Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN: Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với việc đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhận thức và vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong những năm trước đổi mới, nhiều nước XHCN trong đó có nước ta ở những mức độ nhất định đã mắc phải những lệch lạc, chủ quan duy ý chí. Đó là một trong những nguyên nhân đẩy nền kinh tế - xã hội của đất nước rơi vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng. Nhận thức được những lệch lạc đó, trên cơ sở tổng kết thực tiễn đất nước và nghiên cứu, nắm vững thực chất khoa học quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới đúng đắn. Đường lối chiến lược phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng XHCN là sự vận dụng sáng tạo quan điểm mác xít về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong điều kiện nước ta hiện nay. Đường lối đó đã mở ra triển vọng vừa giải phóng được mọi năng lực sản xuất, kích thích kinh tế phát triển, vừa đảm bảo sự định hướng phát triển kinh tế theo mục tiêu chính trị mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Qua 15 năm thực hiện đường lối đó, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Kinh tế phát triển, mục tiêu CNXH vẫn được giữ vững. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu càng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp cần phải lý giải, giải quyết. Thực tiễn cho thấy, quá trình phát triển nền kinh tế ở nước ta bên cạnh những mặt tích cực còn bộc lộ những khuyết tật có nguy cơ chệch hướng XHCN. Đối mặt với những nguy cơ này, trong cán bộ đảng viên cũng xuất hiện nhiều băn khoăn, trăn trở: liệu chúng ta có định hướng chính trị được sự phát triển nền kinh
  3. tế đó hay không? Liệu Nhà nước có quản lý, điều tiết được nền kinh tế đó theo quỹ đạo XHCN hay không? Hơn nữa, việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng XHCN là chưa có tiền lệ trong lịch sử. Quá trình này đòi hỏi chúng ta vừa làm vừa phải tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, tìm ra hình thức và bước đi thích hợp. Quá trình đó tất yếu phải có sự lãnh đạo của chính trị đóng vai trò "người cầm trịch" hướng vào mục tiêu CNXH. Chính vì vậy, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị đặc biệt là tìm ra những giải pháp nâng cao vai trò của chính trị trong lãnh đạo, quản lý, điều tiết kinh tế để vừa thúc đẩy sự phát triển kinh tế vừa đảm bảo định hướng XHCN trong sự phát triển của nó vẫn là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Đó là lý do tại sao tác giả luận văn chọn đề tài "Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với việc đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay" là đề tài nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đến nay đã có một số công trình nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau liên quan tới luận văn: Khổng Doãn Hợi, "Quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, 6/1993; Lê Hữu Nghĩa, "Vai trò của chính trị trong việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, Hà Nội, 5/1996; Nguyễn Tiến Phồn, "Vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng và chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, số 3/1995; Nguyễn Trọng Chuẩn, "Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới chính sách kinh tế và đổi mới chính sách xã hội", Tạp chí Triết học, số 3/1996; Nguyễn Chí Mỳ, "Xu hướng và các nhân tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều thành phần", Tạp chí Cộng sản, số 10/1997;...
  4. Ngoài ra, còn có một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ đề cập đến các góc độ khác nhau của đề tài: "Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nội dung cơ bản và những điều kiện chủ yếu để thực hiện", Luận án tiến sĩ Khoa học triết học chuyên ngành chủ nghĩa cộng sản khoa học, của Nguyễn Văn Oánh; Hà Nội 1994 "Vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của kiến trúc thượng tầng chính trị đối với sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ triết học của Huỳnh Thanh Minh, Hà Nội, 1997; "Nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học của Nguyễn Văn Ninh, Hà Nội, năm 2001; "Vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của Nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ triết học của Lê Thị Hồng, Hà Nội, năm 2001. Mặc dù các công trình nghiên cứu đã đề cập đến khá nhiều khía cạnh khác nhau của đề tài, song việc nghiên cứu vấn đề "mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với việc đảm bảo định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay" vẫn là vấn đề bức xúc. 3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở phân tích thực chất quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH và sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của chính trị trong việc đảm bảo định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ
  5. - Phân tích thực chất mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH. - Làm rõ sự nhận thức và vận dụng về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta và những vấn đề đặt ra hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp tăng cường vai trò của chính trị nhằm đảm bảo định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. 3.3. Giới hạn của luận văn Từ việc nghiên cứu mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự nhận thức và vận dụng mối quan hệ đó vào thực tiễn đổi mới của nước ta, luận án chỉ đi sâu nghiên cứu vai trò tác động của chính trị mà cụ thể là vai trò của các chủ thể như Đảng và Nhà nước trong việc đảm bảo định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. 4. Cái mới của luận văn - Góp phần làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay. Từ đó nêu bật vai trò quan trọng của chính trị trong việc định hướng XHCN nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. - Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò chính trị của Đảng và Nhà nước trong việc bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
  6. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về mối quan hệ giữa kinh tế - chính trị. Luận văn có tham khảo kết quả của nhiều công trình có liên quan. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp như: Phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgíc... 6. ý nghĩa của luận văn - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc học tập và giảng dạy môn triết học. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương 4 tiết.
