Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA THỦY SẢN BỘ MÔN SINH HỌC VÀ BỆNH HỌC THỦY SẢN HỒ NGỌC THI NGHIÊN CỨU SỰ KHÁNG THUỐC CỦA NHÓM VI KHUẨN Aeromonas spp, Vibrio spp TRONG MÔI TRƯỜNG AO NUÔI CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) THÂM CANH Ở CẦN THƠ VÀVÙNG NƯỚC LỢ TỈNH TRÀ VINH VÀ BẾN TRE LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH BỆNH HỌC THUỶ SẢN 2009 PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  2. LỜI CẢM TẠ Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành gởi đến Cô Từ Thanh Dung đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và đóng góp nhiều ý kiến quý báu trong suốt thời gian thực hiện đề tài, giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Thầy cô Khoa Thuỷ Sản đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong học tập cũng như hoàn thành tốt luận văn. Anh, chị lớp Bệnh Học Thuỷ Sản khoá 30 đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian tôi làm việc ở phòng thí nghiệm. Tập thể lớp Bệnh Học Thuỷ sản khóa 31 đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài . i PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  3. TÓM TẮT Đề tài nhằm nghiên cứu sự kháng thuốc của vi khuẩn Aeromonas spp, Vibrio spp trong môi trường ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở Cần Thơ, và vùng nước lợ tỉnh Trà Vinh, Bến Tre. Vi khuẩn Aeromonas spp trong môi trường (nước, bùn) được phân lập trên môi trường GSP-Agar và Vibrio spp trên môi trường TCBS. Kết quả kháng sinh đồ cho thấy Cần Thơ có nhiều vi khuẩn Aeromonas spp kháng thuốc hơn tỉnh Trà Vinh và Bến Tre: 3/9 chủng kháng với SM, TE, SXT; 2/9 chủng kháng với DO, không có chủng vi khuẩn nào kháng với CHL, đồng thời Aeromonas spp đa kháng chiếm 3/9 chủng. Trong đó 1 chủng kháng với SXT-DO-TE-SM, 1 chủng kháng với SXT-DO-TE và 1 chủng kháng với SXT- SM. Tỉnh Trà Vinh có 2/9 chủng đa kháng thuốc (một chủng kháng CHL-SM, một chủng kháng SXT-TE), vi khuẩn Aeromonas spp kháng với CHL, SXT, DO, TE có cùng số lượng 1/9 chủng, 3/9 chủng kháng với SM. Bến Tre có số lượng vi khuẩn kháng, đa kháng thuốc tương đương với tỉnh Trà Vinh: 2/8 chủng đa kháng (1chủng kháng DO-TE, 1 chủng kháng SXT-SM), vi khuẩn kháng thuốc SXT, DO, TE có cùng số lượng: 1/8 chủng, 5/8 chủng kháng với SM và không có chủng nào kháng với CHL. Riêng các chủng Vibrio spp tại Trà Vinh, Bến Tre có 9/11 chủng kháng với SM và không có chủng nào kháng với CHL, SXT, DO, AM, TE. Kết quả nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của các chủng vi khuẩn khảo sát khá cao. Đối với SM có giá trị: 16-64 µg/ml, CHL là 1-32 µg/ml, OXT: 0,125- 64 µg/ml. Riêng chủng Vibrio spp VBT0930 với nồng độ thuốc OXT là: 0,125 µg/ml rất thấp so với các chủng Aeromonas spp (32-64 µg/ml). ii PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  4. MỤC LỤC PHẦN I: GIỚI THIỆU................................................................................... 1 PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU .............................................................. 3 2.1 Thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản............................................. 3 2.2 Những nhóm thuốc kháng sinh đã được sử dụng phổ biến ....................... 4 2.2.1 Nhóm sulfamid .................................................................................... 4 2.2.2 Nhóm β-lactamin .................................................................................. 5 2.2.3 Nhóm tetracyclin ................................................................................. 5 2.2.4 Nhóm phenicol .................................................................................... 5 2.2.5 Nhóm aminosid .................................................................................... 6 2.2.6 Nhóm trimethoprim ............................................................................. 6 2.3 Vi khuẩn Aeromonas spp và Vibrio spp ................................................... 6 2.4 Nghiên cứu về mật độ vi khuẩn tổng cộng trong môi trường nước ........... 9 2.5 Nghiên cứu về sự kháng thuốc của các vi khuẩn trong nuôi thuỷ sản ....... 