Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA THỦY SẢN ĐẶNG KIM THANH NUÔI SINH KHỐI ARTEMIA TRÊN BỂ LÓT BẠT VỚI MẬT ĐỘ CAO LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2009
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA THỦY SẢN ĐẶNG KIM THANH NUÔI SINH KHỐI ARTEMIA TRÊN BỂ LÓT BẠT VỚI MẬT ĐỘ CAO LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN CÁN BỘ HƯỚNG DẪN ThS. NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN KS. TRẦN HỮU LỄ 2009
  3. LỜI CẢM TẠ Xin gởi lời cám ơn chân thành và sâu sắc đến: * Ban chủ nhiệm Khoa Thủy sản-Trường Đại học Cần Thơ * Qúy thầy cô Khoa Thủy sản * Cô Nguyễn Thị Hồng Vân * Thầy Trần Hữu Lễ * Các anh chị trong Trung Tâm Ứng Dụng và Chuyển Giao Công Nghệ. * Các anh công nhân tại trại thực nghiệm Artemia Vĩnh Châu-Khoa Thủy sản * Tập thể lớp Liên Thông Nuôi Trồng Thủy Sản K33 Đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành Luận văn Tốt nghiệp, cũng như giúp tôi hoàn thành khóa học này. Do thời gian có hạn và kiến thức còn hạn chế nên Luận văn còn nhiều điểm thiếu sót. Kính mong quý Thầy cô và các bạn góp ý để bài viết hoàn chỉnh hơn.
  4. TÓM TẮT Đề tài nuôi sinh khối Artemia trên bể lót bạt được thực hiện gồm hai thí nghiệm: Trong thí nghiệm 1 Artemia được bố trí trong chai 500 ml chứa 400 ml nước 50‰, với mật độ nuôi 200 con/chai. Thức ăn là 5 loại phụ phẩm nông nghiệp gồm: đậu nành rang, đậu nành tươi, cám gạo, cám ủ men và bột mì tinh. Kết quả sau 14 ngày nuôi cho thấy tỷ lệ sống của Artemia ở nghiệm thức bột mì tinh cao nhất (53,3±15,3%) kế đến là cám ủ men (46,6±9,3%), cám gạo (41,3±5,4%), đậu nành rang có tỷ lệ sống thấp nhất (2,0±1,8%) và ở nghiệm thức cho ăn bằng đậu nành tươi thì Artemia chết toàn bộ vào ngày thứ 5. Về tăng trưởng nhanh nhất là cám ủ (8,32±0,1 mm), kế đến là cám gạo (7,80±0,03 mm), bột mì tinh (5,52±0,47 mm) và thấp nhất là đậu nành rang (2,20±0,2 mm). Ở thí nghiệm 2, Artemia được thả nuôi trong các bể lót bạt 2 m3 ngoài trời với thức ăn là cám ủ và cấp nước từ ao bón phân. Sau thời gian nuôi là 14 ngày kết quả cho thấy tỷ lệ sống có khác biệt nhưng không có ý nghĩa thống kê (p
  5. MỤC LỤC MỤC LỤC ................................................................................................ iii DANH SÁCH BẢNG .................................................................................v DANH SÁCH HÌNH .................................................................................vi Chương 1 ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................1 1.1 Giới thiệu.........................................................................................1 1.2 Mục tiêu .........................................................................................2 1.3 Nội dung .......................................................................................2 Chương 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU ...........................................................3 2.1 Sơ lược về đặc điểm sinh học của Artemia.......................................3 2.2 Lịch sử nghiên cứu về nuôi sinh khối Artemia trong nước ...............7 2.3 Giá trị dinh dưỡng của Artemia........................................................8 2.4 Sơ lược về tầm quan trọng và giá trị sử dụng sinh khối Artemia ......8 Chương 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU....................10 3.1 Vật liệu nghiên cứu........................................................................10 