Xem mẫu

  1. 1 Luận văn Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở tỉnh Đắk Nông
  2. 2 Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất yếu để biến một nước có nền nông nghiệp lạc hậu như nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần cao. Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá một cách thành công cần có nhiều tiền đề cần thiết, trong đó nguồn nhân lực là tiền đề quan trọng nhất. Vì vậy, xây dựng một nguồn nhân lực đảm bảo về số lượng và chất lượng là yếu tố quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nhất là trong điều kiện nước ta đ ã gia nhập WTO thì điều đó càng trở nên có ý nghĩa đặc biệt và hết sức cấp thiết. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có chương trình mang tính chất chiến lược về đầu tư và phát triển con người của riêng mình hướng theo một nguyên tắc chung là: Đặt con người vào trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội, sự thừa nhận vai trò quan trọng và quyết định của nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội vừa mang ý nghĩa bước ngoặt của tư duy nhân loại, vừa mở ra một triển vọng mới cho tất cả các nước. Sự thành bại của chiến lược phát triển kinh tế - x ã hội ở mỗi nước đang tùy thuộc vào những bí quyết về đào tạo, sử dụng và phát huy nhân tố con người. Đắk Nông là một tỉnh vùng dân tộc thiểu số miền núi, mới được thành lập từ 31/12/2003, trên cơ sở chia tách từ tỉnh Đắk Lắk cũ thành 02 tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Với diện tích tự nhiên 651.438 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp 163.324 ha, diện tích đất lâm nghiệp 382.519 ha; gồm 06 huyện, 01 thị xã với 61 xã, phường, thị trấn, dân số trên 400.000 người, gồm 31 dân tộc anh em (dân tộc thiểu số chiếm khoảng 31%).
  3. 3 Nằm trên vùng đất Bazan màu mỡ, tỉnh Đắk Nông rất thuận lợi cho việc phát triển Nông, Lâm nghiệp. Có hệ thống sông Sêrêpok và sông Đồng Nai với tiềm năng thủy điện dồi dào. Là khu vực đầu nguồn của nhiều sông suối, nên trên địa bàn tỉnh có nhiều cảnh quan kỳ thú để phát triển du lịch. Đặc biệt có nhiều mỏ khoáng sản Bôxít lớn nhất khu vực Đông Nam á đ ã được Chính phủ xúc tiến đầu tư với các đối tác. Tỉnh có điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi, song mặt bằng văn hóa và trình đ ộ dân trí thấp, phân bố dân cư và nguồn nhân lực chưa phù hợp với yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn nhiều hạn chế, dẫn đến năng suất lao động thấp, năm 2005 tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới chiếm 33,7%, trong đó hộ nghèo là đồng bào dân tộc tại chỗ (DTTC) so với tổng số hộ của đồng bào DTTC chiếm 64%; sản xuất hàng hóa chưa phát triển, ở một số nơi còn mang nặng tính tự cung tự cấp, chưa đáp ứng yêu cầu của việc chuyển nền kinh tế sang giai đọan CNH-HĐH... Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ I đã đánh giá: “Mức sống của nhân dân nhìn chung còn thấp, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, vùng sâu, vùng xa. Lao động kỹ thuật được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số lao động xã hội” [8, tr.29]. Ngày nay, khả năng cạnh tranh, phát triển của một quốc gia, một địa phương phụ thuộc vào đội ngũ lao động có học thức, có trình độ chuyên môn kỹ thuật và trình độ tay nghề cao. Quá trình phát triển của lịch sử xã hội ngày càng chứng tỏ tri thức và khả năng con người đang trở thành nhân tố then chốt cho sự phát triển. Nhân lực không chỉ đơn thuần là một trong những nguồn nhân lực của sản xuất, mà còn là chủ thể có khả năng tổ chức, sử dụng tốt hơn các nguồn lực khác.