9 2.6. Các thí nghiệm xác định nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) ......................13 PHẦN III: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................15 3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu ...........................................................15 3.2 Vật liệu nghiên cứu .................................................................................15 3.2.1 Dụng cụ ...............................................................................................15 3.2.2 Môi trường, hoá chất và vật liệu nghiên cứu ........................................15 3.3 Phương pháp nghiên cứu.........................................................................16 3.3.1 Địa điểm thu mẫu .................................................................................16 3.3.2 Số mẫu .................................................................................................16 3.3.3 Phương pháp thu mẫu ..........................................................................16 3.3.4 Phương pháp phân lập vi khuẩn ...........................................................16 3.3.5 Phương pháp định danh vi khuẩn .........................................................17 3.3.6 Phương pháp lập kháng sinh đồ ..........................................................17 3.3.7 Phương pháp xác định nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) .......................18 PHẦN IV: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .....................................................20 4.1 Kết quả thu mẫu, phân lập và định danh vi khuẩn ...................................20 4.2 Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ ...............................................................22 4.2.1 Kết quả kháng sinh đồ của vi khuẩn Aeromonas spp ở Cần Thơ ..........22 4.2.2 Kết quả kháng sinh đồ của vi khuẩn Aeromonas spp ở Trà Vinh ..........24 4.2.3 Kết quả kháng sinh đồ của vi khuẩn Aeromonas spp ở Bến Tre ...........26 4.2.4 Kết quả kháng sinh đồ của vi khuẩn Vibrio spp ở Trà Vinh và Bến Tre ............................................................................................................... 27 4.3 Kết quả nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của kháng sinh lên vi khuẩn..... 29 PHẦN V: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT ........................................................ 32 iii PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  5. 5.1 Kết luận ................................................................................................. 32 5.2 Đề xuất .................................................................................................. 32 PHẦN VI: TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 34 PHỤ LỤC .................................................................................................... 37 iv PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  6. DANH SÁCH BẢNG Bảng 4.1 : Tính đa kháng thuốc vi khuẩn Aeromonas spp ở Cần Thơ ....... 23 Bảng 4.2: Tính đa kháng thuốc vi khuẩn Aeromonas spp ở Trà Vinh ........ 26 Bảng 4.3 : Tính đa kháng thuốc vi khuẩn Aeromonas spp ở Bến Tre ........ 27 Bảng 4.4 : Giá trị nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) ..................................... 30 v PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  7. DANH SÁCH HÌNH Hình 2.1: Các con đường trao đổi sự kháng thuốc của vi khuẩn giữa động vật và con người…………………………………………………………………..4 Hình 4.1: Đĩa phân lập Aeromonas spp màu vàng (mũi tên) trên môi trường GSP (a) , cấy Aeromonas spp trên môi trường GSP (b)……………………...21 Hình 4.2: Hình đĩa kháng sinh đồ chủng Aeromonas spp ở Cần Thơ………..22 Hình 4.3: Biểu đồ đặc tính kháng thuốc của vi khuẩn Aeromonas spp tại Cần Thơ…………………………………………………………………………...23 Hình 4.4: Biểu đồ đặc tính kháng thuốc của vi khuẩn Aeromonas spp tại Trà Vinh…………………………………………………………………………..25 Hình 4.5: Biểu đồ đặc tính kháng thuốc của vi khuẩn Aeromonas spp tại Bến Tre……………………………………………………………………………27 Hình 4.6: Biểu đồ đặc tính kháng thuốc của vi khuẩn Vibrio spp tại Trà Vinh, Bến Tre………………………………………………………………………28 Hình 4.7: Kết quả MIC của chủng Aeromonas spp ACT097 ……………….30 vi PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  8. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ĐBSCL: Đồng Bằng Sông Cửu Long AM: ampicillin CHL: chloramphenicol DO: doxycyclin FT: nitrofurantion NA: nalidixic NFXC: norfloxcin OXLA: oxolinic acid OXT: oxytetracyclin SM: streptomycin SMX: sulfamethoxazol SXT: trimethoprim + sulfamethoxazol TE: tetracyclin TMP: trimethoprim R: kháng I: trung bình nhạy S: nhạy vii PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  9. PHẦN I GIỚI THIỆU Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) với ngành nuôi trồng thủy sản phát triển rất nhanh chóng góp phần tích cực vào việc nâng cao nguồn thu nhập của cộng đồng và tăng kim ngạch xuất khẩu (http://www.mekongdelta.com.vn). Vùng đã cung cấp hơn 80% tổng sản phẩm thủy sản của cả nước. Trong đó cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) là một sản phẩm rất quan trọng ở khu vực nước ngọt. Năm 2007, tổng sản lượng cá tra, ba sa của toàn vùng 1,2 triệu tấn, theo dự đoán của ngành thủy sản: sản lượng quy hoạch cho đến năm 2010 là 1,5 triệu tấn. Riêng tỉnh Bến Tre tính đến nay có khoảng 600 ha nuôi cá tra, basa (http://www.vasep.com.vn). Tổng diện tích đất