3.1.1 Dụng cụ, vật tư và hóa chất .....................................................10 3.1.2 Nguồn trứng Artemia ..............................................................10 3.1.3 Nguồn nước ............................................................................10 3.1.4 Thời gian và địa điểm .............................................................10 3.2 Phương pháp nghiên cứu................................................................10 3.2.1 Xử lý nước..............................................................................11 3.2.2 Gây màu nước.........................................................................11 3.2.3 Phương pháp ấp trứng Artemia................................................11 3.2.4 Thả giống................................................................................12 3.2. 5 Phương pháp bố trí thí nghiệm ...............................................12 3.2.6 Thu hoạch ...............................................................................15 3.3 Phương pháp tính toán một số chỉ tiêu ...........................................16 3.4 Phương pháp phân tích mẫu và xử lý số liệu .................................16 Chương 4 KẾT QUẢ THẢO LUẬN.........................................................17 4.1 Thí nghiệm 1 .................................................................................17 4.1.1Điều kiện môi trường ...............................................................17 4.1.2 Tỷ lệ sống và chiều dài của Artemia........................................19 4.2 Thí nghiệm 2 .................................................................................20 42.1 Điều kiện môi trường ..............................................................20 4.2.2 Tỷ lệ sống, chiều dài và trọng lượng .......................................26 4.3 Thảo luận.......................................................................................29
  6. DANH SÁCH HÌNH Hình 2.1: Vòng đời của Artemia (Jumalon và ctv., 1982) ............................4 Hình 2.2: Hình mô phỏng ấu trùng và Artemia trưởng thành .......................5 Hình 2.3: Artemia trưởng thành và hiện tượng bắt cặp ................................6 Hình 3.1 Cân và cho nở trứng Artemia......................................................12 Hình 3.2 Artemia giai đoạn Instar I, II, III .................................................12 Hình 3.3 Bể thí nghiệm nuôi Artemia sinh khối.........................................14 Hình 3.4 Thu hoạch sinh khối Artemia......................................................16 Hình 4.1: Sự biến động pH trong quá trình nuôi........................................17 Hình 4.2a: Biến động hàm lượng NH3 trong thời gian thí nghiệm ............18 Hình 4.2b: Biến động hàm lượng NO2- trong thời gian thí nghiệm ...........18 Hình 4.3: Nhiệt độ trung bình lúc 7 giờ và 14 giờ của các bể thí nghiệm...21 Hình 4.4: pH trung bình của các bể nuôi thí nghiệm..................................24 Hình 4.5: Biến động NH3 (mg/l) theo thời gian nuôi..................................25 Hình 4.6: Hàm lượng NO2- trong các bể thí nghiệm ................................26 Hình 4.7: Năng suất sinh khối (kg/2m3) thu được sau 14 ngày nuôi .........28 Hình 4.8: Artemia bị dính chân khi cho ăn bột đậu nành ...........................30