  4. 4 Việc xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của CNH, HĐH trên địa bàn vùng dân tộc miền núi, vừa mới thành lập như Đắk Nông, đang là vấn đề cấp thiết, góp phần làm cho khoa học công nghệ được đưa vào sản xuất sớm hơn, hiệu quả hơn, tạo ra năng lực cạnh tranh, thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH, giúp tỉnh Đắk Nông rút ngắn đ ược khoảng cách trình độ phát triển so với các tỉnh lân cận và các địa phương khác trong cả nước. Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở tỉnh Đắk Nông” làm đề tài luận văn thạc sĩ Kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực cho CNH, HĐH nói riêng, trong những năm gần đây đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu: - TS. Đoàn Văn Khải (2005), “Nguồn nhân lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. - Tiến sĩ Vũ Bá Thể, Học viện Tài chính (2005), “Phát huy nguồn nhân lực con người để công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. - Phạm Minh Hạc (1996), “Vấn đề phát triển con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Công Toàn (Tạp chí Triết học 5/1998), “Mấy suy nghĩ về phát hu y nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. - Vương Quốc Được (1999), “Xây dựng nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở thành phố Đà Nẵng ”, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh... Ngoài ra các nhà khoa học, nhà nghiên cứu cũng đã có nhiều bài viết đăng trên tạp chí Cộng sản, tạp chí Quản lý kinh tế... Về nguồn nhân lực cho CNH, HĐH... Nhưng nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên, chủ yếu là đề cập nhiều đến nguồn nhân lực chất lượng cao cho các khu công nghiệp,
  5. 5 các thành phố lớn, các tỉnh đồng bằng, chưa có công trình nào nghiên cứu dưới góc độ của môn kinh tế chính trị, đề cập đến việc phát triển nguồn nhân lực làm cơ sở cho việc thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH của một tỉnh vùng dân tộc thiểu số vừa mới thành lập, dân cư thưa thớt, phân bố không đều, còn đang có rất nhiều khó khăn, cơ sở vật chất nghèo nàn, xuất phát điểm kinh tế ở trình độ thấp... như tỉnh Đắk Nông. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này ở đ ây vẫn còn là vấn đề mới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm cơ sở để phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Đắk Nông - một tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vừa mới thành lập, đề xuất phương hướng, quan điểm và các giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở tỉnh Đắk Nông. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt mục đích nói trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài tập trung vào những vấn đề sau: - Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản như khái niệm, các nhân tố ảnh hưởng đến số lượng, chất lượng nguồn nhân lực; vai trò của nguồn nhân lực và yêu cầu về nguồn nhân lực đối với CNH, HĐH. - Phân tích thực trạng nguồn nhân lực của tỉnh Đắk Nông: Đánh giá về số lượng, chất lượng, tình hình sử dụng nguồn nhân lực cho CNH, HĐH của Tỉnh từ khi được thành lập đến nay. - Trên cơ sở những phân tích về lý luận, thực tiễn phát triển NNL, đề xuất các giải pháp phát triển NNL cho CNH, HĐH ở tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2006-2010 và tầm nhìn đến năm 2015,
  6. 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Nghiên cứu mối quan hệ giữa nguồn nhân lực với CNH, HĐH trên địa bàn Đắk Nông - một tỉnh miền núi vùng đồng b ào dân tộc thiểu số vừa mới được thành lập. - Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực tỉnh Đắk Nông từ khi chia tách đến nay (01/7/2004 đến 01/7/2005) và đ ề xuất giải pháp xây dựng nguồn nhân lực cho giai đo ạn 2006-2010 và những năm tiếp theo để thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngoài ra còn sử dụng phương pháp nghiên cứu thực tế, tổng hợp, thống kê, phân tích... 6. Đóng góp khoa học của luận văn Luận văn làm rõ thêm về khái niệm, vai trò của NNL cho CNH, HĐH. Làm rõ đ ặc điểm NNL cho CNH, HĐH trong điều kiện, hoàn cảnh đặc thù của một tỉnh vùng dân tộc miền núi nghèo, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Trên cơ sở đó đề xuất phương hướng, giải pháp hình thành và phát triển NNL cho sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Đắk Nông, làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy đảng và các cấp chính quyền địa phương trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn công tác đào tạo cán bộ, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của Tỉnh. 7. K ết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