được sử dụng để nuôi trồng thủy sản Trà Vinh khoảng 29.187 ha (http://www.mdec.vn). Với nổ lực tăng nhanh sản lượng thuỷ sản và kim ngạch xuất khẩu, các nước đang phát triển rất chú trọng tới nuôi trồng thuỷ sản. Ðể đạt được sản lượng và lợi nhuận cao nhất, nhiều ngư dân hiện đang áp dụng các phương thức nuôi thâm canh và tăng cường mở rộng diện tích.Tuy nhiên, khi nghề nuôi được thâm canh hóa nhất là nuôi với mật độ cao thì vấn đề dịch bệnh xảy ra thường xuyên hơn và thiệt hại cũng nhiều hơn. Nghề nuôi thủy sản cũng đang phải đương đầu với tình trạng bệnh thường xuyên xuất hiện và ngày càng nghiêm trọng do môi trường ô nhiểm và sự lây lan mầm bệnh. Nhất là bệnh do vi khuẩn đã và đang gây thiệt hại nghiêm trọng đến sản lượng tôm cá. Thông thường, người ta sử dụng thuốc kháng sinh để kiểm soát các vi khuẩn gây bệnh. Do việc sử dụng không đúng cách nên đã gây ra hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc và tích tụ dư lượng thuốc kháng sinh trong sản phẩm. Việc sử dụng kháng sinh bừa bãi trong nuôi trồng thuỷ sản có thể gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng như gây độc, biến đổi hệ vi khuẩn ở người tiêu dùng (www.nhanong.net). Thực trạng cho thấy, việc sử dụng thuốc kháng sinh trong thủy sản không chỉ phổ biến ở ĐBSCL nói riêng, Việt Nam nói chung mà còn diễn ra ở nhiều nước trên thế giới. Đây là vấn đề đáng quan tâm và đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu (Phuong et al., 2005; Le et al., 2005; Sarter et al., 2006; Dung et al., 2008). Do nhu cầu của thị trường, nhu cầu cải thiện đời sống, chuyển đổi đối tượng nuôi của các vùng nhằm hạn chế những rủi ro dịch bệnh cho đối tượng nuôi của người dân. Hiện tại cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) đã được 1 PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  10. nuôi khá phổ biến ở các vùng nước lợ. Song song với những việc làm này thì việc sử dụng thuốc kháng sinh của người dân là vấn rất quan trọng cần được quan tâm. Việc sử dụng thuốc kháng sinh không đúng cách sẽ tạo ra nhiều chủng vi khuẩn kháng thuốc, tạo nên một mối nguy hiểm tiềm tàng. Theo Kruse (1994) và Prescott et al., (2000) các gen kháng thuốc từ vi khuẩn liên quan đến động vật nuôi sẽ được truyền sang vi khuẩn liên quan đến người qua chuỗi thức ăn hoặc qua tiếp xúc trực tiếp (được thể hiện qua hình 2.1) và tác động đến khả năng kháng thuốc của các chủng vi khuẩn ở người . Xuất phát từ những vấn đề trên cho thấy việc thực hiện đề tài “Nghiên cứu sự kháng thuốc của nhóm vi khuẩn Aeromonas spp, vibrio spp trong môi trường ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở Cần Thơ và vùng nước lợ tỉnh Trà vinh, Bến Tre” là rất cần thiết. Mục tiêu Đánh giá, sự kháng thuốc của hai nhóm vi khuẩn Aeromonas spp và Vibrio spp trong môi trường ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở Cần Thơ và vùng nước lợ Trà Vinh, Bến Tre. Từ đó có cách nhìn sâu hơn về thuốc kháng sinh nhằm có biện pháp kiểm soát việc sử dụng thuốc kháng sinh trong chăn nuôi, thuỷ sản một cách triệt để hơn, và góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Nội Dung Thu mẫu, phân lập, định danh đến giống 2 loại vi khuẩn Aeromonas spp, Vibrio spp trong môi trường nuôi cá tra (nước và bùn) thâm canh ở Cần Thơ, Trà Vinh, Bến Tre. Lập kháng sinh đồ hai loại vi khuẩn Aeromonas spp và Vibrio spp. Xác định giá trị MIC bằng phương pháp pha loãng. 2 PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  11. PHẦN II TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1 Thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản Trong nuôi trồng thuỷ sản việc sử dụng kháng sinh rất có hiệu quả trong các trường hợp trị bệnh nhiễm khuẩn, giúp động vật thuỷ sản phục hồi lại chức năng sinh lý bình thường, nâng cao tỷ lệ sống, nếu việc dùng đúng bệnh, đúng liều, đúng thời gian. Nhưng khi sử dụng kháng sinh quá mức, tuỳ tiện, thiếu hiểu biết sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng: gây ra hiện tượng vi khuẩn gây bệnh kháng thuốc, ảnh hưởng đến sức khoẻ của vật nuôi, tác động đến môi trường sinh thái và ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Tuy vậy, việc dùng thuốc, đặc biệt là lạm dụng thuốc đang phổ biến rộng trong ngành nuôi thuỷ sản ở Việt Nam và các nước trong khu vực. Điều này có thể sẽ mang lại nhiều hậu quả nặng nề và ngày càng nghiêm trọng khi những người nông dân tham gia nuôi trồng thuỷ sản có hiểu biết rất ít về hiệu quả và tác dụng phụ của từng loại thuốc mà họ đang dùng. Trong thuỷ sản, tuy việc dùng thuốc kháng sinh để phòng và trị bệnh nhiễm khuẩn cho vật nuôi bằng phương pháp cho ăn nhưng cũng đã thải vào môi trường nuôi một lượng kháng sinh không nhỏ do không được vật nuôi hấp thụ hoặc kháng sinh đã được vật nuôi hấp thụ và đào thải ra môi trường. Lượng kháng sinh này sẽ theo nguồn nước