khẩu đạt trên 2.5 tỉ USD, tạo việc làm và thu nhập cho khoảng 2 triệu
người, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế xã hội và an ninh ven biển.
N goài ra, nguồn thuỷ sinh cũng là nguyên liệu quan trọng cho các ngành
sản xuất, cho các nghiên cứu khoa học, góp phần đa dạng nguồn gen, có ý
nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo cân bằng sinh thái.
Tuy vậy, thực trạng về nguồn thuỷ sinh của chúng ta lại lại là một thực
tiễn đáng buồn.
K hông chỉ giảm về sổ loài thuỷ sinh mà chất lượng các loài thuỷ sinh
cũng giảm rõ. Đối với các loài động vật thì thể hiện ở việc giảm kích thước.
Theo điều tra gần đây cho thấy rằng kích thước cá đánh bắt đ ược đã
giảm rõ rệt và số lượng cá to cũng không còn nhiều.
V í dụ như: Trên sông Hồng, bốn loài cá: lăng chấm, cá chiên, cá bỗng
và cá anh vũ đ ang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Sản lượng khai thác 4 loài cá
giảm xuống bằng 10-15% sản lượng những năm 70, 80; thậm chí lượng cá
bỗng chỉ xấp xỉ bằng 1%.
7
- Ảnh 1 - Cá anh vũ - một trong 4 loài cá quý hiếm trên sông Hồng
(nguồn fishternet.vn)
Thông tin này vừa được công bố trong Bản điều tra nghiên cứu về
hiện trạng và biện pháp bảo vệ, phục hồi một số loài cá hoang dã quí hiếm
có nguy cơ tuyệt chủng trên hệ thống sông Hồng của nhóm tác giả Phạm
Báu, Nguyễn Ðức Tuân, Bùi Ðình Ð ặng, Nguyễn Công Thắng (Viện
N ghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I).
Theo đó, 4 loại cá quý hiếm có tên khoa học là: Cá lăng chấm
(Hemibagrus gutattus Lacépède, 1803), cá chiên (Bagarius yarrelli Sykes,
1839), cá bỗng (Spinibarbus denticulatus Oshima, 1926) và cá anh v ũ
(Semilabeo obscous Lin, 1981). Tuy nhiên, sản lượng những loài cá được
coi là đặc sản hàng đ ầu của hệ thống sông Hồng này đang có nguy cơ tuyệt
chủng, xếp ở mức nguy cấp bậc 2.
Báo cáo cho thấy, sự phân bố của 4 loài cá này trên hệ thống sông
Hồng đang ngày càng thu hẹp, nhìn chung có xu hướng lùi dần về phía
thượng lưu các sông, suối, nơi có địa hình hiểm trở, phía hạ lưu không gặp
ho ặc rất ít gặp. Bãi đẻ của 4 loài này hầu như không còn, cá đ ẻ phân tán, rải
rác trên khu vực thượng nguồn các sông, suối.
N ói đến suy thoái thủy sinh không thể không nói tới sự suy thoái
nguồn thực vật biển mà cụ thể là sự suy thoái các rạn san hô.
Sự suy thoái của các rạn san hô biểu hiện ở việc giảm sút về các rạn
san hô.Một điêu tra san hô gần đây cho thấy 200 điểm rạn san hô được
8
- khảo sát ở vùng ven biển Việt Nam cho thấy trong vòng mười năm qua độ
che phủ của san hô suy giảm một các đáng kể. Theo số liệu tài nguyên th ế
giới (2000- 2002) đã cảnh báo 80% rạn san hô biển Việt Nam nằm trong
tình trạng rủi ro, 50% ở trong tình trạng rủi ro cao và tình trạng thảm thực
vật cũng đang trong tình trạng tương tự.