  7. 7
  8. 8 Chương 1 NHữNG VấN Đề Lý LUậN Và THựC TIễN Về NGUồN NHÂN LựC CHO CÔNG NGHIệP HóA, HIệN ĐạI HóA ở việt nam 1.1. khái niệm, các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Niệt Nam 1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực Đối với nước ta, CNH, HĐH là con đường tất yếu để thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và phát triển nền kinh tế theo định hướng CNXH. Để tiến hành CNH, HĐH cần phải có các nguồn lực cần thiết bao gồm nguồn lực con người; nguồn lực đất đai, tài nguyên; nguồn lực tài chính; nguồn lực khoa học công nghệ… Trong đó nguồn lực con người, hay nguồn nhân lực là quan trọng nhất. Trong nền kinh tế nào cũng vậy, nguồn nhân lực bao giờ cũng giữ vai trò quyết định đối với các hoạt động sản xuất - kinh doanh. Ngay cả trong nền kinh tế kém phát triển, sản xuất còn mang nặng tính tự cấp, tự túc, trình độ hiểu biết của con người còn thấp, thì con người vẫn là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển kinh tế. Khi nền kinh tế thế giới đang dần chuyển sang nền kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra hết sức nhanh chóng thì vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế lại càng rõ nét hơn. Trong nền kinh tế toàn cầu cạnh tranh quyết liệt thì ưu thế cạnh tranh luôn nghiêng về các quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, hiện nay trong chiến lược phát triển của mình, nhiều quốc gia đã xác đ ịnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố cạnh tranh cơ bản nhất. Hiện nay, có nhiều định nghĩa về nguồn nhân lực. Theo Liên H ợp quốc thì "NNL là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính
  9. 9 sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước" [41, tr.8]. Theo Cơ quan phát triển của Liên Hợp quốc UNDP, thì NNL là tổng thể những năng lực của con người được huy động vào quá trình sản xuất. Ngân hàng thế giới cho rằng: NNL là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên… Theo các tác giả của cuốn "Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" do GS. TSKH Lê Du Phong chủ biên thì "Nguồn lực con người được hiểu là tổng hoà trong thể thống nhất hữu cơ giữa năng lực xã hội của con người (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng đ ộng của con người. Tính thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến nguồn lực con người thành vốn con người [22, tr.14]. Lại có ý kiến cho rằng, nguồn nhân lực là trình độ hành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống của con người để phát triển kinh tế của một vùng, một đất nước… Bộ môn " Kinh tế phát triển" đưa ra khái niệm nguồn nhân lực một cách cụ thể hơn: N guồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: về số lượng, đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của nhà nước và thời gian lao động có thể huy động từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn lao động là tổng số những ng ười trong độ tuổi lao đ ộng quy định đang tham gia lao động hoặc đang tích cực t ìm vi ệc làm. Cũng như nguồn nhân lực, nguồn lao động đ ược hiểu trên hai m ặt: số lượng v à chất lượng. Theo khái niệm n ày, có m ột số người đ ược tính là nguồn nhân lực, nhưng lại không phải là nguồn lao động, đó là: Những
  10. 10 người không có việc làm nhưng không tích cực tìm việc làm, tức là những người không có nhu cầu tìm việc làm, nh ững người trong độ tuổi lao động q uy đ ịnh nhưng đang đi h ọc… [34, tr.73]. Như vậy, có thể hiểu, nguồn nhân lực l à toàn b ộ lực lượng lao động x ã hội của một quốc gia với những năng lực thể chất v à t inh thần, trình đ ộ nghề nghiệp, kinh nghiệm và phong cách, ph ẩm chất nhất định đang và sẽ tham gia vào quá trình sản xuất ra của cải vật chất v à tinh th ần cho x ã h ội. Nguồn nhân lực có những đặc tr ưng về số lượng và chất lượng. Số lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và đối với quá trình CNH, HĐH nói riêng. ở nước ta số lượng nguồn nhân lực được xác định bao gồm tổng số người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động (nam 15-60, nữ 15-55). Vì theo Bộ luật lao động nước CHXHCN Việt Năm 1994 thì “người lao động phải ít nhất đủ 15 tuổi”. Luật lao động đã quy đ ịnh giới hạn của độ tuổi lao động đối với nam là 60, nữ là 55. Khi tính toán khả năng cung cấp lực lượng lao động cho xã hội, người ta phải tính đến các chỉ số về dân số, tốc độ tăng dân số, cơ cấu dân số: Số dân ở độ tuổi lao động, số người ăn theo, số người có việc làm, số người thất nghiệp…Sự gia tăng dân số là cơ sở để hình thành và gia tăng nguồn nhân lực, có nghĩa là sự gia tăng sau 15 năm sẽ kéo theo sự gia tăng nguồn nhân lực. Nhưng nhịp độ tăng dân số chậm lại cũng không làm giảm ngay lập tức nhịp độ tăng nguồn nhân lực. Như vậy, NNL bao gồm số người đang làm việc trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội hay số người có việc làm; số người thất nghiệp; số người làm công việc nội trợ và học sinh trong độ tuổi lao động hay lao động dự nguồn. Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên quan đ ến nhiều quá trình kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế thị trường việc làm được xem là những hoạt động
  11. 11 đem lại thu nhập. Theo Bộ Luật Lao động 1994 thì mọi hoạt động tạo ra thu nhập không bị luật pháp cấm đều được thừa nhận là việc làm. Như vậy người có việc làm là những người đang hoạt động ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị xã hội, các thành phần kinh tế và cả những người trong độ tuổi lao động làm công việc nội trợ. Những người đang làm việc, đang lao động trong nền kinh tế quốc dân (còn gọi là dân số hoạt động kinh tế tích cực) là bộ phận quan trọng nhất đối với nguồn nhân lực của mỗi quốc gia, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung và kinh tế - xã hội nói riêng. Vì vậy, vấn đề mở rộng và nâng cao chất lượng đội ngũ lao động luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động quy định, có khả năng lao động, muốn lao động, nhưng đang chưa có việc làm và đang tìm việc làm. Khi xem xét NNL cho CNH, HĐH cần phải tính toán đến số người này để tìm giải pháp đ ào tạo, huy động họ tham gia vào quá trình CNH, HĐH đất nước, vì tạo thêm công ăn việc làm cũng chính là một trong những mục tiêu của CNH, HĐH ở nước ta. Về chất lượng NNL được biểu hiện ở trạng thái thể lực, trí lực, phong cách làm việc: Trạng thái sức khỏe, trình độ học vấn, nhân cách, lối sống, trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu nghề nghiệp… Trong đó, thể lực là nền tảng, là cơ sở để phát triển trí tuệ, là phương tiện để chuyển tải tri thức của con người vào thực tiễn; trình độ học vấn là yếu tố quan trọng nhất vì nó không chỉ là cơ sở để đào tạo kỹ năng nghề nghiệp mà còn là yếu tố hình thành nhân cách và lối sống của mỗi con người. Tất cả các yếu tố đó tạo thành vốn con người, vốn nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực liên quan đến nhiều lĩnh vực như đảm bảo dinh dưỡng chăm sóc sức khỏe, giáo dục và đào tạo, lao động và việc làm gắn với tiến bộ kỹ thuật, trả công lao động và các mối quan hệ xã hội khác. Như
  12. 12 vậy, khi xem xét chất lượng nguồn nhân lực không thể không xem xét những điều kiện phát triển con người của đất nước. Theo ý nghĩa đó thì chất lượng NNL còn được thể hiện gián tiếp qua chỉ số phát triển con người (HDI). Theo cơ quan phát triển Liên hiệp quốc UNDP, thì sự phát triển nhân lực của các quốc gia có thể so sánh với nhau bằng chỉ số phát triển con người (HDI). HDI là một chỉ tiêu tổng hợp, là giá trị trung bình của 3 chỉ tiêu: tuổi thọ trung bình; trình độ giáo dục tính tổng hợp theo tỷ lệ số người đi học tiểu học, trung học và sau trung học và tỷ lệ biết chữ của người lớn; thu nhập bình quân đầu người. Chất lượng nguồn nhân lực cao có tác dụng làm tăng năng suất lao động. Trong thời đại tiến bộ kỹ thuật, một nước cần và có thể đưa chất lượng NNL vượt trước trình độ phát triển của cơ sở vật chất trong nước để sẵn sàng đón nhận tiến bộ kỹ thuật - công nghệ, hòa nhập với trình độ phát triển của nhân loại. Để có thể trở thành vốn nhân lực, con người phải được giáo dục, đ ược đào tạo để có những kiến thức chuyên môn ngày càng cao, có sức khỏe tốt để phát triển con người. Phát triển con người là sự mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao cơ hội lựa chọn của con người nhằm hưởng thụ một cuộc sống hạnh