  7. DANH SÁCH BẢNG Bảng 3.1: Theo dõi một số yếu tố môi trường trong thời gian thí nghiệm..14 Bảng 4.1: Tỷ lệ sống (%) của Artemia sau 8, 11, và 14 ngày nuôi .............19 Bảng 4.2: Chiều dài của Artemia (mm) sau 7 và 14 ngày nuôi (TB±ĐLC) 20 Bảng 4.3: Một số yếu tố môi trường trong bể nuôi (TB±ĐLC)..................21 Bảng 4.4: Tỷ lệ sống của Artemia (%) trong quá trình nuôi (TB±ĐLC) ....26 Bảng 4.5: Chiều dài của Artemia (mm) trong thời gian nuôi (TB±ĐLC) ...27 Bảng 4.6: Trọng lượng của Artemia (cá thể/1g) trong thời gian nuôi ........28 Bảng 4.7: Hạch toán kinh tế trên bể lót bạt với mật độ 1000 cá thể/lít .....32 Bảng 4.8: Hạch toán kinh tế trên bể lót bạt với mật độ 1500 cá thể/lít .....32 Bảng 4.9: Hạch toán kinh tế trên bể lót bạt với mật độ 2000 cá thể/lít ......32
  8. Chương 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1 Giới thiệu Trong thời gian gần đây, nghề nuôi thủy sản ở Việt Nam đang phát triển mạnh. Theo kế hoạch của bộ Thủy sản, đến năm 2010 tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ta sẽ phấn đấu đạt trên 2.000.000 tấn. Nhắm tới mục tiêu này, diện tích nuôi thủy sản sẽ được mở rộng và cùng với việc gia tăng diện tích nuôi thì nhu cầu con giống để đáp ứng cho người nuôi cũng ngày một gia tăng. Do đó, nghề nuôi sinh vật làm thức ăn cho ấu trùng thủy sản (nuôi thức ăn tự nhiên) đóng vai trò rất quan trọng. Trong số những nguồn thức ăn tự nhiên được sử dụng cho nuôi trồng thủy sản thì Artemia được sử dụng rộng rãi nhất, Artemia từ lâu đã được biết đến như một nguồn thức ăn tươi sống giàu dinh dưỡng cho ấu trùng tôm cá, đặc biệt là các giống loài hải sản. Theo truyền thống, các trại giống thường chỉ sử dụng Artemia nauplii được nở từ trứng bán rộng rãi trên thị trường và như vậy giá thành của con giống phần nào phụ thuộc vào sự biến động về giá cả của trứng Artemia, chưa kể đến sự khan hiếm trứng khi nhu cầu cao hơn nguồn có thể cung cấp. Để hạn chế phần nào sự phụ thuộc này người ta nghĩ đến việc sử dụng nguồn sinh khối Artemia. Nhiều kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng Artemia tiền trưởng thành và trưởng thành có giá trị dinh dưỡng cao hơn ấu trùng mới nở (Sorgeloos, 1980; Leger et al, 1986) với hàm lượng đạm trên 50%, chất béo trên 10% và HUFA biến động trong khoảng 0,3-15 mg/DW (Sorgeloos et al.,1996), sinh khối Artemia càng trở thành nguồn thức ăn được lựa chọn để thay thế cho nhiều loại thức ăn tự nhiên như Moina, Trùn chỉ, giun đỏ,…trong ương nuôi tôm, cua, cá giai đoạn giống. Do vậy, việc phát triển sản phẩm mới Artemia sinh khối mang tính chất chiến lược vô cùng quan trọng trong bối cảnh mà sản phẩm trứng Artemia đang bị cạnh tranh gay gắt và tiềm năng cho sản phẩm Artemia sinh khối (sử dụng cho các giai đoạn ương tôm, cá giống, giai đoạn nuôi vỗ tôm cá bố mẹ,…hoặc sử dụng cho nghề nuôi cá cảnh) đang ngày một gia tăng. So với sinh khối nuôi ngoài ao thì sinh khối nuôi trong bể có ưu điểm là có thể thu theo kích thước mong muốn để phù hợp với kích cỡ bắt mồi của ấu trùng tôm cá, đồng thời có thể kiểm soát được chất lượng dinh dưỡng, nguồn bệnh và không phụ thuộc vào mùa vụ. Xuất phát từ thực tế trên, đề tài “Nuôi sinh khối Artemia trên bể lót bạt với mật độ cao” được thực hiện. 1.2 Mục tiêu
  9. Tìm hiểu khả năng nuôi sinh khối mật độ cao trên bể lót bạt, hướng tới phục vụ cho các trại giống thủy sản trong nuôi vỗ cá bố mẹ và ương nuôi giống. 1.3 Nội dung + Khả năng sử dụng một số phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn cho Artemia + Theo dõi tỷ lệ sống, tăng trưởng và năng suất sinh khối khi nuôi Atemia ở các mật độ khác nhau (1.000, 1.500 và 2.000 con/L) + Đánh giá hiệu quả kinh tế