Ảnh 2 - San hô chết ở Vịnh Hạ Long
(nguồn :www.dantri.vn)
Các nhà khoa học đánh giá Việt Nam là một trong những nước có rạn
san hô bị đe dọa nghiêm trọng. Bằng chứng là có đến 80% rạn san hô đang
bị con người tấn công. Hiện Việt Nam có khoảng 1.122km2 rạn san hô với
hơn 300 loài nhưng chỉ 1% rạn được xếp vào loại tốt, 8% rạn trong khu vực
các khu bảo tồn. Ở những khu bảo tồn như Hòn Mun, Núi Chúa, không một
ai đ ủ tự tin khẳng định ngăn chặn triệt để tình trạng khai thác san hô, và
theo lời 1 quan chức có thẩm quyền dự tính: "Mỗi năm, mất hơn 50 tấn san
hô chưa kể mất san hô đen ở Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ninh, Hải
Phòng, theo đà này 20 năm nữa san hô sẽ không còn trong vùng biển Việt
N am...".
Đ iều tra các nguồn đánh bắt hải sản thời gian gần đây ở vùng vịnh
H ạ Long và xung quanh, các nhà khoa học cũng thấy vắng bóng các loại
hải sản quý như cá bướm, mú, kiếm, ốc nón, ốc tù và con tranh học, v.v...
9
- Bộ Thủy sản cho biết, sản lượng khai thác của các tàu giảm từ 1,1 tấn/sức
ngựa vào năm 1985 xuống còn 0,45 tấn/sức ngựa vào năm 2006 . Cũng ở
hoàn cảnh tương tự, tại tỉnh Khánh Hòa nhiều loài hải sản quý bị khai thác
cạn kiệt
Ảnh 3 - Rùa biển-loài sinh vật đang có nguy cơ tuyệt chủng.
(Nguồn: Cục bảo vệ môi trường).
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Khánh Hòa, nhiều loài
hải sản quý trên vùng biển địa phương hiện đang bị khai thác đến mức kiệt
quệ; trong đó có nhiều loài đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, như: rùa biển,
hải sâm, cầu gai sọ dừa, cá ngựa, sò huyết...
Loài hải sâm trắng ở đầm Thủy Triều (huyện Cam Lâm), trước năm
1987 có sản lượng hàng năm từ 150- 200 tấn, nhưng hiện nay còn lại rất ít.
Các loài hải sâm đen, hải sâm mít, hải sâm dừa, hải sâm vú... là các đối
tượng kinh tế quan trọng, có giá trị thương mại cao ở vịnh Nha Trang, hiện
cũng nằm trong hoàn cảnh tương tự.
Loài cầu gai sọ dừa ở vịnh Nha Trang tập trung nhiều ở Rạn Chắn v à
Rạn Cạn, đã bị khai thác ồ ạt với sản lượng thành phẩm có năm lên đến
hàng chục tấn, đến nay đã cạn kiệt...
Vùng biển Khánh Hòa có tổng trữ lượng hải sản khoảng 150.000 tấn,
cho phép khai thác ở mức 70.000 tấn/năm. Trên thực tế sản lượng khai thác
10
- được từ 60.000 tấn- 68.000 tấn/ năm, nhưng các loài hải sản quý hiếm với
giá trị kinh tế cao luôn là đối tượng bị săn lùng, đánh bắt triệt để.
Trong nghị định số 82/2008 QĐ-BNN ngày 17/7/2008 ra quyết định
có 158 loài sinh vật thuỷ sinh có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam.
N guồn lợi gần bờ cũng sẽ chậm phục hồi do các nơi sinh cư tự nhiên
quan trọng ở đây như các rạn san hô, thảm cỏ biển và rừng ngập mặn…bị
phá huỷ nghiêm trọng do các ho ạt động phát triển ở vùng ven biển và lưu
vực sông (tốc độ mất rừng ngập mặn do các hoạt động sản xuất trong giai
đo ạn 1995-2005 ước khoảng 15.000 ha/năm). Điều này dẫn đến không gian
sống của các loài thủy sinh ngày càng khan hiếm, tính đa dạng sinh học
ngày càng mất đi, tính bất ổn định của hệ sinh thái ngày càng tăng cao.
