Xem mẫu
- LUẬN VĂN:
Huy động vốn để xây dựng nhà
ở trên địa bàn quận 4 Thành
phố Hồ Chí Minh
- Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà ở luôn là một trong những nhu cầu cơ bản không thể thiếu đối với mỗi người,
mỗi gia đình. ở Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và ở quận 4 nói riêng, với tốc độ đô thị
hóa ngày càng nhanh thì việc có một căn nhà riêng với những tiện nghi tối thiểu đối với
nhiều người lao động là một mơ ước trong tình hình giá cả nhà đất ngày càng tăng cao.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những địa phương luôn đi đầu về các mặt
kinh tế,văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng… Trong những năm qua, việc chỉnh trang đô thị
theo hướng hiện đại hóa, trong đó vấn đề nhà ở, đặc biệt là nhà ở cho người có thu nhập thấp,
được các ngành, các cấp hết sức quan tâm. Là một quận nội thành, quận 4 chỉ cách quận 1 -
trung tâm của thành phố - chưa đầy 200m nhưng là một quận nghèo, có nhiều khu nhà lụp xụp
ven kênh rạch, hạ tầng kỹ thuật thấp kém, môi trường sống bị ô nhiễm nặng nề.
Từ năm 1990, Đảng bộ và chính quyền quận 4 đã tập trung đẩy mạnh tiến trình đô
thị hóa quận 4 kết hợp với việc giải quyết ô nhiễm môi sinh môi tr ường, giải tỏa các khu
nhà lụp xụp, nhà trên và ven kênh rạch, thực hiện việc chỉnh trang đô thị, cải thiện tình
hình nhà ở đi đôi với việc đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật với mục tiêu đề ra là đến năm
2010 quận 4 không còn cách biệt với các quận trung tâm của thành phố. Và từ đó, việc huy
động vốn để xây dựng nhà ở, đặc biệt là nhà ở cho người có thu nhập thấp, trên địa bàn
quận 4 được xem là một nhiệm vụ trọng tâm, cần phải được thực hiện nhanh chóng để góp
phần vào sự phát triển chung của thành phố. Vì vậy việc chọn đề tài “Huy động vốn để
xây dựng nhà ở trên địa bàn quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh” có ý nghĩa hết sức cấp
thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phạm trù tư bản (vốn), tích tụ và tập trung vốn, vai trò của vốn đã được các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác-Lênin luận bàn trong nhiều tác phẩm. Hiện nay, trên các ấn phẩm,
nhiều nhà kinh tế học hiện đại cũng đang tiếp tục nghiên cứu vấn đề này.
Tuy nhiên vấn đề vốn để xây dựng nhà ở vẫn còn là vấn đề mới mẽ, chưa được tổng
kết thành lý luận chung nhưng là một vấn đề được toàn cầu quan tâm tìm mọi biện pháp
nhằm huy động vốn có hiệu quả nhất để thực hiện các chương trình xây dựng nhà ở cho
- nhân dân. Gần đây, tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều cuộc hội thảo liên quan đến đề
tài được tổ chức như:
- Hội thảo khoa học “Nhà ở cho người thu nhập thấp tại Thành phố Hồ Chí Minh:
Tiêu chuẩn và giải pháp” do Sở Kế hoạch-Đầu tư chủ trì (2002).
- Hội thảo khoa học “Các công cụ tài chính vận hành thị trường bất động sản” do
Viện Kinh tế chủ trì (2005).
- Hội thảo khoa học “Một số vấn đề kinh tế xã hội đặt ra trong thời kỳ nâng cấp các
khu nhà ổ chuột ở Thành phố Hồ Chí Minh” do Sở Địa chính-Nhà đất chủ trì (2002).
- Hội thảo khoa học; “Chương trình phát triển nhà Thành phố Hồ chí Minh, giai
đoạn 1991-2000 và định hướng phát triển đến 2010” do Sở Địa chính- Nhà Đất chủ trì
(2002).
Về các luận án tiến sĩ và luận văn cao học gần gũi với đề tài có:
- Phan Nguyệt Quờn: “Định hướng và một số giải pháp tài chính nhằm phát triển
nhà ở cho người thu nhập thấp ở Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010” (2000).
- Nguyễn Hữu Hoàng: “Giải pháp phát triển nhà cho người có thu nhập thấp ở nông
thôn tỉnh Cần Thơ” (2000)
Những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài tuy phong phú, đa dạng nhưng
chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về đề tài: "Huy động vốn để
xây dựng nhà ở trên địa bàn quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh". Nghiên cứu một đề tài
mới, với nguồn tư liệu hạn hẹp là một việc làm hết sức khó khăn, mất nhiều thời gian và
công sức nhưng kết quả nghiên cứu vẫn còn nhiều hạn chế.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về vốn xây dựng nhà ở cho
nhân dân, khảo sát tình hình thực tế về nhà ở và xây dựng nhà ở, luận văn đề xuất một số
giải pháp nhằm huy động vốn để xây dựng nhà ở trên địa bàn quận 4.
Nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về vốn và phương thức huy động vốn để xây
dựng nhà ở.