  10. Chương 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2.1 Sơ lược về đặc điểm sinh học của Artemia 2.1.1 Hệ thống phân loại Artemia có hệ thống phân loại như sau: Ngành: Arthropoda (Chân khớp) Lớp: Crustacea (Giáp xác) Lớp phụ: Branchiopoda (Chân mang) Bộ: Anostraca Họ: Artemiidae Giống: Artemia, Leach (1819). Tùy thuộc vào đặc điểm di truyền và phân bố về địa lý của Artemia chia nó thành những dòng sau đây: Artemia franciscana Artemia tusiana Artemia persimilis Artemia urmiana Artemia monica Artemia pathenogentica Trong sáu dòng trên thì có năm dòng đầu là lưỡng tính và dòng cuối cùng là trinh sản. 2.1.2 Phân bố và môi trường sống Theo Sorgeloos (1986) các quần thể Artemia được tìm thấy ở hơn 300 hồ tự nhiên và nhân tạo trên thế giới với các vùng địa lý khác nhau, Artemia có khả năng sống rất tốt trong nước biển tự nhiên nhưng vì cơ thể không có khả năng lẩn tránh kẻ thù nên chúng không thể phát tán ngang các biển nơi có quá nhiều loài cạnh tranh và địch hại. Do vậy Artemia phân bố chủ yếu ở vùng nước có độ mặn cao (trên 70‰) để hạn chế kẻ thù. Chúng có thể sống ở cả độ mặn gần bảo hoà (250‰). Artemia sống được trong môi trường có nhiệt độ từ 6-35 oC và sự thích ứng này tuỳ theo dòng, thường sinh trưởng và sinh sản tốt từ 24-32,5oC, ngưỡng gây chết 0 oC và 37-38oC nếu kéo dài, pH thích hợp cho chúng phát triển là 7,5-8 (Sorgeloos, 1986). Ở Việt Nam hiện nay đang nuôi rộng rãi Artemia thuộc dòng Franciscana FSB (Mỹ), gần như loài này đã
  11. được thuần hóa với môi trường nước ta, chúng có thể phát triển tốt trong điều kiện: Độ mặn: 80-120‰. Nhiệt độ: 22-35 oC. Ôxy hòa tan không thấp hơn 2 mg/l.ít pH từ trung tính đến kiềm (7,0-9,0) (Nguyễn Văn Hòa, 2007). 2.1.3 Vòng đời của Artemia Trứng bào xác của Artemia là trứng khô với trạng thái ngưng hoạt động. Trứng màu nâu, trứng bào xác có dạng hình cầu hai mặt lõm, kích thước 200-300 m và trôi nổi trong các ao, hồ, ruộng nước mặn hay dạt vào ven bờ. Khi được giữ khô trong điều kiện không có Oxy, trứng sẽ ngưng hoạt động nhưng không ảnh hưởng đến khả năng sống và nở của trứng a trong nhiều năm. Khi được hấp thụ nước trở lại, phôi nang sẽ chấm dứt quá trình gián đoạn trao đổi chất và bắt đầu hoạt động (Vos và Rosa, 1980 trích dẫn bởi Sorgeloos, 1986). Trong nước biển, sau 24 giờ màng ngoài cùng của trứng bào xác bị vỡ, phôi xuất hiện và được bao quanh bởi màng nở. Vài giờ sau, phôi rời ra khỏi vỏ nhưng vẫn gắn vào phần dưới vỏ trứng (giai đoạn bung dù). Một thời gian ngắn sau đó, màng nở bị phá vỡ (giai đoạn nở), ấu trùng được phóng thích và bơi lội tự do trong môi trường (Sorgeloos, 1986). Hình 2.1: Vòng đời của Artemia (Jumalon và ctv., 1982) Giai đoạn ấu trùng đầu tiên (Instar I) có kích thước từ 400-500 m, bơi lội tự do trong nước. Ấu trùng Instar I có màu vàng nâu do còn noãn hoàng, ấu trùng có 3 đôi phụ bộ và một điểm mắt màu đỏ trên đầu. Giai đoạn Instar I, ấu