H iện nay nguồn lợi thủy sản vùng gần bờ có xu hướng giảm dần về trữ
lượng, sản lượng và kích thước các lo ài thủy sản đánh bắt. Một số lo ài cá
kinh tế thông thường vẫn đánh bắt với số lượng lớn, đến nay đã trở nên
khan hiếm. Mùa vụ và khu vực hải sản tập trung có những thay đổi đáng
kể. Sự phân biệt mùa vụ ( vụ Bắc, vụ Nam ) xuất hiện không còn rõ như
những năm 1985-1995. Các đàn cá nổi nhỏ có kích thước trung b ình xuất
hiện thưa và xa b ờ trong vòng 10 năm (1995- 2005 ) đã giảm trên 30% trữ
lượng, có những biểu hiện thay đổi về cấu trúc quần xã thủy sinh vật ở hầ u
hết các vùng biển, đặc biệt khu vực có độ sâu dưới 30 m ở Vịnh Bắc Bộ,
đông tây Nam Bộ và dưới 50- 100m ở ven biển miền Trung. Mật độ quần
thể các lo ài thủy sản có giá trị khai thác giảm đáng kể, có những loài nhiều
năm không gặp như cá đường, cá gộc... ở vùng biển đông tây Nam Bộ,
cũng như một số loài cá có giá trị thương mại, đối tượng khai thác như
trích, nục, lầm, cơm...Tình hình tương tự cũng xảy ra đối với cá heo ở ven
biển miền Trung. 17 loài cá biển đang có nguy cơ b ị tuyệt chủng. Trong
nước ngọt, 57 lo ài cá nước ngọt đang bị đe doạ tuyệt chủng, trong đó có 6
loài có nguy cơ tuyệt chủng, 4 loài bị đe dọa và 8 loài q uý hiếm. Nguyên
nhân là do còn đ ánh bắt bằng phương pháp hủy diệt như đánh m ìn, dùng
11
- hoá chất độc, xung điện, lưới mắt nhỏ, khai thác trái vụ và suy giảm chất
lượng hệ sinh thái.
N ghề khai thác tôm ở bãi Mỹ Miều , cửa Ba Lạt, Vũng Tàu và vùng
biển Tây Nam cho thấy trữ lượng tôm biển trong những năm gần đây giảm
tương đối rõ. Đặc biệt các loài tôm có giá trị kinh tế thuộc họ tôm he, tôm
hùm, mức độ giảm từ 40- 90% so với trước năm 1980. Tỷ lệ tôm chất
lượng thấp chiếm hơn 7 0% thậm chí tới 80-90% sản lượng mẻ lưới ở các
vùng nước sâu ngo ài 15m. Kích thước tôm cũng giảm đáng kể và có thể nói
hầu hết các năm sản lượng tôm khai thác đều vượt quá giới hạn cho phép.
Đ ến nay đã có khoảng 85 loài hải sản có mức độ nguy cấp khác nhau, trong
đó nhiều loài vẫn đang là đối tượng tập trung khai thác như các loài giáp
xác, nhuyễn thể, một số loài cá rạn san hô. Cụ thể:
+ Đang bị đe doạ tuyệt chủng(mức độ E): 17 loài
+ Có thể bị đe doạ tuyệt chủng (mức độ V): 20 loài
+ Loài hiếm có thể suy cấp (mức độ R): 39 loài
+ Bị đe doạ (mức độ T) : 9 loài
N goài ra trong nghị định 182/2008 QĐ -BNN ngày 17/7/2008 ra quyết
định có 158 loài sinh vật thuỷ sinh có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam.
N guồn lợi gần bờ cũng sẽ chậm phục hồi do các nơi sinh cư tự nhiên
quan trọng ở đây như các rạn san hô, thảm cỏ biển và rừng ngập mặn…bị
phá huỷ nghiêm trọng do các hoạt động phát triển ở vùng ven biển và lưu
vực sông ( tốc độ mất rừng ngập mặn do các hoạt động sản xuất trong giai
đo ạn 1985-2000 ước khoảng 15.000 ha/năm ). Điều này dẫn đến không
gian sống của các loài thủy sinh ngày càng khan hiếm, tính đa dạng sinh
học ngày càng mất đi, tính bất ổn định của các hệ sinh thái ngày càng tăng
cao.
Trong đất liền thì các loài thủy sinh cũng bị đe dọa nghiêm trọng bởi
hành động tiêu cực của con người như: làm ô nhiễm nguồn nước , việc
nhập khẩu các sinh vật ngoại lai.