- - Khảo sát thực trạng huy động vốn để xây dựng nhà ở trên địa bàn quận 4 trong
những năm qua.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu để xây dựng nhà ở trên địa bàn
quận 4 từ nay đến năm 2010.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: luận văn nghiên cứu việc huy động vốn trong nước, bằng
tiền, để xây dựng nhà ở cho nhân dân quận 4 nói chung, nhưng ở quận 4 với đại bộ phận
nhân dân là người có thu nhập thấp, sống trong những căn nhà lụp xụp, tạm bợ trên các
kênh rạch, vì vậy việc xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp là điểm nhấn của luận
văn.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn chọn quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh làm địa bàn
khảo sát, nghiên cứu tình hình huy động vốn để xây dựng nhà ở trong những năm qua và
phương hướng, mục tiêu từ nay đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài dựa vào những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các quan điểm của Đảng
bộ Thành phố Hồ Chí Minh về vốn và huy động vốn nói chung, huy động vốn để xây dựng
nhà ở nói riêng.
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, chủ yếu là phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin; coi trọng phương pháp hệ
thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, kết hợp chặt chẽ với phương pháp điều tra,
khảo sát thực tiễn nhằm khái quát, chọn lọc tri thức khoa học và kinh nghiệm về vấn đề
huy động vốn để xây dựng nhà ở trên địa bàn quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Những đóng góp cơ bản của luận văn
Luận văn có những đóng góp cơ bản cụ thể là:
Hệ thống hóa những luận điểm cơ bản về vốn và vai trò của vốn đối với việc xây
dựng nhà ở trên địa bàn quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phân tích đặc điểm nhà ở trên địa bàn quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh, làm rõ tiềm
năng, thế mạnh về vốn, cũng như những khó khăn, cản trở việc huy động vốn để xây dựng
nhà ở trên địa bàn quận 4
Xác lập những phương hướng và giải pháp có tính khả thi nhằm huy động có hiệu
quả vốn trong nước để xây dựng nhà ở trên địa bàn quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định và thực hiện có hiệu quả
chính sách về huy động vốn để xây dựng nhà ở trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói
chung, quận 4 nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có 3
chương, 7 tiết.
Toàn bộ luận văn có 89 trang (chưa kể phụ lục) 22 bảng, 11 biểu đồ danh mục tài liệu
tham khảo và 25 phụ lục.
- Chương 1
VốN Và PHƯƠNG THứC HUY ĐộNG VốN
Để XÂY DựNG NHà ở
1.1.VốN Và VAI TRò CủA VốN TRONG XÂY DựNG NHà ở
Như chúng ta đã biết, nhà ở có liên quan chặt chẽ đến cuộc sống của con người, do
đó, phương thức tài chính giải quyết vấn đề nhà ở có thể ảnh hưởng tích cực và quan trọng
đến nền kinh tế của một quốc gia, thị trường tài chính và đời sống của người dân.
Trong nền kinh tế tập trung, sử dụng vốn để xây dựng nhà ở là một khó khăn lớn
trong nguồn tài chính quốc dân. Ngược lại, trong cơ chế kinh tế thị trường, phối hợp các
nguồn lực của đất nước đã cung cấp nhà ở cho xã hội một phần đáng kể. Hệ thống tài
chính phát triển cho phép tích lũy tư bản nguồn lực thặng dư trong các đầu tư bất động sản
lâu dài, có độ an toàn cao, không sợ lạm phát và có thể tạo ra nguồn doanh thu ổn định.
Ngoài ra qua nghiên cứu cho thấy, tiền tiết kiệm của hộ dân có thể chuyển thành vốn cho
việc đầu tư xây dựng nhà ở.
Tín dụng nhà ở cho phép người dân có sự lựa chọn hoàn thiện hơn trong vấn đề nhà ở
- một thành phần không thể thiếu trong bất kỳ một xã hội dân chủ nào. Nó tạo điều kiện
cho các hộ gia đình sở hữu bất động sản từ nguồn vốn lớn của gia đình và tạo nên một hình
thức của cải tư hữu quan trọng. Điều này chỉ có thể đạt được trên cơ sở một hệ thống tài
chính nhà ở uy tín, hoạt động theo cơ cấu thị trường. Để có cơ sở nghiên cứu kỹ hơn vấn
đề nêu trên, chúng ta cần tìm hiểu các khái niệm có liên quan đến đề tài.
1.1.1. Khái niệm vốn
Vốn là một trong những nhân tố quan trọng bậc nhất đối với quá trình tăng trưởng và
phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Trong lịch sử phát triển kinh tế, khái niệm vốn được
tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Các nhà kinh tế học thuộc nhiều trường phái kinh tế học trước Mác đã dày công
nghiên cứu vốn thông qua phạm trù tư bản và đi đến kết luận: vốn là phạm trù kinh tế.