  12. trùng chưa ăn thức ăn ngoài mà dinh dưỡng bằng noãn hoàng. Sau 12 giờ, ấu trùng lột xác chuyển sang giai đoạn II (Instar II), bắt đầu lọc các hạt thức ăn có kích thước nhỏ từ 1-50m ở trong nước như tảo, mùn bã. Giai đoạn này, giá trị dinh dưỡng giảm xuống còn 22- 39 %. Ấu trùng phát triển tốt ở điều kiện nhiệt độ 28oC, độ mặn 35 ‰. Ấu trùng sinh trưởng và trải qua 15 lần lột xác khác nhau, sau mỗi lần có sự biệt hoá về hình dạng và kích thước để trở thành Artemia trưởng thành (Sorgeloos et al., 1986). Hình 2.2: Hình mô phỏng ấu trùng và Artemia trưởng thành (nguồn: http://www,captain,at/Artemia/) Từ giai đoạn 10 trở đi, Artemia có sự thay đổi đáng kể về hình thái và chức năng, Râu mất dần chức năng ban đầu của chúng và có sự khác biệt ở cá thể đực, cái. Ở con đực, râu phát triển thành mấu bám trong khi ở con cái, râu phát triển thành phụ bộ cảm giác. Artemia trưởng thành dài 8- 10 mm, có những mắt kép có cuống ở hai bên, có râu cảm giác, ruột thẳng và 11 đôi chân ngực trên thân. Con đực có một cặp cơ quan giao cấu ở phần sau của vùng thân. Ở con cái có đôi buồng trứng nằm ở hai bên ống tiêu hoá sau các chân ngực. 2.1.4 Tính ăn của Artemia Theo Reeve (1963) thì Artemia là loài sinh vật ăn lọc không chọn lựa, và chúng có thể sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau như mùn bã hữu cơ, tảo đơn bào và vi khuẩn có kích thước nhỏ hơn 50µm. Trong nghề nuôi Artemia trên ruộng muối, nông dân thường sử dụng phân chuồng (chủ yếu là phân gà) kết hợp với phân vô cơ (URE, DAP,…) để gây màu. Phân gà được bón trực tiếp vào ao nuôi, ngoài việc cung cấp chất dinh dưỡng kích thích tảo phát triển, nó còn là nguồn thức ăn trực tiếp cho Atemia. Xuất phát từ đặc điểm sinh học của Artemia là loài ăn lọc không chọn lựa, có thể ăn bất kỳ loại thức ăn
  13. nào vừa với miệng của chúng (
  14. Lê Thị Ngọc Anh và Dương Thị Nhuận (1977) - Viện nghiên cứu biển: nuôi Artemia trong phòng thí nghiệm đã có kết quả bước đầu, sử dụng các loại thức ăn khuê tảo, lòng đỏ trứng, cám gạo. Kết quả cho thấy cám gạo là thức ăn tốt cho Artemia. Ngô Thị Thu Thảo (1992) đã nghiên cứu việc sử dụng các nguồn thức ăn khác nhau để nuôi sinh khối Artemia, sau 3 tháng nuôi năng suất sinh khối thu được từ nghiệm thức nước xanh có bón phân gà và bổ sung cám gạo đạt năng suất 2,6 tấn/ha. Nguyễn Thị Ngọc Anh (1994) đã thử nghiệm sản xuất Artemia trong hệ thống nước tĩnh. Khối lượng sinh khối thu được cả hai vụ là 2.109,7 kg và 52,1 kg trứng cyst. Nghiên cứu ảnh hưởng của mức nước trong ao nuôi khác nhau đến năng suất sinh khối (Nguyễn Thị Ngọc Anh et al., 1997). Nghiên cứu ảnh hưởng chu kỳ nuôi đến năng suất sinh khối của Nguyễn Thị Ngọc Anh et al., 1997, năng suất sinh khối thu được từ nghiệm thức một chu kỳ là 2,3 tấn/ha/vụ và 3,8 tấn/ha/vụ ở nhiều chu kỳ. Nguyễn Thị Ngọc Anh và Nguyễn Văn Hòa, 2004 đã nghiên cứu sự ảnh hưởng của phương pháp thu hoạch đến năng suất sinh khối Artemia ở ruộng muối. Thu hoạch sinh khối được bắt đầu sau 18-20 ngày nuôi đối với NT1 (thu mỗi ngày) và NT2 (3 ngày thu một lần), sau 16 tuần nuôi thì năng suất sinh khối trung bình NT2 cao hơn NT1. Ngoài thu sinh khối, cả hai nghiệm thức còn thu được trứng bào xác Artemia với năng suất trung bình là 19,8 và 27,6 kg trứng tươi/ kg/ha/vụ ở NT1 và NT2. Ảnh hưởng của tảo Chaetoceros sp lên chất lượng Artemia sinh khối (Huỳnh Thanh Tới, Nguyễn Thị Hồng Vân Dương Thị Mỹ Hận và Nguyễn Văn Hòa, 2006). Kết quả Artemia cho ăn bằng Chaetoceros sp cho tỷ lệ sống cao, và tảo Oscillatoria thì Artemia chết toàn bộ sau 6 ngày nuôi. 2.3 Giá trị dinh dưỡng của Artemia Sinh khối Artemia được sử dụng rộng rãi trong ương nuôi các loài thủy sản, hàm lượng acid béo mạch cao nối đôi có trong Artemia sinh khối đóng vai trò quan trọng trong ương nuôi các loài thủy sản (Treece, 2000 trích dẫn bởi Huỳnh Thanh Tới, 2006). Theo Sorgeloos et al., 1996, Artemia con trưởng thành được thu hoạch từ môi trường tự nhiên có hàm lượng protein khá cao, chiếm khoảng 50-69%, nhưng hàm lượng axit béo tổng cộng chỉ chiếm khoảng 2,4-19,3% tùy theo