  7. Chương 1 quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều Thành phần ở Việt Nam 1.1. quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH 1.1.1. Quan điểm mác xít về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong sự phát triển xã hội Kinh tế là một khái niệm được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Ngày nay, khái niệm kinh tế được hiểu theo hai nghĩa cơ bản: - Tổng thể các quan hệ sản xuất nhất định trong lịch sử phù hợp với mỗi trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. - Toàn bộ các ngành kinh tế quốc dân hay một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Nó bao gồm các hình thức sản xuất theo ngành kinh tế, thành phần kinh tế và vùng kinh tế (tức cơ cấu kinh tế) và cơ chế quản lý kinh tế. Như vậy nói đến kinh tế là nói đến điều kiện vật chất của đời sống xã hội, hay nói cách khác, đó là phương tiện để con người tồn tại. Chẳng hạn, muốn tồn tại, con người cần phải có cái ăn, cái mặc, thuốc men để chữa bệnh... Tất cả những gì thuộc kinh tế theo nghĩa đó - còn gọi là tư liệu sinh hoạt - không phải do thần thánh sinh ra, mà do con
  8. người dùng công cụ lao động của mình tác động vào tự nhiên tạo ra. Ngay cả công cụ lao động mà con người dùng để làm ra của cải vật chất đó cũng do chính con người tạo ra. Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, con người không thể tiến hành sản xuất một cách biệt lập, riêng lẻ được, mà trái lại, muốn tiến hành sản xuất, con người chẳng những phải có quan hệ với tự nhiên mà còn có quan hệ với nhau để cùng hoạt động, trao đổi kinh nghiệm và kết quả lao động. Khẳng định tính tất yếu của mối quan hệ này C.Mác nói: "Người ta không thể sản xuất được, nếu không biết hợp tác với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó [28, tr. 552]. Vì lẽ đó, khái niệm "kinh tế" đã chứa đựng trong nó cả những quan hệ giữa người với tự nhiên, lẫn những quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, tức là quan hệ sản xuất. Khái niệm "kinh tế" cũng có thể dùng để chỉ tổng thể các quan hệ sản xuất của một xã hội nhất định, tạo nên cơ sở kinh tế của xã hội đó. C.Mác viết: "Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó" [29, tr. 15]. Nói đến nền tảng kinh tế của xã hội cụ thể là nói đến toàn bộ những quan hệ sản xuất cũng như sự tác động lẫn nhau giữa các quan hệ ấy trong một xã hội cụ thể. Trong các chế độ xã hội tồn tại cho đến nay, bên cạnh quan hệ sản xuất thống trị vẫn còn quan hệ sản xuất tàn dư của chế độ xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Cho nên kinh tế của một xã hội cụ thể được đặc trưng, trước hết, bởi kiểu quan hệ sản xuất thống trị tiêu biểu cho xã hội ấy đồng thời bao gồm cả những quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống. Trong cơ sở kinh tế đó, cái