Kế thừa chọn lọc tư tưởng của các nhà tiền bối, khi nghiên cứu sự chuyển hóa của
tiền thành tư bản, Mác khẳng định: “Như vậy là giá trị ứng ra lúc ban đầu không những
- được bảo toàn trong lưu thông, mà còn thay đổi đại lượng của nó, còn cộng thêm một giá
trị thặng dư, hay đã tự tăng thêm giá trị. Chính sự vận động ấy biến nó thành tư bản” [28,
tr. 228].
Khẳng định trên của Các Mác đã vạch rõ bản chất và chức năng của tư bản là sinh
lời. Tuy nhiên, để giá trị thành tư bản và tư bản sinh lời phải trải qua sự vận động. Nghĩa
là, tư bản có mặt trong lưu thông, tham gia vào quá trình sản xuất. Thông qua sự vận động,
tư bản sinh sôi nảy nở và lớn lên không ngừng.
Ngày nay, do yêu cầu cao của sự phát triển, vốn là yếu tố đóng vai trò quan trọng của
hầu hết các quốc gia đang phát triển và kém phát triển. Vì vậy, phạm trù vốn trong phát
triển kinh tế vẫn được các nhà kinh tế học tiếp tục nghiên cứu và tiếp cận nó trên nhiều
bình diện khác nhau.
Dưới góc độ tài chính - tiền tệ, trong ấn phẩm “Chú giải thuật ngữ kế toán Mỹ”, tác
giả Hồ Văn Mộc và Điêu Quốc Tín cho rằng, vốn là “tổng số tiền biểu hiện nguồn gốc
hình thành của tài sản được đầu tư trong kinh doanh để tạo ra thu nhập và lợi tức”[33, tr.
29].
Dưới góc độ tài sản, cuốn “Dictionnary of Economic” - Từ điển Kinh tế của Penguin
Reference, do Phạm Đăng Bình và Nguyễn Văn Lập dịch lại đưa ra khái niệm: “Vốn là
những tài sản có khả năng tạo ra thu nhập và bản thân nó cũng được cái khác tạo ra” [44,
tr. 56].
Dưới góc độ nhân tố đầu vào, trong tác phẩm “Lịch sử tư tưởng kinh tế”,
I.Đ.Uđanxốp và F.I.Pôlianxki kết luận: Vốn là “một trong ba yếu tố đầu vào phục vụ cho
sản xuất (lao động, đất đai, vốn). Vốn bao gồm các sản phẩm lâu bền được chế tạo để
phục vụ sản xuất (tức là máy móc, công cụ, thiết bị, nhà cửa, kho dự trữ thành phẩm hoặc
bán thành phẩm) “ [61, tr. 300].
ở Việt Nam, cuốn “Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học cũng chỉ ra: “Vốn là
tiền của bỏ ra lúc đầu, dùng trong sản xuất kinh doanh, nhằm mục tiêu sinh lợi” [64, tr.
1126].
Như vậy, “vốn sẽ bao gồm bất cứ thứ gì đưa lại một luồng thu nhập qua thời gian”,
“Sự phát triển có thể coi như là một quá trình khái quát của sự tích lũy vốn” [34, tr. 460].
- Những cách tiếp cận trên đây cho thấy vốn đã nêu rõ tính đa dạng, nhiều vẻ về hình
thái tồn tại của vốn. Vốn có thể là tiền hay tài sản được giá trị hóa. Mặt khác, với tư cách
là vốn thì tiền hay tài sản phải được đầu tư vào hoạt động sản xuất - kinh doanh để tạo ra
hàng hóa, dịch vụ nhằm mục tiêu có thu nhập trong tương lai. Nghĩa là, vốn luôn gắn với
sự vận động và đảm nhiệm chức năng sinh lời.
Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn bản chất của vốn, trên cơ sở đó có biện pháp đúng đắn khi
huy động và sử dụng vốn nói chung và cho đầu tư phát triển nhà ở nói riêng, cần nhận thức
sâu sắc một số vấn đề sau:
Thứ nhất, về các hình thái biểu hiện của vốn
Xét về mặt trừu tượng, vốn là hình thái giá trị. Giá trị đó được ứng ra để chuyển hóa
nó thành các yếu tố cấu thành quá trình sản xuất, trải qua quá trình sản xuất, giá trị lớn lên
không ngừng.
Xét về mặt cụ thể, vốn được biểu hiện rất phong phú, đa dạng, bao gồm: tài sản hữu
hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính. Những tài sản này tham gia trực tiếp vào quá trình
sản xuất, tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đồng thời tăng giá trị. Nói cách khác, vốn là
giá trị thực của tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính đưa vào đầu tư để tạo
ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Tài sản hữu hình là những tài sản tồn tại dưới dạng cụ thể của vật chất. Tài sản hữu
hình bao gồm hai bộ phận: Một là, những tài sản hữu hình phục vụ trực tiếp sản xuất, như:
nhà xưởng, máy móc, thiết bị, công cụ, nguyên - nhiên vật liệu, bán thành phẩm... Về thực
chất, những tài sản hữu hình này chính là sự cụ thể hóa năng lực sản xuất của một đơn vị
kinh tế cơ sở hay xét trên phạm vi rộng lớn - toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quyết định tới
hiệu quả sản xuất - kinh doanh; hai là, những tài sản hữu hình phục vụ gián tiếp cho sản
xuất, như: trụ sở văn phòng, trang bị nội thất văn phòng, phương tiện đi lại, nhà ở... Mặc
dù những tài sản hữu hình này là cần thiết cho hoạt động sản xuất - kinh doanh nhưng chỉ
tác động gián tiếp đến việc gia tăng sản lượng đầu ra, đóng vai trò thứ yếu đối với hiệu quả
sản xuất - kinh doanh.