phúc, bền vững. Theo cách tiếp cận này, phát triển con người không phải là sự gia tăng về thu nhập và của cải vật chất (mặc dù rất quan trọng) mà là mở rộng các khả năng của con người, tạo cho con người có cơ hội tiếp cận với nền giáo dục tốt hơn, các dịch vụ y tế tốt hơn, có chỗ ở tiện nghi hơn, có việc làm và ý nghĩa hơn... Phát triển con người còn là tăng cường năng lực, trước hết là nâng cao kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm làm việc của họ. Nói cách khác, năng lực là điều kiện cần thiết để biến các cơ hội sẵn có thành hiện thực, đồng thời tạo ra cơ hội mới để phát triển. Phát triển nguồn nhân lực là các hoạt động (đầu tư) nhằm tạo ra nguồn nhân lực với số lượng và chất lượng đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế -
  13. 13 xã hội của đất nước nói chung và cho quá trình CNH, HĐH nói riêng, đồng thời đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân. 1.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam Các nhân tố ảnh hưởng đến NNL cho CNH, HĐH của đất nước đồng thời cũng là các nhân tố ảnh hưởng đến NNL cho CNH, HĐH ở Đắk Nông, mặc dù tuỳ theo từng nhân tố mà còn có những biểu hiện riêng, cụ thể của nó đối với một tỉnh miền núi Tây Nguyên, mới được thành lập, bao gồm những nhân tố chủ yếu sau đây: - Thứ nhất: Trình độ phát triển của nền kinh tế là nhân tố ảnh h ưởng đến cả chất lượng và số lượng của NNL. Sự phát triển kinh tế và vấn đề phát triển NNL có mối quan hệ biện chứng với nhau, tạo điều kiện và làm tiền đề cho nhau cùng phát triển. Đây vừa là yêu cầu mà cũng vừa là mục tiêu của CNH, HĐH ở nước ta. Bởi vì khi trình độ phát triển cao về kinh tế, tức GDP/ người và đời sống của nhân dân ổn định ở mức cao sẽ có điều kiện đảm bảo và nâng cao chất lượng NNL. Kinh tế phát triển, thiết bị công nghệ sản xuất hiện đại và nó đòi hỏi chất lượng NNL phải phù hợp với trình độ của thiết bị, công nghệ đó. Hơn nữa sự phát triển kinh tế của một đất nước cho phép con người có điều kiện nâng cao trí lực, thể lực và tinh thần. Nhà nước mới có điều kiện để xây dựng và phát triển giáo dục, y tế, văn hoá và thực hiện các chính sách xã hội. Đối với tỉnh Đắk Nông, xuất phát điểm nền kinh tế thấp, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, nhất là vùng dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa. Sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất còn nhiều hạn chế. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi chưa thích ứng kịp thời với nhu cầu của
  14. 14 thị trường, sản phẩm của công nghiệp chế biến phần lớn là sơ chế, sản phẩm thô, sức cạnh tranh trên thị trường không cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện nay, trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, nông, lâm nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng cao; công nghiệp và xây dựng còn nhỏ bé, manh mún; thương mại và dịch vụ chưa phát triển. Năm 2005 cơ cấu kinh tế của tỉnh là: Nông nghiệp 59,7%; công nghiệp, xây dựng 17,3%; thương mại dịch vụ 23%; GDP bình quân đầu người đạt 393 USD chỉ bằng 61,4% so với mức b ình quân chung của cả nước [8, tr.13-15]. Tình hình kinh tế đó là nhân tố tác động hạn chế đến sự phát triển nguồn nhân lực của Đắk Nông, làm cho nó thiếu về số lượng, thấp về chất lượng so với yêu cầu của CNH, HĐH. - Thứ hai: Trình độ phát triển giáo dục và đào tạo có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng NNL. Theo Các Mác thì, “...Từ chế độ công xưởng đã nảy nở ra mầm mống của nền giáo dục tương lai, nó sẽ kết hợp lao động sản xuất với giáo dục và thể dục đối với tất cả trẻ em trên một lứa tuổi nào đấy, coi đó không phải chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn là phương pháp duy nhất để sản xuất ra những con người toàn diện” [20, tr.318]. Ngày nay, tiến bộ khoa học, công nghệ đã trở thành yếu tố trực tiếp của lực lượng sản xuất, quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, mà trong đó chất lượng của NNL lại chủ yếu là kết quả của giáo dục và đào tạo. Jacques Hallak (nhà kinh tế học giáo dục ở Viện Kế ho ạch Giáo dục Quốc tế) cho rằng, trong sự phát triển nguồn nhân lực có 5 yếu tố tác động phụ thuộc lẫn nhau: Giáo dục, sức khoẻ và dinh dưỡng, môi trường, việc làm, tự do chính trị và kinh tế, trong đó giáo dục là nhân tố cơ bản đối với các nhân tố khác.