  9. giữ địa vị chi phối, có vai trò chủ đạo và có tác dụng quyết định đối với sự phát triển kinh tế là quan hệ sản xuất thống trị. Tóm lại, khái niệm "kinh tế" có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau như đã trình bày ở trên. Trong luận văn này, chúng tôi đã sử dụng khái niệm "kinh tế" theo nghĩa là toàn bộ những quan hệ sản xuất tạo thành cơ cấu kinh tế của một xã hội cụ thể. Trong sự phát triển của lịch sử loài người không phải bao giờ cũng tồn tại chính trị. Chính trị chỉ xuất hiện và tồn tại trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử, đồng thời nó sẽ mất đi khi cơ sở tồn tại của nó không còn nữa. Trước khi xã hội có sự phân chia giai cấp và nhà nước, xã hội loài người chưa xuất hiện vấn đề chính trị. Khi nền sản xuất xã hội phát triển đến một mức độ nhất định, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã đem lại năng suất lao động cao hơn. Xã hội bắt đầu có của cải dư thừa, tạo điều kiện khách quan cho sự ra đời của chế độ tư hữu. Sự ra đời của chế độ tư hữu là cơ sở của sự bất bình đẳng về kinh tế trong xã hội, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến sự hình thành các giai cấp đối kháng. Sự đối kháng giữa các giai cấp ngày càng trở nên gay gắt, không thể điều hòa đã dẫn đến sự ra đời của nhà nước. Từ đó bắt đầu xuất hiện vấn đề chính trị. "Chính trị" theo nguyên nghĩa của nó, là những công việc nhà n ước, là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng chính quyền nhà nước [1, tr. 507]. Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp, các tập đoàn, các tầng lớp xã hội có vị trí khác nhau trong việc quản lý nhà nước. Do đó, các giai cấp, các tập đoàn xã hội đấu
  10. tranh với nhau để giành, giữ và sử dụng nhà nước. Như vậy, chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các tập đoàn, các tầng lớp xã hội về mặt nhà nước. Chính trị - những quan điểm, tư tưởng chính trị và những thiết chế xã hội tương ứng với nó như nhà nước, đảng phái, các tổ chức chính trị - xã hội... - là một bộ phận quan trọng của kiến trúc thượng tầng, khái niệm chính trị được sử dụng trong luận văn này là hiểu theo nghĩa đó. Vấn đề quan hệ giữa kinh tế và chính trị đã được đặt ra từ rất sớm trong lịch sử triết học. Tất cả các nhà triết học trước Mác đều đi tìm nguyên nhân của các sự biến lịch sử không phải trong kinh tế mà ở trong chính trị, tôn giáo hoặc trong các nhân tố tinh thần khác. Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi tìm nguyên nhân của các động cơ tư tưởng trong lĩnh vực tồn tại xã hội, tìm nguyên nhân của chính trị trong lĩnh vực kinh tế. Theo C.Mác, kinh tế có vai trò hết sức to lớn đối với chính trị. Vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị được thể hiện ở chỗ: Kinh tế tạo ra những cơ sở cho sự xuất hiện giai cấp và đối kháng giai cấp; kinh tế tạo ra điều kiện để hình thành các chính đảng của các giai cấp thông qua các cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời kinh tế còn là cơ sở cho sự ra đời của nhà nước... Do đó, khi nói về vai trò quyết định của kinh tế đối với những quan hệ chính trị, Ph.Ăngghen viết: "Tôi đã nhận thấy rất rõ ràng rằng những sự kiện kinh tế mà từ trước đến nay, những tác phẩm sử học cho là không đóng một vai trò nào, hoặc có chăng nữa thì chỉ đóng một vai trò thảm hại, thì ít nhất trong thế giới hiện đại, cũng đã là một lực lượng lịch sử quyết định" [31, tr. 321].