- Việc phân biệt rõ hai loại tài sản hữu hình như trên cho ta phương pháp luận đúng
đắn khi huy động, sử dụng chúng đầu tư cho phát triển nhà ở. Trên thực tế, cần phải tập
trung mọi nguồi lực để làm tăng tài sản hữu hình với tư cách là năng lực sản xuất.
Tài sản vô hình là những tài sản không tồn tại dưới dạng cụ thể của vật chất, bao gồm
những sản phẩm trí tuệ, như: bằng phát minh, sáng chế, bản quyền; thương hiệu sản phẩm,
uy tín kinh doanh; vị trí kinh doanh; chi phí đào tạo nguồn nhân lực (kỹ năng lao động, tri
thức quản lý).v.v. Nền kinh tế thị trường càng phát triển, giá trị tài sản vô hình càng trở
nên quan trọng trong cơ cấu vốn đầu tư. Bởi lẽ, khi đã huy động được những tài sản vô
hình vào phát triển kinh tế, sử dụng chúng hợp lý sẽ đem lại lợi nhuận, thậm chí là siêu lợi
nhuận cho các nhà đầu tư. Chẳng hạn, Nhật Bản là một điển hình thành công khi tạo bước
đột phá trong khai thác giá trị tài sản vô hình để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Người Nhật
Bản không ngần ngại trả giá cao cho những phát minh, sáng chế mới của các nhà khoa học
trên khắp các châu lục, đồng thời đem những tài sản - trí tuệ đó ứng dụng vào sản xuất -
kinh doanh, nhờ đó, nền kinh tế Nhật Bản cất cánh thật ngoạn mục. Nếu như sau chiến
tranh thế giới lần thứ hai, nền kinh tế Nhật bị kiệt quệ, lạm phát phi mã, thất nghiệp gia
tăng… thì chỉ trong vòng hai mươi năm, Nhật Bản trở thành một siêu cường kinh tế thế
giới, chỉ đứng sau Mỹ và Liên minh châu Âu (EU), thành công đó có sự đóng góp không
nhỏ của việc khai thác tốt yếu tố vô hình - sản phẩm trí tuệ của loài người vào phát triển
kinh tế.
Tài sản tài chính, bao gồm tiền mặt hay các chứng chỉ có giá trị (cổ phiếu, trái phiếu,
giấy ghi nợ…), có thể gọi chung là tiền. Tuy nhiên, không phải tất cả tiền đều là vốn. Tiền là
hình thái cụ thể của vốn. Tiền được coi là vốn khi và chỉ khi tiền đại diện một lượng giá trị
hàng hóa, dịch vụ hay tài sản nhất định, được “ném” vào lưu thông hoặc tham gia trực tiếp vào
sản xuất - kinh doanh để kiếm lời. Bởi vậy, những đồng tiền được cất trữ hay đem tiêu dùng
trong sinh hoạt hàng ngày, không có khả năng sinh ra lợi nhuận không phải là vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, hình thức vận động của tiền với tư cách là vốn do
phương thức đầu tư cụ thể quyết định. Trên thực tế, sự vận động của vốn có ba hình thức:
a) T - H … SX … H’ - T: Đây là hình thức vận động của vốn trong các doanh nghiệp
sản xuất. Thực chất, đó cũng chính là mô hình tái sản xuất xã hội nói chung.
- b) T - H - T’: Đây là hình thức vận động của vốn trong các doanh nghiệp thương mại
- dịch vụ.
c) T - T’: Đây là hình thức vận động của vốn trong các tổ chức tài chính trung gian.
Trong đó:
T: Lượng tiền ứng ra để đầu tư phát triển.
H: Hàng hóa với tư cách là tư liệu sản xuất, sức lao động, hàng hóa dự trữ…
SX: Quá trình sản xuất - kinh doanh.
H’: Hàng hóa thu được sau quá trình sản xuất - kinh doanh.
T: Lượng tiền thu được khi kết thúc chu kỳ kinh doanh {T’>T và T = T+t}
(t là lượng giá trị tăng thêm)
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi chủ thể kinh doanh đều có thể sử dụng một hay
nhiều phương thức đầu tư vốn theo các mô hình vận động của vốn như đã nêu, nhằm mục
tiêu lợi nhuận.