  15. loài, thấp hơn nhiều so với Artemia mới nở. Xuất phát từ tập tính ăn lọc không chọn lựa của Artemia, chúng có khả năng lọc được những hạt lơ lửng trong môi trường nước nếu kích thước nhỏ hơn 50 µm nên đối với con non và con trưởng thành, Artemia thường được cải thiện chất lượng bằng kỹ thuật giàu hóa (sử dụng sản phẩm giàu hàm lượng acid béo làm thức ăn cho Artemia) hoặc làm vật trung gian chuyên chở sắc tố, thuốc phòng trừ bệnh trước khi đem cho tôm, cá ăn (Olsen et al., 1999). Nhiều nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng hàm lượng acid béo cao không no (HUFA) có trong Artemia phần lớn phụ thuộc vào thức ăn mà nó nhận được, vì vậy ngoài việc giàu hóa bằng những sản phẩm thương mại, chất lượng Artemia cũng được cải thiện thông qua việc sử dụng các loài tảo chất lượng cao làm thức ăn cho chúng. 2.4 Sơ lược về tầm quan trọng và giá trị sử dụng sinh khối Artemia trong nuôi trồng thủy sản Hiện nay cùng với sự phát triển của ngành sản xuất giống thì Artemia được xem là nguồn thức ăn tự nhiên quan trọng cho sự phát triển của ấu trùng tôm cá bởi vì có thể sử dụng sinh khối ở những kích cỡ khác nhau phù hợp với từng giai đoạn phát triển của ấu trùng. Theo Sorgeloos et al (2001) thì giai đoạn đầu của ấu trùng tôm cá thì ấu trùng Artemia mới nở là thức ăn thích hợp và không thể thay thế vì chúng có kích thước khá nhỏ (400-500 µm). Tuy nhiên đối với những ấu trùng cá biển có kích thước miệng lớn như cá tầm, cá hồi thì việc sử dụng sinh khối làm thức ăn cho chúng là phù hợp và kinh tế hơn so với ấu trùng Artemia mới nở. So với các loại thức ăn tự nhiên và thức ăn nhân tạo khác thì sinh khối Artemia có nhiều ưu điểm: Artemia là loại thức ăn giàu dinh dưỡng ở giai đoạn tiền trưởng thành và trưởng thành có giá trị dinh dưỡng cao hơn ấu trùng mới nở, 60% trọng lượng khô gồm các protein, acid amin, chứa hàm lượng Vitamin, các hormoon,… Artemia có khả năng tồn tại trong nước ngọt vài giờ, chúng có tập tính bơi lội chậm chạp, đây là điều kiện cho các động vật thủy sản săn bắt mồi dễ dàng. Do đó, nếu sử dụng sinh khối Artemia làm thức ăn cho ấu trùng ở những ngày tuổi thích hợp sẽ tiết kiệm được thời gian rượt đuổi con mồi và ấu trùng sẽ tăng trưởng nhanh hơn. Tiết kiệm được chi phí về thức ăn trong ương nuôi ấu trùng so với sử dụng trứng Artemia (lên đến 60%) và qua nghiên cứu người ta còn cho rằng việc sử dụng sinh khối có thể làm giảm tính ăn thịt lẫn nhau ở các loài ăn thịt.
  16. Artemia có thể nuôi sinh khối ở nồng độ muối thấp, có thể nuôi trong phòng hay ngoài trời, do đó có thể sản xuất quanh năm mà không phụ thuộc vào mùa vụ và khí hậu. Khi nuôi trên bể, có thể thu hoạch sinh khối Artemia theo kích cỡ mong muốn, việc giàu hóa Artemia cũng dễ dàng hơn so với sinh khối ngoài ao. Sinh khối Artemia có thể sử dụng ở dạng đông lạnh hay sấy khô. Artemia sinh khối còn được sử dụng trong chế biến thức ăn nhân tạo cho ấu trùng tôm cá. Ngoài ra, sinh khối Artemia đông lạnh có thể được dùng làm nguyên liệu bổ sung hoặc thay thế giun nhiều tơ trong khẩu phần nuôi vỗ thành thục tôm thẻ chân trắng bố mẹ (Naessens et al., 1997). Hiện tại, Công ty Duyên Hải Bạc Liêu đã và đang sử dụng sinh khối Artemia đông lạnh nhập từ Mỹ để phối chế thức ăn trong nuôi vỗ thành thục tôm thẻ chân trắng.