12
- Ảnh 4 - Ô nhiễm sông Đồng Nai, cá ch ết hàng loạt.
(Ảnh: Trần Duy)
H iện nay ở nước ta các con sông bị ô nhiễm hàng loạt đã làm suy giảm
các nguồn lợi thủy sinh như: ô nhiễm sông Hồng, sông Đồng Nai, sông Thị
V ải...Các loài sinh vật trong các con sông này đã chịu ảnh hưởng nặng nề.
K ết quả điều tra cho thấy, hơn một nửa thế kỷ qua, đã có trên 40 loài
động vật thủy sinh lạ được nhập khẩu vào Việt Nam để sản xuất thực
phẩm, làm cảnh, tập trung nhiều nhất ở 2 vùng đồng bằng Bắc bộ và Nam
bộ.
Tiến sĩ Lê Thiết Bình, một thành viên của nhóm các nhà khoa học
thuộc Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi Thủy sản, cho rằng việc phát
triển các loài đ ộng vật thủy sinh này đ ã góp phần tạo ra giá trị kinh tế và
tăng thu nhập cho người nuôi trong nước. Tuy nhiên, có nhiều loài trong số
đó đang khiến các loài thủy sinh bản địa trở nên khan hiếm và bị đe dọa
tiêu diệt do cạnh tranh thức ăn và nơi ở. Điều này khiến nghề nuôi cá
truyền thống bị ảnh hưởng trực tiếp, thậm chí có nguy cơ bị thay thế bởi
việc phát triển các giống cá nhập khẩu.
13
- H ơn thế, các động vật thủy sinh lạ xâm nhập Việt Nam đã và đang làm
suy thoái đa d ạng sinh học ở nước, phá hủy nơi ở, chuỗi thức ăn và lưới
thức ăn đã hình thành của quần xã sinh vật đang sinh sống ở địa phương.
Ảnh 5 - Ốc bươu vàng và cá hổ là những loài sinh
vật lạ đ ược nhập vào Việt Nam trước đây
( nguồn: www.thiennhien.net )
V iệc nhập khẩu các loài động vật ngoại lai cũng góp phần làm suy
giảm nguồn lợi thủy sinh. Ở hồ Trị An thì các sinh vật trong hồ đang bị đe
dọa nghiêm trọng do sự xuất hiện loài cá ăn thịt là cá chim trắng và cá
Hoàng Đế có nguồn gốc từ Nam Mỹ. Một số lo ài cá được nhập vào Việt
N am có giá trị kinh tế cao và tăng thu nhập cho người nuôi để làm thực
phẩm, làm cảnh. Tuy nhiên sự xuất hiện của chúng laị khiến các loài thủy
sản nội địa bị thay thế rồi sẽ dần dẫn đến sự suy giảm sự đa dạng các loài
trong nước. Như cá Trôi Việt bị thay thế bởi trôi Ru và Mrigan; Mè trắng
V iệt Nam bị thay thế bởi mè trắng Trung Quốc.
Một số loài thì bị lai tạp dẫn đến sự mất dần giống thuần trong nước
như: cá trê phi cho lai rộng rãi với các lo ài địa phương, cá chép nhập cho
lai rộng rãi với cá chép địa phương. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới các loài
giống thuần trong nước.
14
- K ết quả điều tra cho thấy, hơn một nửa thế kỷ qua, đã có trên 40 loài
động vật thủy sinh lạ được nhập khẩu vào Việt Nam để sản xuất thực
phẩm, làm cảnh, tập trung nhiều nhất ở 2 vùng đồng bằng Bắc bộ và Nam
bộ.
4. Yêu cầu phát triển bền vững nguồn thuỷ sinh:
N guồn thuỷ sinh cần phải được phát triển theo hướng bền vững. Phát
triển bền vững nguồn thuỷ sinh là sự phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu về
thuỷ sinh của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng của thế hệ
trong tương lai đáp ứng các nhu cầu của họ. Phát triển bền vững nguồn
thuỷ sinh đòi hỏi đảm bảo sử dụng đúng mức và ổn định nguồn lợi này
cũng như môi trường sống của chúng. Mọi sự phát triển không theo hướng
bền vững đều phải trả giá.
K iểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh một cách bền vững nghĩa là phải
đảm bảo vừa tôn trọng cơ sở khoa học, vừa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế. Trong quá trình kiểm soát, phải đáp ứng đạt đ ược mục tiêu phát triển lâu
bền, đồng thời phải đảm bảo đời sống cho ngư dân. Đây chính là yêu cầu
phát triển bền vững nguồn thuỷ sinh. Trên cơ sở yêu cầu này, nhà nước đã
và đang có chính sách bảo đảm phát triển bền vững nguồn thuỷ sinh,
khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân khai thác và sử
dụng hợp lý nguồn thuỷ sinh, bảo đảm tái tạo nguồn thuỷ sinh và phát triển
nuôi trồng thuỷ sản trên biển, sông, hồ, đầm, phá và các vùng nước tự
nhiên khác.
N hững năm gần đây, phát triển bền vững đã được nhiều tổ chức quốc
tế, nhiều nước hết sức chú ý xây dựng các mô hình dự án, chính sách phát
triển kinh tế - x ã hội.
Phát triển bền vững không chỉ là tăng trưởng kinh tế hợp lý, mà phải
bảo đảm tính bền vững về môi trường sinh thái và ổn định xã hội, thoả
mãn nhu cầu trước mắt và lâu dài.
15
- Một định hướng mục tiêu như vậy quả là rất khó khăn, phức tạp để
triển khai các mô hình, thậm chí một số nhà nghiên cứu còn cho rằng đây
chỉ là vấn đề lý thuyết, ý tưởng tốt đẹp.
Đối với nghề cá nước ta hiện nay vùng hải sản gần bờ đang bị khai
thác quá mức (năm 1993 một m ã lực công suất máy tàu cá khai thác được
0,7 tấn, năm 2003 chỉ còn 0,35 tấn). Sản lượng và kích cỡ cá đánh bắt
được giảm dần, chất lượng môi trường suy giảm, đã có tới 17 loại hải sản
đang dự báo có nguy cơ tuyệt chủng.
N guồn lợi thủy sản là nguồn lợi có khả năng tái tạo, nếu duy trì được
mức độ khai thác hợp lý, bảo đảm trữ lượng cá thuần thục để sinh trưởng
trong môi trường thuận lợi. Như vậy việc bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản và
môi trường vùng biển gần bờ, vùng quan trọng nhất của nghề khai thác và
nuôi trồng hải sản là một yêu cầu bức thiết.
Đ ể đảm bảo thực hiện được yêu cầu phát triển bền vững nguồn thủy
sinh, nhà nước đã ban hành các chính sách nhằm khuyến khích các tổ chức,
cá nhân đầu tư, nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ tiên tiến, phát
triển nguồn nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng trong phát triển nguồn thuỷ
sinh nói chung và hoạt động thủy sản nói riêng. Các hoạt động phát triển
nuôi trồng thuỷ sản sạch, đẩy mạnh hoạt động khuyến ngư đ ể phục vụ có
hiệu quả hoạt động thuỷ sản, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản, việc
tham gia bảo hiểm về người và tài sản trong hoạt động thuỷ sản của các tổ
chức cá nhân đảm bảo phát triển bển vững nguồn thuỷ sinh đều được nhà
nước khuyến khích. Một phần ngân sách nhà nước sẽ dành cho việc đầu tư
xây dựng các trung tâm giống thuỷ sản quốc gia thuộc các viện nghiên cứu
và trung tâm nghiên cứu của ngành về giống thuỷ sản nước ngọt, giống hải
sản ở các vùng sinh thái đặc trưng để thực hiện các nhiệm vụ:
+ Sản xuất giống gốc các loài thuỷ sản kinh tế nhằm đảm bảo giữ cho
giống có năng suất, chất lượng ổn định.
16
- + Lưu giữ giống gốc, bảo vệ nguồn gen những loài thủy sinh, thuỷ sản
quý, hiếm và có khả năng xuất khẩu.