Như vậy, về mặt nhận thức, có thể thấy rằng, vốn tồn tại dưới nhiều hình thái cụ thể:
tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính. Nhưng hình thái giá trị - tiền tệ với tư
cách vốn là loại vốn linh hoạt, biến hóa nhất trong nền kinh tế thị trường. Thị trường
không những là nơi diễn ra các hoạt động đa dạng của vốn mà còn là nơi để vốn bộc lộ khả
năng sinh lời của chúng. Khả năng sinh lời vừa là mục đích cuối cùng của việc đầu tư kinh
doanh đồng vốn, vừa là phương tiện để vốn tiếp tục vận động với quy mô ngày càng được
mở rộng ở chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Sự vận động của vốn trên thị trường tuân thủ quy
luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Song, với khả năng nhận thức, con người có
thể nắm bắt, vận dụng quy luật khách quan, tạo ra những kênh huy động vốn một cách
hiệu quả, đáp ứng mục đích sản xuất - kinh doanh của mình.
Thứ hai, vốn là hàng hóa
Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là hàng hóa. Muốn phát triển sản xuất -
kinh doanh đòi hỏi phải có vốn đầu tư. Nhu cầu vốn đầu tư được xem là cơ sở phát sinh
quan hệ cung - cầu về vốn trên thị trường. Như vậy, vốn hiển nhiên là đối tượng trao đổi,
mua bán trên thị trường vốn. Với tư cách là hàng hóa, vốn có hai thuộc tính: giá trị và giá
trị sử dụng; có chủ sở hữu là một trong những yếu tố đầu vào của một quá trình sản xuất.
- Thứ ba, vốn là hàng hoá đặc biệt
Tính đặc biệt của hàng hóa thể hiện ở chỗ, vốn có khả năng sinh lời. Với tư cách là
hàng hóa đặc biệt, quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn tách rời nhau. Đặc điểm này
của vốn không có ở các loại hàng hóa thông thường. Chủ sở hữu vốn sẽ nhận được một
khoản lợi tức (giá bán hay lãi suất quyền sử dụng vốn) khi bán quyền sử dụng vốn cho
người mua (các nhà đầu tư). Nhà đầu tư khi mua quyền sử dụng vốn phải bỏ ra một khoản
gọi là chi phí (giá mua quyền sử dụng vốn) trả cho chủ sở hữu và nhận về mình quyền sử
dụng vốn. Nhờ có sự tách rời giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn làm cho vốn
trở nên linh hoạt trong lưu thông và sinh lời. Cụ thể hơn, nhờ có sự tách rời giữa quyền sở
hữu vốn và quyền sử dụng vốn mà khi sử dụng chúng trong hoạt động đầu tư, vốn không
những không bị “tan biến” giá trị và giá trị sử dụng mà còn bảo toàn, phát triển giá trị và
giá trị sử dụng của chúng. Các Mác đã chỉ rõ: “Hàng hóa tư bản có đặc tính là: Khi giá trị
sử dụng của nó được đem tiêu dùng đi, hàng hóa - tư bản không những giữ được giá trị và
giá trị sử dụng của nó, mà còn làm cho giá trị sử dụng đó tăng thêm nữa” [28, tr. 537].
Tất nhiên, để đồng vốn phát sinh lợi nhuận (tăng giá trị), nó phải được đặt trong một
môi trường cụ thể, có sự tương tác của các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh. Từ môi
trường này nhà đầu tư có thể lựa chọn kênh cung cấp vốn, cơ chế hoạt động và hình thức
đầu tư.
Thứ tư, vốn có mối quan hệ mật thiết với thời gian
Các Mác viết:
Tiền chỉ được đem nhượng lại với hai điều kiện, một là, nó sẽ quay trở về
điểm xuất phát sau một kỳ hạn nhất định, và hai là, nó sẽ quay trở về điểm đó
với tư cách là tư bản đã thực hiện, nghĩa là sau khi đã thực hiện được các giá trị
sử dụng của nó, thực hiện được các khả năng của nó là sản xuất ra giá trị thặng
dư [28, tr. 525].
Như thế, chủ sở hữu vốn chuyển nhượng lại quyền sử dụng vốn cho nhà đầu tư trong
một khoảng thời gian xác định. Sau khi vốn chuyển qua chu kỳ vận động, nó quay về tay
chủ sở hữu, với một lượng giá trị lớn hơn. Lượng giá trị lớn hơn đó là lợi tức của chủ sở
hữu vốn hay lãi suất phải trả của nhà đầu tư khi sử dụng vốn. Mức lãi suất được tính bằng
- tỷ lệ phần trăm so với lượng vốn khi chủ sở hữu vốn nhượng, bán quyền sử dụng vốn theo
đơn vị thời gian (tháng, quý, năm…), phù hợp với nền kinh tế thị trường [43, tr. 14].