lan toả ra môi trường xung quanh, một phần nhỏ sẽ hoà tan trong nước, nhưng một phần lớn lại lắng động cùng với các chất trầm tích gây tác động đến môi trường sinh thái và đe doạ sức khoẻ con người. Theo Rosenthal (1989) đã thông báo rằng, để sản xuất 120.000 tấn cá hồi, người ta phải dùng 1800 kg kháng sinh, trong đó ước tính cơ thể cá chỉ hấp thụ tối đa khoảng 20-30% số thuốc, còn lại 70-80% số thuốc đã dùng được đào thải ra môi trường. Cravedi (1987) đã xác định được rằng, chỉ có khoảng 7-9% khối lượng kháng sinh oxytetracycline đã dùng được cá hấp thu, còn lại 90% sẽ đào thải ra môi trường. Trong khi đó kháng sinh oxytetracycline được dùng phổ biến trong nuôi trồng thuỷ sản ở khắp thế giới, chủ yếu bằng phương pháp trộn thuốc vào thức ăn. Hanse (1992) đã thông báo: dư lượng kháng sinh trong chất trầm tích có thể giảm 40-50% mật độ vi khuẩn ở nền đáy, và giảm tới 90% hàm lượng phosphate trong chất trầm tích (trích dẫn bởi Đỗ Thị Hoà và ctv, 2004). Theo Prescott et al., (2000) tính kháng thuốc của vi khuẩn trên vật nuôi có thể truyền sang vi khuẩn liên quan với con người bằng nhiều con đường khác nhau. Những đối tượng có nguy cơ bị nhiễm các vi khuẩn kháng thuốc cao là: công nhân lò mổ, người chế biến thức ăn và đặc biệt là người nông dân 3 PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  12. trực tiếp cho vật nuôi ăn thuốc kháng sinh thì có khả năng nhiễm vi khuẩn kháng thuốc nhiều hơn những người bình thường. Khả năng truyền tính kháng thuốc có thể được thực hiện thông qua chuỗi thức ăn hoặc qua tiếp xúc trực tiếp. MÔI TRƯỜNG MÔI TRƯỜNG NUÔI THUỶ NUÔI THUỶ SẢN (cá SẢN xác) và giáp (cá và giáp xác) Biể Biển Bơi lội Nước uống Sông, suối Nước uống Nước thải Nguồn Nguồn nước , nước, chất chất thải của thải nông nông trại HỆ THỰC VẬT Chế trại Rau biến Cây ăn quả Phế phẩm ĐỘNG VẬT CON NGƯỜI Thức ăn TRÊN CẠN Lò Lò Người Nguồn Bệnh viện, thành gia xúc Cừu, Ngựa, Heo, mổ mổ Thịt tiêu tiêu phố, nông thôn Gia Cầm, Bò thụ thụ Động trong Vật nuôivật nhà Tiếp xúc trực tiếp Tiếp xúc trực Hình 2.1: Các con đường trao đổi sự kháng thuốc của vi khuẩn giữa động vật và con người (Prescott et al., 2000) Tóm lại: dùng thuốc kháng sinh là sử dụng con dao hai lưỡi. Nếu biết rõ tính chất, tác dụng, dùng đúng bệnh, đúng liều, đúng cách, nó giúp con người trị được nhiều bệnh nguy hiểm. Sử dụng bừa bãi sẽ gây những hậu quả trầm trọng: tăng tác dụng phụ, tăng độc tính, gây chủng vi khuẩn lờn thuốc làm cho việc chữa trị về sau gặp khó khăn, dễ bị bội nhiễm, đôi khi dẫn tới tử vong.Trị liệu bằng kháng sinh được coi như sự trợ giúp nhất thời khi khả năng chống bệnh suy giảm, vì thế ta nên tăng cường các biện pháp phòng bệnh hơn là phải trị bệnh (Bùi Kim Tùng và ctv, 2001). 2.2 Những nhóm thuốc kháng sinh đã được sử dụng phổ biến 2.2.1 Nhóm sulfamid Còn được gọi là sulfonamid. Theo Bùi Kim Tùng, 2001 chất căn bản của sulfamid là sulfanilamid hay para-aminosulfamid. Suldamid có tác dụng kìm khuẩn. Hoạt phổ rất rộng gồm các vi khuẩn Gram âm và Gram dương. Với cấu trúc tương tự, sulfamid thế vào vị trí của acid para aminobenzoic 4 PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  13. (APAB) là một tiền chất của acid folic mà vi khuẩn cần được cung cấp để tổng hợp các chất purin, pyrimidin, thymin, làm ức chế sự tổng hợp purin, thymin làm cho sự phân bào và tổng hợp protein khó thực hiện được (Bùi Kim Tùng, 2001). Một số vi khuẩn chủng kháng thuốc là do không sử dụng APAB, hoặc tự thích ứng để không cần sử dụng APAB nữa. Ngoài ra sự nhiểm plasmid cũng dẩn đến tình trạng kháng thuốc của vi khuẩn. Trong nuôi trồng thuỷ sản hiện nay thường dùng sulfamethoxazole,…và ở dạng kết hợp với trimethoprim để trị các bệnh như: đỏ mỏ, viêm ruột, xuất huyết, đốm đỏ, trắng đuôi do vi khuẩn Vibrio gây ra trên cá (Lê Thị Kiêm Liên và Nguyễn Thị Như Ngọc, 2006; Đỗ Thị Hoà và ctv, 2004). 2.2.2 Nhóm β-lactamin (penicillins và cephalosporins) Penicillin là thuốc kháng sinh được phát hiện đầu tiên, mở đầu cho kỷ nguyên kháng sinh quang trọng. Năm 1928, Fleming phát hiện ra penicillin từ Penicillium notatum. Nhưng mãi đến năm 1943 mới được sản xuất công nghiệp (Bùi Kim Tùng và ctv, 2001). Theo Bùi Thị Tho (2003) các penicillin đều có chung một nhân hoá học cơ bản là: 6- amino penicillanic acid. Nhóm kháng sinh này có tác dụng ức chế sự tổng hợp thành tế bào vi khuẩn. Ampicillin thuộc nhóm penicillin tổng hợp là loại thuốc hạn chế sử dụng trong thuỷ sản. Thuốc có phổ kháng sinh rộng, chúng tác dụng cả với vi khuẩn Gram (+) và Gram (-), cả những chủng tụ cầu, liên cầu đã kháng lại penicillin, cả với Pseudomonas. (Bùi Thị Tho, 2003). 