+ Nhập khẩu giống gốc, giống mới, giống thuỷ sinh, thuỷ sản quý có khả
năng thuần hoá để sản xuất rộng rãi. N hập công nghệ sản xuất giống những
loài thuỷ sản có năng suất và chất lượng cao, trước hết tập trung vào công
nghệ sản xuất giống các loài thuỷ sản có khả năng xuất khẩu.
V í dụ: Chính phủ quyết định chi 576 tỷ đồng giai đo ạn từ nay ( từ năm
2008) đến 2020 để triển khai Đề án bảo vệ các loài thuỷ sinh quý hiếm có
nguy cơ tuyệt chủng. Số tiền này sẽ xây dựng thí điểm khu bảo vệ một số
loài thủy sinh đặc hữu, điển hình như cá Mòi Cờ, cá Cháy, cá Chiên, cá
Chình, cá Anh vũ...
Trong đó, giai đoạn từ nay đến 2010 Ngân sách Nhà nước sẽ đầu tư
228 tỷ đồng; từ 2010 -2015 là 223 tỷ đồng và từ 2016 đến 2020 là 125 tỷ
đồng để triển khai đề án.
K hông những thế, Nhà nước còn có dự định xây dựng Bảo tàng các
loài thủy sinh vật Việt Nam, cùng với nhiều chương trình khác như
“Chương trình Bảo vệ và Phát triển Nguồn lợi Thủy sản đến năm 2010"
vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hệ thống này bao gồm Trung
tâm Dữ liệu Quốc gia về Thủy sinh vật; một hoặc hai bảo tàng lưu giữ,
trưng bày các loài thủy sinh vật Việt Nam.
Mặt khác yêu cầu phát triển bền vững nguồn thuỷ sinh còn được nhà
nước thực hiện thông qua hoạt động phát triển kinh tế thuỷ sản trên cơ sở
quy hoạch phát triển ngành thu ỷ sản phù hợp với quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế -xã hội trong phạm vi cả nước và của từng địa phương, đảm
bảo việc xây dựng các công trình ven sông, ven biển hoặc gần khu vực nuôi
trồng thuỷ sản không làm ảnh hưởng đến nguồn thuỷ sinh.
17
- Ảnh 6 - khu vực nuôi tôm ven biển
(Nguồn: vietbao.com)
Thủy sản là một trong những ngành kinh tế quan trọng của nước ta.
Trong nhiều năm qua, ngành thủy sản đã giải quyết việc làm cho hàng triệu
lao động, bảo đảm nguồn thực phẩm dồi d ào cho xã hội, góp phần quan
trọng vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước, đặc biệt là giá trị xuất khẩu.
Trên cơ sở yêu cầu phát triển bền vững nguồn thủy sinh, pháp luật về
kiểm soát suy thoái thuỷ sinh đã quy đ ịnh nghĩa vụ bảo vệ, tái tạo và phát
triển nguồn thuỷ sinh, xác định các hành vi bị nghiêm cấm trong khi tiến
hành các hoạt động có nguy cơ gây hại nguồn thuỷ sinh, các công cụ,
phương tiện, phương thức đánh bắt trong hoạt động thuỷ sản nhằm bảo vệ
nguồn thuỷ sinh, thức ăn, thuốc và các loại hoá chất dùng trong nuôi trồng
thủy sản có nguy cơ tác đ ộng đến nguồn thuỷ sinh.
18
- PHẦN II: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT SUY
THOÁI THỦY SINH
Sự suy thoái nguồn thuỷ sinh là vấn đề thực sự quan trọng vì vai trò
to lớn của nguồn thuỷ sinh. D o đó ta cần phải quan tâm đến việc kiểm soát
suy thoái nguồn thuỷ sinh. Thế nào là kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh?
“ K iểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh chính là việc nhà nước áp dụng
các biện pháp hữu hiệu nhất nhằm phát hiện, ngăn chặn những nguyên
nhân gây ra hiện tượng suy thoái của nguồn thuỷ sinh.”
K iểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh diễn ra trên nhiều lĩnh vực, kể cả
quản lý xã hội và lĩnh vực quản lý thế giới tự nhiên hữu sinh và vô sin h.
K iểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh phải bao gồm kiểm soát tự nhiên và
kiểm soát xã hội. Cần nhấn mạnh lý luận kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ
sinh là vì đối tượng tác động quan trọng nhất của việc kiểm soát này chính
là người khai thác, người sử dụng nguồn lợi .
K iểm soát tự nhiên là việc kiểm soát các tác động bất lợi của thế g iới
tự nhiên xung quanh tác động đến các loài thuỷ sinh làm cả chất lượng và
số lượng.
K iểm soát x ã hội là vấn đề đặc biệt cần được coi trọng, nhất là kiểm
soát những tác động tiêu cực của con người. Bởi vì những tác động tiêu cực
của con người ảnh hưởng vô cùng lớn đến hệ sinh thái nói chung và nguồn
thuỷ sinh nói riêng. Từ hàng trăm năm trước,các nhà sinh học đã phát hiện
ra việc đánh bắt bằng chất nổ tác hại lớn đến môi sinh, môi trường và
nguồn thuỷ sinh. To àn quyền Đông Dương đã ban hành lệnh cấm đánh bắt
bằng chất nổ vào đầu thế kỷ. Trải qua gần một trăm năm, dù qua nhiều chế
độ xã hội khác nhau, mong muốn loại trừ hoàn toàn việc đánh bắt cá bằng
chất nổ vẫn mang tính thời sự và Việt Nam cũng không ngo ại lệ. Tuy
nhiên, hiện nay chúng ta vẫn chưa có được cơ chế hữu hiệu để thực thi. Do
đó, việc đi sâu vào các giải pháp tự nhiên, giải pháp sinh học khó có hiệu
quả thực sự. V iệc kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh muốn có hiệu quả
19
- trước tiên cần kiểm soát sự tác động của con người vào môi trường , trên cơ
sở của những quy định pháp luật, cụ thể như sau:
1. Những quy định về bảo vệ, tái tạo và phát triển giống loài thuỷ sinh:
1.1. Các quy định về bảo vệ môi trường sống của các loài thuỷ sinh.
Môi trường sống là nhân tố quan trọng quyết định sự sống còn và chất
lượng của các loài thuỷ sinh. Do vậy, mọi hoạt động của con người đều
phải đảm bảo giữ gìn và cải thiện chất lượng môi trường sống cho chúng.
Theo quy định của Điều 7 Luật thuỷ sản năm 2003 và Luật môi trường năm
2005 thì ta có thể khái quát thành một số vấn đề sau:
- Các tổ chức, cá nhân đều phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường
sống của các loài thuỷ sản nói riêng và nguồn thuỷ sinh nói chung. Mọi
ho ạt động có nguy cơ tác đ ộng đến môi trường sống của nguồn thuỷ sinh
đều phải được áp dụng các biện pháp nhằm triệt tiêu đến mức tối đa sự tác
động đó.
- Khi xây dựng mới, thay đổi hoặc phá bỏ các công trình có liên quan
đến môi trường sống, di cư, sinh sản của các loài thuỷ sinh đều phải thực
hiện việc đánh giá tác động môi trường theo quy định của pháp luật.
- Các hoạt động khai thác thuỷ sản bằng đặt đăng, đáy hoặc bằng
phương pháp ngăn, chắn khác ở các sông, hồ, đầm, phá phải dành hành
lang cho các loài thuỷ sinh di chuyển theo quy định của uỷ ban nhân địa
phương.
- Bảo đảm điều kiện vệ sinh môi trường, phòng ngừa dịch bệnh thuỷ
sản; không được sử dụng hóa chất độc hại hoặc tích tụ độc hại.
- Không được xây dựng khu nuôi trồng thuỷ sản tập trung trên bãi b ồi
đang hình thành vùng cửa sông ven biển; phá rừng ngập mặn để nuôi trồng
thuỷ sản (Quy định tại Điều 47 Luật bảo vệ môi trường).
1.2. Các quy định về khuyến khích đầu tư vào bảo vệ và phát triển
giống loài thuỷ sinh.
20
nguon tai.lieu . vn