Thông thường, thời gian “vay” vốn dài, lãi suất lớn và ngược lại, thời gian “vay” vốn
ngắn, lãi suất nhỏ (lãi suất tỷ lệ thuận với thời gian vay). Sự tách rời giữa quyền sở hữu
vốn và quyền sử dụng vốn, gắn với khoảng thời gian xác định tất yếu dẫn đến quá trình
tích tụ, tập trung vốn từ khoản tiết kiệm nhỏ, lẻ, những đồng tiền chưa có cơ hội đầu tư trở
thành vốn và chuyển chúng đến tay các nhà đầu tư. Sự vận động ấy đã tạo nên dòng chảy
của vốn không ngừng, không nghỉ trong nền kinh tế thị trường. Mặt khác, trong nền kinh
tế thị trường, khi tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh, các nhà đầu tư luôn luôn chú
trọng đến yếu tố thời gian. Bởi vì, các yếu tố như giá cả, lạm phát, lãi suất, tỷ giá… biến
động thường xuyên, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Do đó, bất kỳ nhà đầu tư nào, khi xác định hiệu quả đầu tư cũng phải đưa toàn bộ
chi phí và thu nhập về cùng một thời điểm để so sánh, tính toán các chỉ tiêu lợi nhuận, tỷ
suất doanh lợi/vốn, tỷ suất doanh lợi/doanh thu, vòng quay của đồng vốn... Điều đó cắt
nghĩa được tại sao vốn luôn có giá trị về mặt thời gian (gắn với thời gian).
Trong giới hạn, phạm vi và đối tượng nghiên cứu, luận văn chỉ đề cập đến vấn đề
huy động vốn trong nước vào việc xây dựng nhà ở nói chung và nhà ở cho người có thu
nhập thấp nói riêng trên địa bàn quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh.
Vốn trong nước là tổng giá trị của những tài sản (bao gồm tài sản hữu hình, tài sản vô
hình và tài sản tài chính), được hình thành từ các nguồn lực kinh tế và sản phẩm thặng dư
của nhân dân lao động ở một nước, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất
- kinh doanh nhằm mục tiêu có thu nhập trong tương lai.Vốn với tư cách là giá trị, biểu
hiện dưới hình thái tiền, được huy động để đầu tư vào phát triển nhà ở. Cụ thể hơn, vốn
đầu tư phát triển nhà ở là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng lao động
được sử dụng vào phát triển nhà ở.
Vốn có vai trò to lớn trong việc tạo ra của cải vật chất, đẩy nhanh nhịp độ tăng
trưởng kinh tế. Huy động vốn có hiệu quả; cung ứng đầy đủ và kịp thời vốn cho nền kinh
tế là một trong những tiền đề quan trọng đẩy mạnh phát triển nền kinh tế quốc dân nói
chung, phát triển nhà ở nói riêng. Tuy vậy, trong mỗi quyết định đầu tư cụ thể lại đòi hỏi
- không chỉ lượng vốn đủ lớn mà còn yêu cầu một hay nhiều loại vốn khác nhau. Thực tiễn
luôn đặt ra yêu cầu phân chia và xác định rõ từng loại vốn để có biện pháp huy động, sử
dụng và quản lý vốn có hiệu quả.
Căn cứ vào những tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân chia vốn thành nhiều
loại khác nhau. Dưới đây là một số loại vốn cơ bản:
Dựa vào biên giới lãnh thổ quốc gia, vốn chia thành hai loại vốn: vốn trong nước và
vốn ngoài nước.
Dựa vào đặc điểm vận động, vốn có hai loại: vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định được biểu hiện bởi giá trị những tài sản cố định, bao gồm: nhà xưởng,
vật kiến trúc, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, kết cấu hạ tầng, dụng cụ đo lường...
Vốn lưu động được biểu hiện bởi giá trị của những tài sản lưu động, bao gồm:
nguyên - nhiên liệu, sản phẩm dở dang, hàng hóa dự trữ, các khoản tiền tệ đáp ứng nhu cầu
thanh toán...
Dựa vào hình thái tồn tại, vốn chia thành hai loại: vốn hữu hình và vốn vô hình.
Dựa vào thời gian sử dụng, vốn có ba loại: Vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và vốn dài
hạn.
Vốn ngắn hạn là lượng giá trị được sử dụng để đầu tư với thời hạn dưới một năm.
Vốn trung hạn là lượng giá trị được sử dụng để đầu tư với thời hạn từ một năm đến
dưới năm năm.
Vốn dài hạn là lượng giá trị được sử dụng để đầu tư với thời hạn từ năm năm trở lên.
Dựa vào chế độ sở hữu, vốn có hai loại: vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và vốn vay (huy
động từ bên ngoài).
Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc quyền quản lý, sử dụng của một hoặc nhiều chủ thể sở
hữu. Chẳng hạn, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước được hình thành trên cơ sở
ngân sách nhà nước cấp và vốn tự bổ sung; vốn chủ sở hữu của công ty cổ phần được hình
thành thông qua huy động vốn góp của cổ đông; vốn chủ sở hữu của công ty trách nhiệm
hữu hạn được hình thành thông qua vốn góp của các thành viên...
Vốn vay là vốn huy động được từ bên ngoài để bổ sung, làm tăng lượng vốn của chủ
thể kinh doanh, đảm bảo tính liên tục và hiệu quả của quá trình sản xuất. Vốn vay có thể
- huy động từ: vay trong nước và vay ngoài nước. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế,
vay vốn ngoài nước để phát triển kinh tế không phải là công việc quá khó đối với các nước
đang phát triển và kém phát triển. Song, vấn đề quan trọng là quản lý và sử dụng vốn vay
ngoài nước hiệu quả vẫn còn là vấn đề nan giải đối với các nước nghèo và kém phát triển.