  11. Trước hết, C.Mác và Ăngghen cho rằng, kinh tế là cơ sở xuất hiện giai cấp và đối kháng giai cấp. Ph.Ăngghen viết: "Quan niệm duy vật về lịch sử xuất phát từ luận điểm cho rằng, sản xuất và tiếp theo sau sản xuất là trao đổi sản phẩm của sản xuất, là cơ sở của mọi chế độ, xã hội, rằng trong mỗi xã hội xuất hiện trong lịch sử, sự phân phối sản phẩm và cùng với sự phân phối ấy là sự phân chia xã hội thành giai cấp hoặc đẳng cấp đều được quyết định bởi tình hình: người ta sản xuất ra cái gì và sản xuất ra bằng cách nào và những sản phẩm của sản xuất đó được trao đổi như thế nào" [30, tr. 371]. Như vậy, theo Ph.Ăngghen, kinh tế - sản xuất và trao đổi là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp trong xã hội. Vì vậy, cần tìm nguyên nhân của sự xuất hiện giai cấp, của những biến đổi xã hội, đặc biệt là những biến đổi về chính trị, ở ngay trong kinh tế chứ không phải ở những lực lượng thần bí, hay ở ý thức chủ quan của con người như các nhà xã hội học trước C.Mác đã làm. Ph.Ăngghen viết: "Phải tìm những nguyên nhân cuối cùng của tất cả những biến đổi xã hội và những đảo lộn chính trị không phải trong đầu óc người ta, không phải ở nhận thức ngày càng tăng thêm của người ta..., mà là trong những biến đổi của phương thức sản xuất và phương thức trao đổi; cần phải tìm những nguyên nhân đó không phải trong triết học, mà là trong kinh tế của thời đại tương ứng" [30, tr. 371]. Nhưng, kinh tế không chỉ là nguyên nhân làm xuất hiện giai cấp trong xã hội mà còn là nguyên nhân làm nảy sinh đối kháng giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm được tư liệu sản xuất thì giai cấp đó chiếm được địa vị thống trị về kinh tế trong đời sống xã hội. Và tất yếu dẫn đến sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa một bên là giai cấp bị trị, không có tư liệu sản xuất với một bên là giai cấp thống trị, nắm toàn bộ tư liệu sản xuất của xã hội. Sự đối lập về kinh tế không thể điều hòa được, tất yếu sẽ dẫn đến đối kháng giai cấp về chính trị. Vì vậy, Ph. Ăngghen đã khẳng định rằng kinh tế là "cơ sở cho sự xuất hiện của những đối kháng giai cấp hiện nay" [31, tr. 321]. Trong đấu tranh giai cấp, tất yếu các giai cấp phải lập ra chính đảng của mình để lãnh đạo phong trào. Như vậy, kinh tế còn là cơ sở gián tiếp của sự hình thành các
  12. chính đảng của các giai cấp và cuộc đấu tranh chính trị giữa các chính đảng đó với nhau. Thêm vào đó, sự ra đời của nhà nước, sự xuất hiện các quan điểm chính trị của một giai cấp nhất định có tác dụng chi phối hoạt động của giai cấp, của nhà nước trong xã hội... đều bắt nguồn từ nguyên nhân kinh tế. Nhà nước ra đời cùng sự ra đời của chế độ tư hữu và sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng. Giai cấp thống trị không thể duy trì địa vị thống trị nếu không dựa vào bộ máy bạo lực và các công cụ của nó như quân đội, pháp luật... Tất cả những cái đó đều bắt nguồn một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ những nguyên nhân kinh tế. Do đó Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Tất cả mọi quyền lực xã hội và tất cả mọi bạo lực chính trị đều bắt nguồn từ những tiền đề kinh tế, từ phương thức sản xuất, trao đổi của mỗi một xã hội nhất định trong lịch sử" [30, tr. 303]. Vì vậy, sự ra đời, tồn tại và tiêu vong của Nhà nước không phải do ý muốn chủ quan của một cá nhân của một giai cấp nào, mà trái lại, là một tất yếu khách quan, do yêu cầu phát triển tất yếu của các quan hệ kinh tế. Không những giai cấp, đảng phái, nhà nước và đấu tranh giai cấp đều có nguồn gốc từ kinh tế mà hệ tư tưởng chính trị chi phối mọi hoạt động chính trị như đấu tranh giai cấp, hoạt động của Nhà nước, của các chính đảng... cũng đều là biểu hiện của kinh tế. Mặc dù chưa trực tiếp chỉ rõ rằng, hệ tư tưởng chính trị là biểu hiện của kinh tế nhưng khi nói về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của một xã hội nhất định, C.Mác, Ph.Ăngghen đều coi chính trị (gồm có hệ tư tưởng chính trị và các thiết chế tương ứng cũng như mối quan hệ nội tại giữa chúng) là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng được sinh ra từ quan hệ kinh tế nhất định và phản ánh những quan hệ kinh tế đó.