2.2.3 Nhóm tetracyclin Nhóm này có phổ kháng khuẩn rộng tác dụng lên vi khuẩn Gram âm, Gram dương, nguyên sinh động vật, là kháng sinh kìm khuẩn phổ rộng, ở nồng độ thấp có khả năng ức chế vi khuẩn nhưng ở nồng độ cao có tác dụng diệt khuẩn (Trần Thị Thu Hằng, 2006). Oxytetracyclin (kháng sinh thế hệ I), doxycyclin (kháng sinh thế hệ II) thường được dùng phổ biến trong nuôi thuỷ sản. Các kháng sinh này thường dùng để trị bệnh đường ruột, bệnh nhiễm khuẩn máu, xuất huyết của các loài cá nước ngọt: cá tra, cá basa, cá trắm cỏ (Đỗ Thị Hoà và ctv, 2004). Theo Lê Thị Kim Liên và ctv (2006) các kháng sinh này dùng điều trị đỏ mỏ, đỏ kỳ, trắng da, lở loét, chướng hơi ngửa bụng trên cá, bệnh trầy da của ếch, bệnh phồng cổ của baba. 2.2.4 Nhóm phenicol 5 PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  14. Theo Bùi Kim Tùng và ctv (2001) có tác dụng ức chế sự tổng hợp protein của vi khuẩn bằng cách ngăn cản bước chuyển đổi axid amin giữa ARN vận chuyển và ribosom 50S. Chloramphenicol thường có tác dụng kiềm khuẩn nhưng có thể diệt khuẩn ở nồng độ cao hoặc đối với những vi khuẩn nhạy cảm cao. Vi khuẩn lờn thuốc là do tiết ra acety transferaz làm chloramphenicol mất hoạt tính. Hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam đã ban hành luật cấm sử dụng chloramphenicol vì nếu dùng thường xuyên để trị bệnh cho động vật sẽ rất nguy hiểm cho chúng, thuốc có khả năng tồn lưu cao trong các sản phẩm thức ăn của con người (Lê Thị Kim Liên và ctv, 2006). Florfenicol là kháng sinh thế hệ mới nhất của nhóm Phenicol, có hiệu quả trong điều trị các bệnh do vi khuẩn Gram âm, Gram dương (www.laocai.gov.vn). 2.2.5 Nhóm aminosid Là nhóm kháng sinh có phổ kháng khuẩn rộng đối với hầu hết vi khuẩn gram (-) và một số vi khuẩn gram (+) hiếu khí, ít tác dụng đối với vi khuẩn kỵ khí vì Aminosid thấm qua màng tế bào vi khuẩn một phần nhờ hệ thống vận chuyển hoạt động phụ thuộc vào oxygen nên vi khuẩn kỵ khí tuyệt đối không chịu tác động của Aminosid. Aminosid là kháng sinh diệt khuẩn, chúng ức chế tổng hợp protein, (Trần Thị Thu Hằng, 2006). Streptomycin là loại thuốc thường được dùng trong thuỷ sản. Bệnh chướng bụng đầy hơi do nhiễm khuẩn ở cá, ếch, baba, tôm có thể dùng kháng sinh Aminosid trộn vào thức ăn cho ăn (Lê Thị Kim Liên và ctv, 2007). 2.2.6 Nhóm trimethoprim Trimethoprim có tác dụng kìm khuẩn, ức chế enzyme dihydroflolate- reductase của vi khuẩn, thường phối hợp với sulfamethoxazole. Thuốc hấp thu nhanh và hoàn toàn qua đường tiêu hoá, đào thải chủ yếu qua thận và phần lớn dưới dạng không đổi (www.thuocbietduoc.com.vn). Theo Nguyễn Phước Tương và Trần Diễm Uyên (2000) Trimethoprim là nhóm kháng khuẩn tổng hợp tương tự như kháng sinh. Trimethoprim có tác dụng diệt khuẩn đối với các vi khuẩn gram (-) và gram (+), đặc biệt rõ nét trên E. coli, Salmonella, Shigella, Enterobactera, Citrobacter và cầu ký trùng Eimeria … 2.3 Vi khuẩn Aeromonas spp và Vibrio spp Theo Inglis et al., (1993) Vibrio spp là giống vi khuẩn Gram (-), dạng que thẳng hoặc hơi cong, kích thước 0,5-0,3 µm x 1,4-2,6 µm. Chúng không tạo bào tử và có khả năng di động bởi một hoặc nhiều roi. Tất cả vi khuẩn 6 PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  15. thuộc giống này đều kị khí không bắt buộc, hoá dưỡng, oxidase (+), nhạy với phản ứng (O/129). Hầu hết, các loài thuộc giống này phát triển tốt trong môi trường nước biển, vùng cửa sông và trên các con vật thuộc vùng nước mặn. Ion Na+ có tác dụng kích thích cho sự phát triển của chúng. Một vài loài có khả năng gây bệnh cho người và vật nuôi. Các vi khuẩn thuộc giống này gây bệnh phần lớn trên cá biển (V. alginolyticus, V. anguillarum, V. ordalii, V. salmonicida và V. Vulnificus), riêng Aeromonas spp gây bệnh trên cá nước ngọt. Theo Đỗ Thị Hoà (2004) giống Vibrio spp thuộc họ Vibrionaceae, có một số đặc điểm chung như sau: có dạng hình que hay hình dấu phẩy, kích thước tế bào 0,3-0,5 x 1,4-2,6 µm. Vibrio spp không hình thành bào tử và có khả năng chuyển động nhờ một tiên mao hoặc nhiều tiên mao mảnh. Là các vi khuẩn bắt màu gram (-), đa số phản ứng Oxydase (+), có khả năng oxy hoá và lên men trong môi trường O/F Glucose, không có khả năng sinh H2S và mẫn cảm với (O/129). Hầu hết các loài của giống Vibrio spp đều phân bố trong môi trường nước mặn. Môi trường thiosulphate citrate bile salt agar (TCBS) là môi trường chọn lọc của Vibrio spp. Dựa vào màu sắc khuẩn lạc trên môi trường này, Vibrio spp được chia thành hai nhóm: nhóm có khả năng lên men đường Sucrose và có khuẩn lạc màu vàng và nhóm không có khả năng lên men đường Sucrose có khuẩn lạc màu xanh lá cây trên môi trường (TCBS). Theo Đặng Thị Hoàng Oanh và ctv (2006) một nhóm vi khuẩn thuộc giống Vibrio spp đã gây thiệt hại kinh tế trong nuôi tôm công nghiệp ở Philippin, Ấn Độ và Indonesia là nhóm vi khuẩn phát sáng. Bệnh phát sáng do một số vi khuẩn có khả năng phát sáng gây ra như Vibrio harveyi, V. splendida, V. orientalis, V. ifscheri, V. vulnificus. Ở Việt Nam, những dạng nhiễm vi khuẩn phát sáng