Nền kinh tế thị trường càng phát triển, vốn vay sẽ càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn
đầu tư của một chủ thể sản xuất - kinh doanh.
Dựa vào mục đích sử dụng, không chỉ có vốn sản xuất trực tiếp phục vụ cho quá trình
sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ, hàng hóa mà còn cần vốn phục vụ gián tiếp cho sản
xuất, bao gồm khối lượng lớn và phong phú hệ thống kết cấu hạ tầng, các côn g trình công
cộng…[26, tr. 143].
Dựa vào giá trị của vốn đầu tư trong thực tế và những chứng chỉ có giá (cổ phiếu,
trái phiếu…), vốn chia thành hai loại: vốn thực (tư bản thật) và vốn ảo (tư bản giả) [40, tr.
14]...
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi cách tiếp cận khác nhau cho ta những quan niệm
khác nhau về vốn, song, nhận thức về vốn, xét về bản chất là thống nhất. Việc phân chia
vốn thành nhiều loại khác nhau nhằm mục đích hiểu rõ bản chất của phạm trù vốn - vốn là
hình thái giá trị, là thứ hàng hoá đặc biệt, có mối liên hệ mật thiết với thời gian. Cùng với
việc hiểu rõ bản chất của vốn còn nhận thức được tính đa dạng, nhiều vẻ và rất phức tạp
của vốn trong nền kinh tế thị trường. Đó là những căn cứ khoa học giúp các chủ thể kinh
doanh nắm bắt và chủ động trong kế hoạch huy động, sử dụng các loại vốn, đẩy mạnh phát
triển sản xuất - kinh doanh.
1.1.2. Cơ cấu nguồn vốn
Trong một đơn vị kinh tế cơ sở hay xét trên phạm vi rộng lớn - toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, điều hiển nhiên là: muốn có vốn cần phải đầu tư và muốn có vốn đầu tư phải tìm
ra nguồn. Cắt nghĩa cho vấn đề này, nhiều nhà kinh tế học, điển hình là nhà kinh tế người
Mỹ P.A. Samuelson cho rằng: nhịn tiêu dùng hiện tại, dành vốn đầu tư cho sản xuất sẽ có
thu nhập trong tương lai [45, tr. 362]. Về bản chất, “nhịn tiêu dùng” chính là hành động
tiết kiệm (hay tích lũy vốn) của một chủ thể kinh tế. Chính tiết kiệm là nguồn gốc cơ bản
để hình thành vốn đầu tư.
- Thực tế đã chứng minh, những nước có nền kinh tế phát triển ở trình độ tiên tiến như
Mỹ, Nhật Bản, các nước Liên minh châu Âu có mức thu nhập bình quân đầu người cao,
quy mô và tỷ lệ tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân lớn sẽ dễ dàng gia tăng nhanh
tiết kiệm để tái đầu tư, mở rộng sản xuất. Trái lại, những nền kinh tế đang phát triển và
kém phát triển, mức thu nhập đầu người thấp, quy mô và tỷ lệ tích lũy vốn từ nội bộ nền
kinh tế quốc dân nhỏ nên việc gia tăng tích lũy vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư là công việc
khá khó khăn, phức tạp. Sự thiếu vốn sẽ là một cản trở đơn giản nhưng quan trọng nhất
đối với với việc đẩy nhanh phát triển kinh tế [23, tr. 4] ở các nước đang phát triển và kém
phát triển.
Như vậy, vốn đầu tư phát triển của một chủ thể kinh tế được huy động từ hai nguồn:
nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước. Tuy nhiên, ở những nước khác nhau sẽ
có những quan điểm khác nhau trong huy động vốn: có những nước hoàn toàn dựa vào
ngoại lực và ngược lại có những nước quyết tâm phát huy nội lực, dựa vào “sức mình”; cũng
không ít nước kết hợp huy động cả hai nguồn vốn trong nước và ngoài nước để đẩy mạnh phát
triển kinh tế.
Trong giới hạn, phạm vi nghiên cứu, luận văn đi sâu phân tích cơ cấu nguồn vốn
trong nước để phát triển nhà ở.
Vốn trong nước được hình thành từ tiết kiệm trong nước. Theo Hệ thống tài khoản quốc
gia (SNA) do Liên hiệp quốc xuất bản năm 1989 và tái bản năm 1993 thì: Tiết kiệm (Saving - S)
bằng tổng thu nhập quốc gia khả dụng (GNDI - Gross National Disposable Income) trừ đi tiêu
dùng cuối cùng. Bên cạnh đó, theo định nghĩa của Liên hiệp quốc và Vụ Hệ thống Tài khoản
quốc gia thuộc Tổng cục Thống kê thì: Tổng thu nhập quốc gia khả dụng bằng GDP cộng thu
từ sở hữu thuần, cộng thu từ chuyển nhượng hiện hành thuần. Nên tiết kiệm thuần (Net Saving -
Sn) bằng tiết kiệm trừ khấu hao tài sản cố định [10, tr. 25].