  13. Vì lẽ đó, những mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị bao giờ cũng là sự phản ánh của những mâu thuẫn về kinh tế, và ngược lại, những mâu thuẫn trong kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp. Đúng như C.Mác đã khẳng định, mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cuối cùng sẽ dẫn đến cuộc cách mạng xã hội. Do đó khi nghiên cứu những cuộc đảo lộn trong xã hội thì bao giờ cũng phải phân biệt cuộc đảo lộn vật chất trong những điều kiện kinh tế của sản xuất với những hình thái pháp lý, chính trị, tôn giáo... tóm lại, với những hình thái tư tưởng, trong đó con người ý thức được cuộc xung đột ấy và đấu tranh để giải quyết nó [29, tr. 15]. Như vậy, mọi nhân tố của chính trị, từ việc hình thành các giai cấp, đối kháng giai cấp đến đấu tranh giai cấp; từ việc hình thành nhà nước, chính đảng đến những hoạt động của Nhà nước, của chính đảng cũng như những quan điểm chi phối những hoạt động đó và toàn bộ lịch sử nói chung đều có nguồn gốc trực tiếp hoặc gián tiếp từ kinh tế. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà C.Mác cho rằng: "Phải lấy những quan hệ kinh tế và sự tiến triển của những quan hệ ấy để giải thích chính trị và lịch sử chính trị chứ không phải ngược lại" [31, tr. 321]. Vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị không chỉ biểu hiện ở chỗ, kinh tế sinh ra chính trị, mà còn biểu hiện ở chỗ, những biến đổi căn bản trong kinh tế sớm muộn sẽ dẫn đến những biến đổi căn bản trong chính trị. Theo Ph.Ăngghen, kinh tế là cái có trước, còn chính trị là cái có sau và là sự biểu hiện của kinh tế; kinh tế là tính thứ nhất, còn chính trị là tính thứ hai, cho nên sự biến đổi của chính trị bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi trong kinh tế. Nhưng không phải cứ có sự biến đổi nào về kinh tế thì ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi về chính trị... Song, sự biến đổi của kinh tế sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến sự biến đổi về chính trị. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự biến đổi của chính trị càng diễn ra rõ rệt hơn khi cơ sở kinh tế của xã hội này được thay thế bằng cơ sở kinh tế của xã hội
  14. khác. Sự biến đổi này phù hợp với quy luật khách quan chi phối sự phát triển của xã hội - đó là quy luật về sự tác động biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. C.Mác nói rằng, khi "cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng" [29, tr. 15]. Sự đảo lộn trước tiên của kiến trúc thượng tầng khi cơ sở hạ tầng thay đổi trước hết là chính trị. Trong tác phẩm "Chống Đuy-rinh", Ph.Ăngghen đã phê phán quan điểm của Đuy Rinh cho rằng, chính trị quyết định kinh tế, tất cả các hiện tượng kinh tế đều được giải thích bằng nguyên nhân chính trị. Để đả phá quan điểm đó, Ph.Ăngghen đã cho rằng "bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế trái lại, là mục đích" [30, tr. 226]. Và do đó "Để thỏa mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn thuần" [31, tr. 439]. Tóm lại, kinh tế có vai trò quyết định đối với chính trị, cho nên mọi hoạt động chính trị đều nhằm đạt đến mục đích kinh tế. Chính trị được sinh ra từ những nguyên nhân kinh tế và mọi sự biến đổi của nó đều do kinh tế quyết định một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhưng chính trị không phải là yếu tố thụ động mà có tác động trở lại kinh tế. Khẳng định điều đó Ph.Ăngghen viết: "Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v... đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế" [33, tr. 271]. Trong tất cả các nhân tố của chính trị, nhà nước đóng một vai trò hết sức quan trọng và có tác dụng to lớn đối với kinh tế. Được nảy sinh trên một cơ sở kinh tế nhất định, nhà nước tác động trở lại đối với sự phát triển kinh tế. Chính vì vậy, trong xã hội có giai cấp đối kháng, các giai cấp đấu tranh với nhau để giành, giữ chính quyền cũng là để tạo cho giai cấp mình một sức mạnh kinh tế. Vì thế, khi nói về cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp vô sản, Ph. Ăngghen viết: "Chúng tôi đấu tranh cho chuyên chính