thường thấy ở trại sản xuất hoặc ương tôm giống. Khi vi khuẩn phát sáng hiện trong cơ thể tôm với số lượng lớn có thể làm tôm nhiễm bệnh phát sáng trong bóng tối. Vibrio phát sáng có thể phát thành dịch và gây chết đến 100% ấu trùng tôm, tôm giống và kể cả tôm trưởng thành. Do có đặc điểm tương tự nhau nên lúc đầu giống Aeromonas spp và Vibrio spp nằm chung họ Vibrionaceae. Giữa thập niên 80 Aeromonas spp lại được tách ra một họ riêng là Aeromonadaceae (Horneman và Mori, 2007) do Aeromonas spp không nhạy với phản ứng O/129 (150µg) (ngoại trừ A. caviae). Theo Barrow và Feltham (1993) Aeromonas spp được chia thành 2 nhóm dựa trên khả năng di động và ngưỡng nhiệt độ phát triển của chúng. Nhóm vi khuẩn A. hydrophila, A. sobria và A. caviae có các đặc điểm là có khả năng di động, 2 đầu hơi tròn, Gram âm, hình que ngắn, hiếu khí không bắt buộc, phát triển được ở 37oC. Nhóm thứ hai A. salmonicida (3 loài phụ gồm: 7 PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  16. A. salmonicida, A. achromogenes và A. nova) có đặc điểm tương tự nhưng chúng chỉ phát triển tốt nhất ở 22oC hoặc thấp hơn và không có tiêm mao cũng như chúng không có khả năng di động (trích dẫn bởi Nguyễn Hà Giang, 2008). Trong báo cáo về dịch bùng phát bệnh của Sanarelli (1891) nhóm gây bệnh thường gặp là A. hydrophila, A. caviae, A. sobria được phát hiện đầu tiên trên cá chình. Kế đến, trong các nghiên cứu trên cá chép của Schaperclaus (1930), phân lập được vi khuẩn A. hydrophila và cho đây là tác nhân gây bệnh cho cá (trích dẫn của Inglis et al., 1993). A. salmonicida là nhóm gây bệnh chủ yếu cho cá vùng nước lạnh, như gây bệnh Furunculosis cho loài cá hồi và bệnh lở loét một số loài cá khác hoặc chứng phù đỏ ở cá chép. Bệnh Furunculosis được báo cáo đầu tiên ở các trại giống cá hồi ở Đức bởi Emmerich và Weibel (1984). Bệnh xuất hiện hầu hết ở các quốc gia có cá hồi như Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Nam Phi, nhưng lại không có có Nam Mỹ. Bệnh có thể xâm nhập vào cơ thể cá do môi trường kém chất lượng, mật độ nuôi quá dày, cá bị sốc do nhiệt độ cao hoặc cá bị tổn thương (trích dẫn của Inglis et al, 1993). Bệnh do nhóm vi khuẩn Aeromonas spp. đã gây thiệt hại không kém nghiêm trọng cho nghề nuôi thuỷ sản nước ngọt ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung. Bệnh nhiễm trùng máu (bệnh đốm đỏ, xuất huyết …) do nhóm vi khuẩn này gây ra và thường gặp ở các động vật thuỷ sản nước ngọt như: trắm cỏ, ba sa, chép, tai tượng,… Mặt khác, chúng còn có thể gây bệnh ở baba, cá sấu, bệnh đỏ chân ở ếch, đốm nâu ở tôm càng xanh. Tỉ lệ tử vong thường từ 30-70% (Đỗ Thị Hoà và ctv, 2004). A. hydrophila được cho là tác nhân gây bệnh đốm đỏ hay còn gọi là bệnh sởi, xuất huyết do nhiễm trùng máu (Bergey (1957) được trích dẫn bởi (Từ Thanh Dung và ctv, 2005). Bên cạnh đó, A. hydrophila và A. caviae là tác nhân gây bệnh tuột nhớt trên cá bống tượng (Nguyễn Thị Như Ngọc, 1997). Theo Từ Thanh Dung (2005) bệnh xảy ra quanh năm nhưng thường tập trung vào mùa xuân và mùa thu ở miền Bắc và miền Nam nhưng tần số xuất hiện cao nhất là đầu mùa mưa và tỉ lệ tử vong từ 30-70%. Bệnh có thể xuất hiện ở tất cả các giai đoạn phát triển của cá (trích dẫn bởi Nguyễn Hà Giang, 2008). Vi khuẩn A. hydrophila không những gây ảnh hưởng cho nghề cá mà chúng còn gây ảnh hưởng không kém trên giáp xác (tôm càng xanh). Bệnh do vi khuẩn này xảy ra trên tôm càng xanh thường là bệnh đốm nâu. Vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể tôm khi có tổn thương trên lớp ngoại bì. Vì thế nên môi trường bị nhiễm bẩn hay các yếu tố môi trường không ổn định cũng gây ảnh hưởng sức khoẻ của tôm. Tôm mới bị bệnh thường yếu hoạt động chậm chạp 8 PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  17. và nằm yên ở đáy ao, kém ăn hoặc bỏ ăn. Trên các phần phụ như (râu, chân bò, chân bơi và đuôi), vỏ có các vết ăn mòn chuyển từ màu nâu sang đen và các phần phụ cụt dần. Phía trong vỏ kitin của mang có đốm đen (Bùi Quang Tề, 2003) 2.4 Một số nghiên cứu về mật độ vi khuẩn tổng cộng trong môi trường nước Theo Tô Công Tâm (2002) mật độ vi khuẩn tổng cộng trong nước ao nuôi cá tra vào những tháng lũ tại 3 tỉnh Đồng Tháp, Cần Thơ An Giang. Vi khuẩn tổng cộng trong nước ở tháng 8, tháng 10, tháng 11 và tháng 12 là : 187,2x103; 1237,5x103; 259,5x103; 223,2x103 (CFU/ml). Tương tự ở An Giang là: 267,5x103; 341,3x103; 385,7x103; 223,1x103 (CFU/ml) và Cần Thơ là: 42,75x103; 44,9x103; 896,3x103; 136x103 (CFU/ml). Theo Trần Anh Dũng (2005) mật độ vi khuẩn tổng cộng trong nước của các mô hình nuôi cá tra thâm canh dạng đăng quầng tại tỉnh An Giang dao động từ 9,3 x103 đến 7,5x105 (CFU/ml) và trong mô hình nuôi ao dao động từ 7,7x103 đến 9,85x104 (CFU/ml). Theo kết quả khảo sát mật độ vi khuẩn tổng cộng trong nước ao nuôi cá tra của Nguyễn Mạnh Hùng (2008) phần lớn trong ao nuôi có mật độ vi khuẩn lớn nhất (dao động từ 1,5x103-56x103 CFU/ml), kế đến là ao lắng (dao động từ 1,5x103 - 43,5x103 CFU/ml) và nhỏ nhất lại là ao thải (dao động từ 1,05x103 – 23,5x103 CFU/ml). 