  17. Chương 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Vật liệu nghiên cứu 3.1.1 Dụng cụ, vật tư và hóa chất Bể lót bạt với thể tích 2 m3 (9 bể) Chai 500 ml (15 chai) Dụng cụ đo: máy đo pH, máy đo Oxi- nhiệt độ, máy đo độ mặn, thước đo độ trong (đĩa secchi), kính lúp, kính hiển vi, cân điện tử, tủ lạnh. Cốc thủy tinh 500 ml, 1000 ml, bình tam giác xem mẫu 250 ml, đĩa petri, pipet nhựa, xô, ca, máy bơm chìm. Hệ thống sục khí: máy thổi khí, ống dẫn khí PVC, dây sục khí, đá bọt, van điều chỉnh, que sụt khí. Túi lọc nước 5 µm, 100 µm, lưới lọc thức ăn 50 µm. Hóa chất: Formol 38%, chlorine, Thiosulphat Natri, Lugol, test chlorine. Một số dụng cụ cần thiết khác Thức ăn: cám gạo, bột đậu nành tươi – rang, bột mì tinh, men ủ (men bánh mì) được mua ở đại lý thức ăn gia súc. 3.1.2 Nguồn trứng Artemia Trứng Artemia franciscana Vĩnh Châu thu từ vụ sản xuất trước, được sấy khô và bảo quản kỹ. 3.1.3 Nguồn nước Nguồn nước mặn được bơm trực tiếp từ ao sản xuất qua lưới lọc 5 µm có độ mặn 57‰. 3.1.4 Thời gian và địa điểm Thời gian: 3 tháng (từ tháng 03/2009-06/2009) Địa điểm: Trại thực nghiệm Vĩnh Châu – Khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ (tại ấp Biển Dưới, xã Vĩnh Phước, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng). 3.2 Phương pháp nghiên cứu 3.2.1 Xử lý nước
  18. Nước nuôi Artemia được lấy trực tiếp từ ao sản xuất qua túi lọc 5 µm có nồng độ muối 57‰. Sau đó, nước được xử lý bằng chlorine với nồng độ 30 ppm. Khuấy cho hóa chất tan trong nước rồi tạt vào bể và để yên trong 1 giờ. Sau đó tiến hành sục khí liên tục trong 2 ngày để lượng hóa chất tồn dư bị loại ra khỏi nguồn nước xử lý. Trước khi sử dụng phải kiểm tra lượng chlorine tồn dư trong nước bằng thuốc thử chlorine, nếu không thấy màu vàng xuất hiện thì có thể sử dụng, ngược lại, nước có màu vàng (vẫn còn chlorine) thì cần trung hòa bằng bằng Thiosunphat Natri (Na2S2O3). Sau khi trung hòa kiểm tra lại lần nữa mức độ tồn dư của chlorine, nếu vẫn còn thì tiến hành trung hòa tiếp cho đến khi lượng chlorine tồn dư biến mất thì nước có thể sử dụng được. 3.2.2 Gây màu nước Thông thường phân hữu cơ (phân gà, heo,…) được dùng để gây màu nước trong ao bón phân với liều 30-50 kg/100 m 3/lần và kết hợp với phân vô cơ (ure và DAP với tỉ lệ 3:1) với liều 2-3 mg/l (hay g/m 3) định kỳ bón 1-2 lần /tuần để kích thích tảo phát triển nhanh. Sau 2-3 ngày bón phân nước chuyển sang màu xanh nâu, xanh lục,…và độ đục đạt 15-20 cm. Lúc này có thể bơm nước vào bể Artemia. 3.2.3 Phương pháp ấp trứng Artemia * Tính số lượng trứng cho nở Tùy mật độ thả mà số lượng trứng được tính theo công thức sau: D(S * De) Số gram trứng cho nở (g/m3) = * 1000 300.000 D: mật độ nuôi (cá thể/L) S: diện tích nuôi (m 2) De: chiều cao cột nước (m) 300000: số ấu trùng nở từ 1g trứng khô Dụng cụ cho nở là xô nhựa có thể tích 4 L/xô (thí nghiệm 2) và chai nước khoáng 1,5 L (thí nghiệm 1). Cung cấp ánh sáng bằng đèn neon liên tục trong suốt quá trình ấp trứng, đèn đặt cách xô ấp 20 cm. Nhiệt độ ấp: ấp ở nhiệt độ phòng (28 – 30oC) Độ mặn: 30‰ Mật độ ấp: 3g/lít Sục khí mạnh và liên tục