  15. chính trị của giai cấp vô sản để làm gì, nếu quyền lực chính trị bất lực về kinh tế? Bạo lực (tức là quyền lực nhà nước) - cũng là một lực lượng kinh tế" [32, tr. 683]. Dựa vào nhà nước, giai cấp nắm chính quyền không ngừng phát triển lực lượng kinh tế của mình ngày càng vững mạnh. Khi kinh tế phát triển lại là cơ sở đảm bảo cho quyền lực nhà nước càng được tăng cường mạnh mẽ. Có như vậy, địa vị và quyền lực kinh tế của giai cấp nắm chính quyền nhà nước luôn luôn được đảm bảo vững chắc. Nghĩa là cơ sở kinh tế của một xã hội nhất định được ổn định và vững chắc là phần lớn nhờ vào sự vững mạnh của chính quyền nhà nước tương ứng. Sự tác động của chính trị đối với kinh tế không chỉ được thể hiện thông qua sự tác động của nhà nước mà còn thể hiện ở vai trò của hệ tư tưởng chính trị - một nhân tố quan trọng của chính trị. Nhưng hệ tư tưởng chính trị tự nó chưa có vai trò gì đối với kinh tế. Vai trò tác động của hệ tư tưởng chính trị đối với kinh tế được thực hiện thông qua thực tiễn chính trị của nhà nước, của chính đảng của một giai cấp nhất định. Chỉ thông qua những hoạt động đó, hệ tư tưởng chính trị mới có tác dụng to lớn trong việc bảo vệ hoặc xóa bỏ chế độ kinh tế hiện đang tồn tại. Cũng như sự tác động của nhà nước, hệ tư tưởng chính trị của một giai cấp tác động đến kinh tế theo hai chiều. Nếu hệ tư tưởng chính trị phản ánh một cách khoa học và được cụ thể hóa trong các cương lĩnh, đường lối của các chính đảng, trong pháp luật và các chính sách của nhà nước của giai cấp nắm chính quyền thì sẽ có tác dụng bảo vệ và thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh chóng. Ngược lại, sẽ cản trở sự phát triển của kinh tế. Như vậy, thông qua sự tác động của hệ tư tưởng chính trị của một giai cấp nhất định trong xã hội, thông qua hoạt động của nhà nước, chính đảng của giai cấp đó, chính trị có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế, ở một mức độ nhất định, chính trị có thể làm thay đổi cơ sở kinh tế. Vai trò của chính trị đối với kinh tế có thể tác động theo hai chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Chính trị sẽ có tác động tích cực,
  16. nếu nó tác động cùng chiều với các quy luật phát triển kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Trái lại, sự tác động ngược chiều của chính trị đối với các quy luật kinh tế sẽ dẫn đến sự xung đột giữa kinh tế và chính trị, lúc đó chính trị là chướng ngại vật cản trở sự phát triển của kinh tế. 1.1.2. Thực chất quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá đ ộ lên CNXH Quá trình giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ ở nước Nga, V.I.Lênin đã có nhiều đóng góp quan trọng vào lý luận về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Theo V.I.Lênin, khi giai cấp vô sản chưa giành được chính quyền, chưa nắm được quyền lực nhà nước thì giai cấp vô sản chưa có quyền lực kinh tế. Giai cấp vô sản chỉ có được quyền lực ấy khi hoàn thành nhiệm vụ chính trị là lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản và thiết lập nên chính quyền của giai cấp vô sản. Trong tác phẩm "Làm gì", Lênin viết: "Từ chỗ quyền lợi kinh tế đóng một vai trò quyết định, tuyệt nhiên không thể kết luận được rằng cuộc đấu tranh kinh tế (có tính chất nghiệp đoàn) lại có một tầm quan trọng bậc nhất, vì những quyền lợi chủ yếu, "quyết định" của các giai cấp, nói chung, chỉ có thể thỏa mãn được bằng những cuộc cải biến chính trị căn bản; còn quyền lợi kinh tế trọng yếu của giai cấp vô sản, nói riêng, chỉ có thể thỏa mãn được bằng cuộc cách mạng chính trị thay thế chuyên chính của giai cấp tư sản bằng chuyên chính vô sản" [39, tr. 59]. Theo V.I.Lênin, trong bất cứ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nào, giai cấp vô sản đã làm xong nhiệm vụ giành chính quyền thì tất nhiên có một nhiệm vụ căn bản khác được đề lên hàng đầu, đó là thiết lập một chế độ xã hội mới cao hơn chủ nghĩa tư bản. Để thực hiện nhiệm vụ đó, giai cấp vô sản phải đưa ra được cách tổ chức lao động cao hơn, tức là nhiệm vụ kinh tế [41, tr. 228]. Do đó, sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền nhà nước, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