2.5 Một số nghiên cứu về sự kháng thuốc của các vi khuẩn trong nuôi thuỷ sản Theo nghiên cứu của Trần Thị Tuyết Hoa và ctv (2004) về thành phần loài và khả năng gây bệnh của nhóm vi khuẩn Vibrio phân lập từ hệ thống ương tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) ở trại sản xuất giống Khoa Thuỷ Sản-Trường Đại Học Cần Thơ và Long Mỹ-Cần Thơ đã có 50 chủng vi khuẩn Vibrio được định danh với 4 nhóm loài chủ yếu: Vibrio choleerae (31 chủng), Vibrio alginolyticus (10 chủng), Vibrio carchriae (5 chủng) và Vibrio mimicus (4 chủng). Các chủng vi khuẩn này đều cho kết quả nhạy với các kháng sinh gentamicin, tetraciline, nalidix-Sav, chlortetracylin, neomycin, oxytetracylin. Bên cạnh đó, một số kháng sinh cũng có khả năng kháng lại 50 chủng phân lập này với các tỷ lệ tương ứng: kanamicin (49/50), streptomicin (40/50), carbenicilin (42/50) và ) oleandomycin (33/50). Ngược lại, 50 chủng vi khuẩn này lại kháng với các loại kháng sinh sau: penicilin (49/50), vancomycin (45/50) và polymycin-B (32/50). Ngoài ra, một số chủng vi khuẩn 9 PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  18. ( nồng độ 105-107 tế bào/ml) cũng thể hiện độc lực qua các thí nghiệm gây cảm nhiễm trên ấu trùng tôm càng xanh. Theo nghiên cứu của Đặng Thị Hoàng Oanh và ctv (2006) về xác định ví trí phân loại và khả năng kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn Vibrio phát sáng phân lập từ hậu ấu trùng tôm sú (Penaeus monodon). Kết quả kháng sinh đồ 26 trong số 27 chủng vi khuẩn được phân loại với 6 loại thuốc kháng sinh thông dụng trong nuôi thuỷ sản cho thấy: 100% chủng thử nghiệm kháng với ampicilin, và có khoảng từ (hoặc ít hơn) 15% vi khuẩn kháng với trimethoprim/ sulfamethoxazole, tetracillin, chloramphenicol, nitrofurantoin và noxfloxacin. Phần lớn (77%) các chủng vi khuẩn chỉ kháng với một loại kháng sinh. Số chủng khác kháng với 2 loại kháng sinh là 15%. Có một chủng kháng 4 loại và một chủng kháng với 6 loại kháng sinh thử nghiệm. Theo Phuong et al., (2005) có nhiều loại thuốc kháng sinh thường được sử dụng ở các trại nuôi và sản xuất giống cá da trơn tại ĐBSCL như: β- lactamin, quinolone, aminosid, sulfammid, tetracycline. Nhưng việc kết hợp nhiều loại kháng sinh với nhau trong phòng và trị bệnh cũng được người nuôi sử dụng phổ biến. Những tác giả này đã kiểm tra sự kháng thuốc của các dòng vi khuẩn phân lập từ môi trường nước và bùn đáy ở các trại nuôi các đối tượng khác nhau: cá da trơn (catfish), cá rô phi (tilapia), cá trích (common carp), cá chép (gouramy) ở 5 tỉnh thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long. Kết quả cho thấy 90% dòng vi khuẩn kháng với tetracycline, 76% kháng với ampicillin, 100% kháng với chloramphenicol, 65% kháng với nitrofurantoin và 89% kháng với trimethoprim-sulphamethoxazole. Từ kết quả, ta nhận thấy: sự kháng thuốc của các vi khuẩn trong môi trường ao nuôi thuỷ sản đang ở mức độ rất cao (trích dẫn bởi Sarter et al., 2005). Kết quả nghiên cứu của (Sarter et al., 2006) về sự kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn phân lập từ ao nuôi cá da trơn, có 92 chủng vi khuẩn được phân lập từ môi trường thuộc 3 trại nuôi cá da trơn được chọn lựa ngẫu nhiên khác nhau. Trong đó, tổng số chủng vi khuẩn thuộc họ: Enterobacteriaceae chiếm 49,1%, Pseudomonads chiếm 35,2%, Vibrionaceae chiếm 15,7%. Kết quả nghiên cứu sự kháng thuốc của các chủng vi khuẩn với 6 loại thuốc kháng sinh (0xytetracyline, chloramphenicol, trimethoprim-sulphamethoxazol, nitrofurantion, nalidixic acid và ampicillin) cho thấy phần lớn các chủng vi khuẩn đều có hiện tượng đa kháng thuốc: kháng với AM-OXT-SXT-NA chiếm 17,8%, kháng với OXT-SXT-NA chiếm 15,1%, kháng với AM-CHL- FT-SXT-NA chiếm 13,7%, kháng với AM-FT-OXT chiếm 9,6%, kháng với AM-CHL-FT-OXT-SXT-NA chiếm 8,2%. Từ kết quả cho thấy, sự kháng thuốc trong thuỷ sản đang ở mức cao. Những kết quả này cho thấy được khả 10 PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  19. năng kháng thuốc kháng sinh trong các loài vi khuẩn bản địa là một mối quan tâm lớn trong nuôi cá da trơn ở vùng ĐBSCL. Le et al., (2005) cũng đã nghiên cứu tính kháng thuốc của vi khuẩn đối với norfloxacin (NFXC), oxolinic Acid (OXLA), trimethoprim (TMP) và sulfamethoxazole (SMX) tìm thấy ở bốn vùng nuôi tôm có trồng đước ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đều có sự tồn dư của NFXC, OXLA, TMP, và SMX trong tất cả các mẫu nước. Lượng kháng sinh tồn dư trong nước ở Cà Mau cao hơn ở những tỉnh khác. Trong số đó, NFXC và TMP tồn dư có nồng độ rất cao với giá trị 1.64 và 1.69 ppm, nồng độ SMX không có sự