  15. 15 Trong những năm gần đây các nước trên thế giới, đều tăng nguồn lực đầu tư cho giáo dục và đào tạo nhằm phát triển nhanh NNL. Một nền giáo dục hoàn chỉnh, đồng bộ sẽ cung cấp cho nền kinh tế quốc dân một đội ngũ các nhà khoa học, những lao động có kiến thức, và kỹ năng nghề nghiệp, năng động sáng tạo, đó là tài sản quý giá để thực hiện CNH, HĐH. Đối với mỗi cá nhân, giáo dục l à quá trình hình thành, phát tri ển, hoàn thiện nhân cách thế giới quan khoa học với t ình c ảm, đạo đức theo quan đ iểm nhân văn trong sáng. Giáo dục là quá trình tích tụ nguồn vốn của con người, nhằm chuẩn bị và cung ứng nhân lực cho sự phát triển của đất n ước. G iáo d ục phổ thông là nền tảng, c ơ sở tạo ra "nguyên liệu" cho giáo dục đ ào tạo nguồn nhân lực. Giáo dục chuyên nghiệp và d ạy nghề trực tiếp tạo ra sản phẩm NNL m ới với các tiêu chu ẩn đáp ứng cho y êu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đảng ta coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, đầu tư trực tiếp vào NNL. Chính vì vậy Đảng ta đã quan tâm xây dựng và phát triển giáo dục đào tạo, đặt vị trí giáo dục là “Quốc sách hàng đầu”. Luật Giáo dục năm 2005 viết: "Đầu tư cho giáo d ục là đầu tư cho phát triển "[23, Điều 13]. Theo tính toán của các nhà khoa học: Đầu tư vào giáo dục tiểu học thu hồi 24% tổng vốn đầu tư; vào cấp II là 17%; vào đại học và cao đẳng 14%; trong khi đó đ ầu tư vào các ngành sản xuất vật chất thu hồi có 13% tổng vốn đầu tư. ở nước ta, theo kết quả điều tra lao động và việc làm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đến ngày 1/7/2004, số người được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng (có trình độ sơ cấp trở lên) chỉ chiếm 22,5%; trong đó tỷ lệ đã qua đào tạo nghề là 13,3%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp là 4,4%; tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên là 4,8%. Nếu so sánh với các nước trong khu vực thì số lao động được đào tạo chính quy còn rất thấp. Trong khi số sinh viên tính trên 10.000 dân của Việt Nam chỉ có 118 người (năm 2001), thì của Thái Lan
  16. 16 là 2.166 người, Malaysia là 844 người và Trung Quốc là 377 người [33, tr.42- 43]. Hơn thế nữa cơ cấu đào tạo của lực lượng lao động còn nhiều bất hợp lý: Số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật còn quá thiếu so với nhu cầu. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến việc tăng cơ hội việc làm, mà còn là yếu tố hạn chế sức cạnh tranh của nền kinh tế và nâng cao chất lượng tăng tưởng kinh tế. Với cơ cấu trình độ đào tạo như hiện nay thì việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh là rất khó khăn. Nhóm lao động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu triển khai công nghệ mới theo những mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sự thiếu hụt cả về số lượng và chất lượng của đội ngũ lao động trí thức đang thực sự là một rào cản lớn cho việc nâng cao chất lượng tăng trưởng trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế trong thời gian tới. Chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của hệ thống giáo dục - đào tạo. Chất lượng giáo dục - đào tạo của cả hệ thống giáo dục quốc dân nói chung, vẫn là một vấn đề gay cấn nhất, chất lượng đào tạo đại trà chưa đáp ứng được yêu cầu của CNH, HĐH, thấp và thua so với trong khu vực và quốc tế. So với các nước khác trong khu vực, chất lượng giáo dục - đào tạo của nước ta còn rất thấp. Cụ thể như sau: Chất lượng nguồn nhân lực của nước ta, theo báo cáo của Ngân hàng thế giới đứng thứ 11 trong 12 nước châu á đ ược đưa ra xếp hạng: chỉ đạt 3,79/10 điểm: Biểu 1.1: Chất lượng NNL của Việt Nam so với các nước khác