  17. biểu hiện ở chỗ, giai cấp vô sản đã thiết lập được bộ máy nhà nước của mình, có quyền sử dụng bộ máy nhà nước đó để giải quyết những nhiệm vụ tiếp theo trong lĩnh vực kinh tế, tổ chức lại và phát triển kinh tế quốc dân, quản lý sản xuất. Vì thế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chính trị giữ địa vị phụ thuộc so với nhiệm vụ kinh tế. Khẳng định điều đó, V.I.Lênin viết: "nhiệm vụ quản lý nhà nước trước hết và trên hết được quy lại thành nhiệm vụ thuần túy kinh tế, hàn gắn những vết thương do chiến tranh gây ra trên đất nước, khôi phục lại các lực lượng sản xuất, tổ chức công tác kiểm soát đối với việc sản xuất và phân phối sản phẩm, nâng cao năng suất lao động. Nói tóm lại, nhiệm vụ đó được quy thành nhiệm vụ tổ chức lại nền kinh tế" [41, tr. 63]. Như vậy, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, bước ngoặt chính trị dường như diễn ra trước bước ngoặt về kinh tế. Từ đó, một số người có quan niệm sai lầm cho rằng, kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa không phải do cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa sinh ra. Ngược lại, kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa còn tạo ra và quyết định cơ sở hạ tầng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ quan niệm đó, họ đi đến kết luận: chính trị - kiến trúc thượng tầng quyết định sự xuất hiện biến đổi của kinh tế, của cơ sở hạ tầng. Do đó, muốn giải thích các hiện tượng xã hội, các hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng thì phải xuất phát từ chính trị, từ kiến trúc thượng tầng của xã hội chứ không phải từ kinh tế, từ cơ sở hạ tầng của xã hội. Thực tiễn xây dựng CNXH ở các nước khác nhau cho thấy, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa không thể được thiết lập trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chỉ có thể được thiết lập sau khi giai cấp vô sản đã đánh đổ được sự thống trị của giai cấp thống trị. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản sử dụng chính quyền đó để từng bước cải tạo, xóa bỏ quan hệ sản xuất đã lạc hậu, lỗi thời, cản trở sự phát triển của lực l ượng sản xuất, đồng thời thiết lập nên quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp với lực lượng sản xuất ngày càng lớn mạnh, có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, nhằm thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy kinh tế phát triển.
  18. Rõ ràng, cơ sở khách quan để dẫn đến bước ngoặt chính trị, thay thế chính quyền nhà nước của giai cấp tư sản bằng chính quyền nhà nước của giai cấp vô sản và nhân dân lao động, đã nảy sinh trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là, sự phát triển cao của lực lượng sản xuất, cùng với tính chất xã hội hóa ngày càng cao của nó đã dẫn đến mâu thuẫn trong sản xuất. Biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn đó là mâu thuẫn giữa các giai cấp ngày càng gay gắt và không thể điều hòa được. Nói một cách khác, sự phát triển của lực lượng sản xuất, của sản xuất trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa dẫn đến mâu thuẫn giữa kinh tế và chính trị. Đó là điều kiện khách quan dẫn đến bước ngoặt chính trị trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, sau khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền, các giai cấp vẫn còn tồn tại, địa vị của các giai cấp có những thay đổi và quan hệ giữa các giai cấp cũng biến đổi. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản là giai cấp bị tước đoạt hết mọi quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất, bị áp bức bóc lột và bị thống trị. Sau khi lật đổ được sự thống trị chính trị của giai cấp tư sản, thiết lập được chính quyền của mình và sử dụng chính quyền nhà nước đó, giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị xã hội về chính trị; nắm lấy tư liệu sản xuất đã lớn mạnh và đã được xã hội hóa dưới xã hội tư bản chủ nghĩa, biến nó thành tài sản xã hội chủ nghĩa. Chỉ khi đó, giai cấp vô sản mới có thể thực hiện được quyền lực kinh tế của mình. Và giai cấp vô sản chỉ có thể dựa vào cơ sở kinh tế của mình và sử dụng nó để cải tạo nền kinh tế của đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, quyền lực chính trị của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chỉ có thể được đảm bảo, giai cấp vô sản chỉ có thể lãnh đạo toàn bộ xã hội, xây dựng xã hội mới khi giai cấp vô sản và nhân dân lao động đã nắm được trong tay mình quyền lực về kinh tế. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị còn biểu hiện ở chỗ, nhu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế quyết định phương hướng hoạt động của đảng, của nhà nước của giai cấp vô sản, quyết định tính chất và khả năng ảnh hưởng của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Nghĩa là, chính