  19. Hình 3.1: Cân và cho nở trứng Artemia Sau 18-20 giờ, quan sát thấy trứng đã nở thì tiến hành thả giống. Lúc này, đa số ấu trùng ở gia đoạn Instar I (khả năng thích ứng cao với những biến đổi của môi trường) rất thuận lợi trong việc cấy thả (Nguyễn Văn Hòa et al., 2007). 3.2.4 Thả giống Thả giống ở giai đoạn Instar I vào buổi chiều mát (6 h30). Hình 3.2: Artemia giai đoạn Instar I 3.2. 5 Phương pháp bố trí thí nghiệm 3.2.5.1 Thí nghiệm 1 ● Bố trí thí nghiệm Thí nghiệm này được thực hiện nhằm xác định loại thức ăn thích hợp có thể sử dụng để nuôi Artemia trên bể. Thí nghiệm được bố trí trong chai nhựa hình chóp có thể tích 500 ml chứa 400 ml nước biển có nồng độ muối 50‰, mật độ thả là 200 nauplii/chai,
  20. thí nghiệm được thực hiện với 5 nghiệm thức khác nhau tương ứng với 5 loại thức ăn, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần. NT1: bột đậu nành rang (ĐNR) NT2: bột đậu nành tươi (ĐNT) NT3: cám gạo (CG) NT4: cám ủ (CU): ủ bằng men bánh mì với hàm lượng 1g men/kg cám và ủ trong 24 giờ ở nhiệt độ phòng. NT5: bột mì tinh (MT) ● Chăm sóc và quản lý Hàng ngày theo dõi nhiệt độ, quan sát Artemia. Cho ăn: thức ăn được hòa vào nước và lọc qua lưới 50 µm lấy phần dung dịch lọt qua lưới đem cho Artemia ăn, cho ăn thỏa mãn và hạn chế thức ăn dư thừa. Sục khí: sử dụng que thổi khí, giúp cho thức ăn không bị lắng và nâng cao hiệu quả lọc thức ăn của Artemia. Tiến hành thay nước toàn bộ vào ngày thứ 5, 8, 14. Tỷ lệ sống: được xác định vào ngày 8, 11, 14 sau khi bố trí bằng cách đếm số cá thể còn sống /chai. Tăng trưởng: được xác định vào ngày thứ 7 và 14 sau khi bố trí bằng cách bắt ngẫu nhiên 10 cá thể/chai, cố định bằng lugol và đo dưới kính hiển vi. 3.2.5.2 Thí nghiệm 2 Ảnh hưởng của mật độ nuôi lên tăng trưởng, tỷ lệ sống và năng suất sinh khối của Artemia. Với kết quả thu được từ thí nghiệm 1 khi nuôi Artemia trong phòng với các loài phụ phẩm nông nghiệp, thì cám ủ có tỷ lệ sống thấp hơn so với bột mì tinh. Tuy nhiên cám ủ men có hàm lượng dinh dưỡng cao hơn bột mì tinh, vì thế nghiệm thức cho ăn bằng cám ủ men có tăng trưởng nhanh hơn. Do đó chọn cám ủ là thức ăn cho Artemia để nuôi sinh khối trên bể. ● Bố trí thí nghiệm Thí nghiệm được bố trí trong bể lót bạt xanh, mực nước ban đầu 40 cm, từ ngày thứ 4 về sau mực nước được nâng lên 45 cm, nauplii Artemia được bố trí với 3 nghiệm thức (NT) tương ứng với 3 mật độ và 3 lần lặp lại/ NT. NT1: 1000 nauplii/L NT2: 1500 nauplii/L
nguon tai.lieu . vn