  17. 17 Chỉ số tổng hợp Sự thành thạo Sự thành thạo chất lượng NNL về tiếng Anh STT về công nghệ cao (Điểm) (Điểm) (Điểm) Hàn Quốc 1 6,91 4,0 7,00 2 Singgapore 6,81 8,33 7,83 Nhật Bản 3 6,50 3,50 7,50 Đài Loan 4 6,04 3,86 7,62 ấn Độ 5 5,76 6,62 6,75 Trung Quốc 6 5,73 3,62 4,37 7 Malaysia 4,53 4,00 5,50 Hồng Công 8 5,20 4,50 5,43 9 Philípine 4,53 5,40 5,00 10 Thái Lan 6,04 2,82 3,27 Việt Nam 11 3,79 2,62 2,50 Inđônêsia 12 3,74 3,00 Nguồn: Báo VNN ngày 2/10/2003 Do vậy cần phải đổi mới mạnh mẽ giáo dục và đào tạo nghề, trung học chuyên nghiệp và đại học mới đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng tăng trưởng trong thời gian tới. Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng ta đã chỉ rõ: "Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đ ào tạo với sử dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao…nhanh chóng xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý về ngành nghề, trình độ đào tạo, dân tộc, vùng miền…" [12, tr.96-97]. Chi cho giáo dục b ình quân đầu người ở Việt Nam hiện nay vào loại thấp nhất trong khu vực. Việc cải cách hệ thống đào tạo được xem như một khâu nền tảng của một chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đã không được triển khai một cách hiệu quả. Thậm chí, công việc này được tiến hành một cách thiển cận, mang tính chắp vá và cải lương. Việc cải cách giáo dục không dựa trên sự h iểu biết về thời đại và các đòi h ỏi phát triển của thời đại đặt ra c ho con người, không xu ất phát từ một tầm nhìn dài hạn nên không có ý tưởng đúng và rõ ràng. Sự chậm trễ của quá trình cải cách thực sự sẽ gây ra
  18. 18 nh ững tổn thất lớn, đ ược đo bằng sự tụt hậu của đất nước theo đ ơn vị là từng thế hệ chứ không phải l à số chi phí m à Nhà nước bỏ ra hiện tại, dù đ ây là con số rất lớn. Nói tóm lại, việc chuẩn bị nguồn nhân lực có khả năng đáp ứng các đòi hỏi hướng tới chất lượng và trình độ công nghệ cao của giai đoạn tới chưa được cải thiện. Với tình trạng như hiện nay, chắc chắn trong thời gian tới, sẽ chưa có một chuyển biến và cải thiện đáng kể nào về cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực của nước ta. - Thứ ba: Tốc độ tăng dân số ảnh hưởng đến NNL. Tốc độ và quy mô dân số ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng, chất lượng của nguồn nhân lực. Một trong những nguyên nhân cản trở tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế là quy mô dân số đông, tốc độ dân số gia tăng lớn. Dân số gia tăng làm tăng nhân khẩu ăn theo trên một lao động, làm chậm tốc độ tăng GDP/người, gây sức ép về nhu cầu việc làm và các vấn đề xã hội khác. Theo số liệu của Tổ chức dân số Liên Hiệp quốc thì khi dân số tăng 1%, muốn đảm bảo công ăn việc làm, thu nhập như trước phải gia tăng 3% GDP. ở nước ta thời kỳ 1996-2000 mức tăng dân số bình quân 1,5%/năm mà mức tăng GDP bình quân là 6,9%/năm (trội hơn mức cần có là 3,35%/năm). Thời kỳ 2001-2005 mức tăng dân số là 1,2%/năm mà mức tăng GDP là 7,5%/năm (trội hơn 3,9%/năm). Việc làm đang là vấn đề bức xúc cần được giải quyết hiện nay. Để nâng cao chất lượng NNL đồng thời để giảm bớt bất hợp lý trong quan hệ Cung - Cầu NNL, chính sách dân số hợp lý l à cơ sở ảnh h ưởng trực tiếp đ ến NNL. Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và X ã hội, trong giai đo ạn 2001 - 2 005 nư ớc ta đ ã tạo việc làm cho kho ảng 7,54 triệu người, tăng 23,6% so với giai đoạn 1996 - 2000, bình quân hàng năm là 1,5 triệu người được tạo việc làm, tỷ lệ thất nghiệp giảm. Tuy nhiên, NNL nước ta