  19. trị là sự phản ánh tập trung của kinh tế. Sự phản ánh đó biểu hiện thông qua việc hình thành các tổ chức chính trị, những chính sách, từ đó giải quyết những vấn đề, quyết định mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Sự phản ánh tập trung nhu cầu phát triển khách quan của kinh tế được thể hiện ở các chính sách kinh tế, ở phương thức hoạt động của các bộ phận trong hệ thống chính trị. Đúng như V.I.Lênin đã khẳng định: "Bất cứ một vấn đề chính trị nào cũng có thể là một vấn đề tổ chức, và ngược lại... Không thể tách những vấn đề tổ chức khỏi những vấn đề chính trị được. Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại" [42, tr. 147]. Trong thời kỳ quá độ, mặc dù chính trị giữ địa vị phụ thuộc so với kinh tế, song giải quyết những vấn đề chính trị cũng chính là vì mục tiêu kinh tế: "Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế". Tuy nhiên, trong sự tác động biện chứng với kinh tế, chính trị không phải là nhân tố thụ động mà là nhân tố tác động mạnh mẽ trở lại đối với kinh tế. Vai trò của chính trị đối với kinh tế thể hiện trong luận điểm nổi tiếng của V.I.Lênin về vị trí ưu tiên của chính trị đối với kinh tế. Trong cuộc đấu tranh với những người theo "chủ nghĩa kinh tế", V.I.Lênin đã nêu lên vai trò hàng đầu của chính trị đối với kinh tế của các giai cấp. Trong cuốn "Lại bàn về công đoàn, về tình hình trước mắt và về những sai lầm của các đồng chí Tơrốtxki và Bukharin", tư tưởng về vai trò hàng đầu của chính trị so với kinh tế lại được V.I.Lênin khẳng định một lần nữa. V.I.Lênin viết: "Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế. Lập luận một cách khác đi, tức là quên mất những điều sơ đẳng của chủ nghĩa Mác" [44, tr. 349]. Theo V.I.Lênin, vị trí hàng đầu của chính trị đối với kinh tế là việc thừa nhận ý nghĩa quyết định của việc giành chính quyền nhà nước, thay thế chính quyền của giai cấp tư sản bằng chính quyền nhà nước của giai cấp vô sản để thực hiện lợi ích kinh tế
  20. cơ bản của giai cấp vô sản, để giải quyết những nhiệm vụ kinh tế. Vì vậy, cần phải có thái độ chính trị đúng đắn đối với tất cả các vấn đề kinh tế, văn hóa, và tổ chức (đặc biệt là vấn đề tổ chức). Do đó, khi nói về vai trò của công đoàn, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, xét về mặt chính trị mà nói, nếu chúng ta có thái độ sai đối với công đoàn thì chính quyền Xô viết và chuyên chính vô sản sẽ tiêu tan. Trong một n ước nông dân như nước Nga, nếu có sự chia rẽ giữa đảng với công đoàn, do sai lầm của đảng gây ra thì chắc chắn là chính quyền xô viết sẽ bị sụp đổ [44, tr. 349] Xuất phát từ luận điểm trên, V.I.Lênin đã kiên quyết chống lại "chủ nghĩa chiết chung" của Bukharin. V.I.Lênin cho rằng, Bukharin là người đặt quan điểm chính trị bên cạnh quan điểm kinh tế đối với công đoàn, mà không thấy được mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị. Ông coi đó là một sai lầm nghiêm trọng, bởi vì giai cấp vô sản không thể giữ được chính quyền trong một nước nông dân, nếu có quan điểm chính trị sai lầm. Những sai lầm trong chính trị (mà Tơrốtxki và Bukharin đã phạm phải) đã làm cho Đảng cộng sản phải bỏ nhiệm vụ kinh tế và các công tác sản xuất vì mất thời gian để sửa chữa những sai lầm đó. Do đó "không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình, và do đó, cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất" [44, tr. 350]. Sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, được tự do về chính trị và hoàn thành về căn bản nhiệm vụ đấu tranh lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản, thì những vấn đề về kinh tế, về tổ chức nền kinh tế quốc dân, quản lý sản xuất, nổi lên vị trí hàng đầu. V.I.Lênin gọi đó là nhiệm vụ chính trị chủ yếu hàng đầu sau khi giành chính quyền. Ông viết: Chính trị chủ yếu của chúng ta lúc này là xây dựng nước nhà về mặt kinh tế, để tích góp được nhiều lúa mì hơn, để sản xuất được nhiều than hơn, để sử dụng được những lúa mì và than đó được hợp lý hơn sao cho
nguon tai.lieu . vn