khác biệt nhiều ở các tỉnh với nồng độ dao động từ 0.97-1.27ppm. Mật độ vi khuẩn trong nước cao nhất ở tỉnh Cà Mau và thấp nhất ở Nam Định. Sự kháng thuốc của vi khuẩn trong nước đối với NFXC, OXLA, TMP và SMX ở những khu vực khác nhau. Phạm vi kháng thuốc của vi khuẩn đối với những loại thuốc kháng sinh giảm khi nồng độ của thuốc kháng sinh trên môi trường thạch gia tăng từ 0.1-10µg/ml. Phạm vi kháng thuốc cao nhất của vi khuẩn đối với NFXC, OXLA, TMP và SMX khi có nồng độ 0.1µg/ml, được xác định ở Cà Mau với giá trị lần lượt: 52.11%, 42.33%, 67.97%, và 67.22%. Trong lúc đó, phạm vi này thấp nhất ở Cần Giờ (NFXC – 22.47%, OXLA – 28.19%, TMP – 57.20%, và SMX – 54.11%). Sự phát hiện này đã chỉ ra được phạm vi kháng thuốc cao nhất của vi khuẩn đối với NFXC, TMP và SMX với nồng độ 0.1, 1 và 10µg/ml và OXLA với nồng độ 0.1µg/ml ở tỉnh Cà Mau, nơi có nồng độ tồn dư thuốc kháng sinh cao nhất so với các tỉnh khác. Phạm vi kháng thuốc của vi khuẩn đối với NFXC và OXLA được tìm thấy ở Cần Giờ - nơi có nồng độ thuốc kháng sinh trong mẫu nước là thấp nhất. Điều đó cho thấy phạm vi kháng thuốc của vi khuẩn đối với các loại thuốc kháng sinh ở trong nước cao khi những loại thuốc kháng sinh tồn dư cao. Tuy nhiên, đối với những nơi khác, phạm vi kháng thuốc của vi khuẩn đối với các loại thuốc kháng sinh cao được tìm thấy trong các ao nuôi có nồng độ thuốc kháng sinh thấp. Điều này cho thấy phạm vi kháng thuốc đối với thuốc kháng sinh trong ao nuôi tôm có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác bên cạnh tồn dư kháng sinh. Đối với nền bùn, có một sự khác biệt nhỏ về nồng độ NFXC trong mẫu bùn ở tỉnh Thái Bình, Nam Định và Cà Mau. Nồng độ NFXC ở Cà Mau được tìm thấy thấp hơn so với các loại kháng sinh khác và thấp hơn 3 tỉnh còn lại. Nồng độ OXLA ở Thái Bình, Nam Định và Cà Mau được tìm thấy thấp hơn 4.5ppm, nhưng nồng độ OXLA ở Cần Giờ khoảng 11.23µg/ml. Trong khi đó, nồng độ TMP ở mức cao với 18.21µg/ml đối với mẫu bùn được thu ở Cà Mau. 11 PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
  20. Thêm vào đó, nồng độ của SMX ở các tỉnh có sự khác nhau ở mức từ 6.87µg/ml đến 12.56µg/ml. Phạm vi kháng thuốc của vi khuẩn đối với NFXC, OXLA, TMP và SMX trong mẫu bùn cao hơn so với vi khuẩn trong mẫu nước ở cùng một vị trí thu mẫu.Trong số 4 tỉnh thu mẫu, với nồng độ kháng sinh 0.1µg/ml, phạm vi kháng thuốc của vi khuẩn đối với NFXC cao nhất ở tỉnh Cà Mau (60.91%), trong khi phạm vi kháng thuốc cao nhất là đối với OXLA, được tìm thấy ở Nam Định ở giá trị là 59.71%. Ở môi trường có nồng độ thuốc kháng sinh cao (1 và 10µg/ml), phạm vi kháng thuốc của vi khuẩn cao nhất đối với OXLA và NFXC được tìm thấy ở tỉnh Nam Định. Điều đang được quan tâm ở đây là phạm vi kháng thuốc của vi khuẩn đối với NFXC và OXLA cao nhất ở Nam Định trong khi nồng độ NFXC trong bùn ở Nam Định cũng cao nhất, nhưng nồng độ OXLA trong bùn lại cao nhất ở Cần Giờ. Mặc dù nồng độ NFXC và OXLA trong mẫu bùn ở Cần Giờ hoàn toàn thấp (1.85 và 1.23ppm) nhưng phạm vi kháng thuốc của vi khuẩn đối với hai loại thuốc kháng sinh này lại cao, 38.24% đối với NFXC 0.1µg/ml và 39.87% đối với OXLA 0.1µg/ml. Theo nghiên cứu của Petersen et al., (2002) về sự tác động của mô hình nuôi cá kết hợp đến mức độ kháng thuốc kháng sinh xảy ra trong mội trường ao nuôi. Mô hình nuôi kết hợp giữa gà-cá đã được nghiên cứu trong vòng 2 tháng sau khi bắt đầu một chu kỳ nuôi mới. Kết quả cho thấy có sự gia tăng có ý nghĩa về tính kháng thuốc đối với 6 loại thuốc kháng sinh khác nhau của vi khuẩn Acinetobacter spp được phân lập từ mẫu nước và bùn đáy. Mức độ kháng thuốc ban đầu trước khi bắt đầu chu kỳ nuôi mới (trước khi tiến hành thí nghiệm) là 1-5%. Sau 2 tháng mức độ kháng thuốc đối với oxytetracyline và sulfamethoxazole đạt đến 100% và mức độ kháng với ciprofloxacin hơn 80%. Ảnh hưởng lâu dài của tính kháng thuốc ở mô hình nuôi kết hợp cũng đã được nghiên cứu thêm trên 7 ao nuôi ( gồm các mô hình: gà-cá, heo-cá, vịt- cá). Mức độ kháng thuốc của các dòng Enterococcus spp và Acinetobacter spp được phân lập từ mẫu nước và bùn đáy ở các ao này đặc biệt cao so 4 ao đối chứng (mô hình đơn hoặc không sử dụng thuốc kháng sinh). Nhận thấy rằng mô hình nuôi kết hợp dường như tạo cơ hội cho vi khuẩn phát sinh tính kháng thuốc trong môi trường ao nuôi. Điều này có thể do yếu tố áp lực chọn lọc của thuốc kháng sinh hoặc do ảnh hưởng của các vi khuẩn mang tính kháng thuốc từ trong phân của động vật. Ở Nhật Neela et al., (2006) đã nghiên cứu sự đa kháng thuốc của các dòng vi khuẩn Vibrio spp phân lập từ lớp bùn đáy và nước thuộc vùng ven biển với tetracycline. Nghiên cứu này đã kiểm tra tính đa kháng thuốc của giống vi khuẩn Vibrio spp với kháng tetracycline nhằm xác định rõ tính mẫn 12 PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
nguon tai.lieu . vn