  19. 19 còn b ị lãng phí, b ởi tính đến 1/7/2004 có tới 5,6 % lao động th ành thị và 20,66% lao động nông thôn thất nghiệp ho àn toàn, tương đương với 9 triệu lao đ ộng thất nghiệp hoàn toàn [33, tr.20]. Trong số này có không ít lao động trẻ, có sức khoẻ và không ít lao động đã qua đ ào tạo. Tỷ lệ lao động đ ã qua đ ào tạo chưa có việc làm ho ặc làm không đúng nghề còn lớn, lãng p hí rất nhiều chi phí đào tạo; cơ c ấu lao động còn m ất cân đối nghiêm trọng. Như vậy nguồn lao động lớn chưa được sử dụng, hoặc sử dụng chưa c ó hiệu quả đang trở th ành vấn đề x ã hội lớn. Cũng theo Bộ Lao động - Thương binh và X ã hội, đến năm 2010 dân số n ước ta sẽ đạt tới 88 triệu ng ười trong đó dân số trong độ tuổi lao động đạt 59,3 triệu người (chiếm 67,4%) với mức tăng b ình quân 1,5 triệu ng ười/năm, thành thị tăng 460 nghìn người/năm và nông thôn tăng hơn 1 triệu người/năm [1, tr.9]. Mức độ gia tăng tương đối cao của lực lượng lao động trong bối cảnh tỷ lệ thất nghiệp ở thành th ị v à tỷ lệ thời gian nhàn rỗi ở nông thôn tương đối cao như hiện nay đang đặt ra những vấn đề lớn cần giải quyết, trong khi đó chất lượng lao động thấp thể hiện ở chỗ tỷ lệ lao động có tr ình độ chuyên môn kỹ thuật trong tổng lực lượng lao động thấp và cơ cấu lực lượng lao động b ất hợp lý. Trong khi đó, thị trường sức lao động chưa phát triển, chất lượng giáo dục, đào tạo và dạy nghề còn thấp dẫn đến một loạt vấn đề mâu thuẫn liên quan đ ến giải quyết việc làm, đến việc phát triển chất lượng của lực lượng lao động, hay nói đúng hơn là phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu CNH, HĐH đất nước. Do đó, tăng trưởng dân số phù hợp với mức tăng trưởng của sức sản xuất xã hội, trong đó phù hợp với tăng chất lượng của NNL sẽ giúp kinh tế phát triển ổn định. Vì vậy, Đại hội X của Đảng đã đề ra kế hoạch đến năm 2010, tốc độ tăng dân số khoảng 1,14%, trong 5 năm tạo việc làm cho trên 8 triệu
  20. 20 người, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị d ưới 5% [12, tr.189]. Ngoài đảm bảo tốc độ tăng cần đặc biệt chú trọng tới vấn đề chất lượng dân số, vì chất lượng dân số chính là chất lượng nguồn nhân lực. - Thứ tư: Truyền thống dân tộc và sự phát triển của nền văn hóa. Văn hoá là tổng thể những tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen trong tư duy, lối sống và ứng xử của mỗi người và cộng đồng, đó là yếu tố tinh thần trong chất lượng NNL. Mỗi dân tộc, quốc gia có nền văn hoá riêng, mang bản sắc riêng và có giá trị độc đáo riêng. CNH, HĐH là quá trình biến đổi cách mạng về mọi mặt của đời sống con người và cộng đồng. CNH, HĐH thực hiện được phải trong một môi trường văn hóa phù hợp. ở nước ta truyền thống dân tộc và văn hoá Việt Nam là “Tài sản kế thừa của các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau”. Văn hoá và truyền thống dân tộc là nhân tố quan trọng để hình thành và phát triển NNL đất nước. Coi trọng và gìn giữ bản sắc dân tộc gắn với sự phát triển văn minh của nhân loại đó chính là môi trường văn hoá lành mạnh cho CNH, HĐH ở nước ta. Môi trường văn hoá là cơ sở phát triển con người, việc tạo lập môi trường văn hoá phù hợp với yêu cầu CNH là nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả, thời gian và định hướng đúng đắn sự hình thành và phát triển NNL ở nước ta. Truyền thống lịch sử và nền văn hoá của một quốc gia cũng bồi đắp và kết tinh trong mỗi con người và cả cộng động dân tộc, hun đúc nên bản lĩnh, ý chí, tác phong của con người trong lao động. - Thứ năm: Các chính sách kinh tế - xã hội vĩ mô tác động đến NNL. Các chính sách vĩ mô của Nhà nước tác động trực tiếp đến NNL gồm: Chính sách giáo d ục và đào tạo, chính sách tuyển dụng, sử dụng lao động, chính sách tiền lương, thu nhập, bảo hiểm x ã hội, bảo hộ lao động... Bằng hệ
nguon tai.lieu . vn