Với cách tiếp cận như trên, tỷ lệ tiết kiệm và tỷ lệ tiết kiệm thuần ở Việt Nam (không
bao hàm khấu hao tài sản cố định) so với GDP như sau:
Bảng 1.1: Tiết kiệm và tiết kiệm thuần giai đoạn 1994-2000
Đơn vị tính: %
Năm Tiết kiệm/Tổng sản phẩm Tiết kiệm thuần/Tổng sản phẩm
- quốc nội (GDP) quốc nội (GDP)
1994 21,21 12,55
1995 22,86 14,22
1996 20,55 11,70
1997 21,63 12,90
1998 23,90 15,40
1999 27,09 17,59
2000 31,00 19,46
Nguồn: [10]
Như vậy, trong giai đoạn 1994 - 2000, tiết kiệm quốc gia có xu hướng tăng lên rõ rệt.
Nếu như năm 1994, tiết kiệm/GDP chỉ chiếm 21,21% thì sau 7 năm, con số này tăng lên
31%, trong đó, tích lũy vốn trong nước có bước phát triển mới.
Bảng 1.2: Tích luỹ vốn giai đoạn 1996-1998
Đơn vị tính: %
1996 1997 1998
Tổng số vốn cho tích lũy 100 100 100
1. Nguồn vốn trong nước cho tích lũy: 73,12 76,44 82,27
Trong đó:
- Tiết kiệm thuần 41,65 45,59 53,01
- Khấu hao tài sản cố định 31,47 30,85 29,26
2. Nguồn vốn từ ngoài nước (chuyển nhượng 26,88 23,56 17,73
vốn, đi vay…)
Nguồn: [10, tr. 26]
Qua số liệu trên đây, có thể thấy, nguồn vốn trong nước cho tích lũy có xu hướng
tăng dần, từ 73,12% năm 1996 tăng lên 82,27% năm 1998. Trong đó, tiết kiệm thuần tăng
từ 41,65% (1990) lên 53,01% (1998); khấu hao tài sản cố định từ 31,47% (1996) xuống
còn 29,26% (1998). Tích lũy vốn từ nguồn vốn ngoài nước lại có xu hướng giảm dần, từ
26,88% năm 1996 giảm xuống còn 17,73% năm 1998. Thực trạng đó phản ánh đúng quan
- điểm, mục tiêu, đường lối và chủ trương phát huy nội lực; huy động vốn, tích lũy vốn cho
phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, đánh giá khách quan phải thấy
rằng, đó chỉ là kết quả bước đầu trong quá trình tích lũy vốn cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực tế, quy mô tích lũy vốn trong nước còn nhỏ bé đã hạn chế
khả năng đầu tư cho phát triển kinh tế.
Tiết kiệm trong nước bao gồm: tiết kiệm của ngân sách nhà nước, tiết kiệm của
doanh nghiệp và tiết kiệm của dân cư (hộ gia đình) [26, tr. 147].
1.1.2.1. Vốn ngân sách nhà nước
Hình thành từ tiết kiệm của ngân sách nhà nước, là phần vốn dành để chi cho đầu tư
phát triển, lấy từ thu ngân sách nhà nước, không tính các khoản: viện trợ không hoàn lại
của chính phủ các nước và các tổ chức, cá nhân nước ngoài; các khoản vay trong nước và
ngoài nước của Chính phủ để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước.
Tiết kiệm ngân sách nhà nước chi cho đầu tư phát triển thông qua cấp phát vốn trực
tiếp (Nhà nước đầu tư trực tiếp) và cung ứng tín dụng nhà nước (Nhà nước đầu tư gián
tiếp). Đầu tư gián tiếp của Nhà nước qua tín dụng là rất cần thiết trong nền kinh tế thị
trường và nó cũng là cơ sở quan trọng để hình thành các loại vốn có nguồn gốc từ ngân
sách, như: tín dụng ngân hàng, các quỹ đầu tư tài chính, các quỹ hỗ trợ vốn cho phát
triển... qũy tín dụng nhân dân,… là những tổ chức tín dụng quan trọng bậc nhất trong việc
cung ứng vốn đầu tư cho phát triển.
1.1.2.2. Vốn của doanh nghiệp bao gồm: Tiết kiệm của doanh nghiệp nhà nước và
tiết kiệm của doanh nghiệp tư nhân, là phần lãi sau thuế (lãi thuần) được doanh nghiệp để
lại dành cho đầu tư phát triển. Trên thực tế, nguồn tự tài trợ cho hoạt động tái đầu tư, mở
rộng sản xuất của doanh nghiệp còn cộng với khoản thu được từ khấu hao tài sản cố định.
Quy mô và tốc độ tăng trưởng của tiết kiệm doanh nghiệp phụ thuộc vào quy mô và
hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp và chính sách của Nhà n ước
đối với hoạt động của doanh nghiệp, như chính sách thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp),
chính sách khuyến khích đầu tư và chính sách phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. Đối
với doanh nghiệp nhà nước, vấn đề phân phối lợi nhuận còn chịu sự chi phối bởi chính
sách phân phối lợi nhuận của Nhà nước.
- 1.1.2.3. Vốn của dân cư: hình thành từ tiết kiệm trong dân cư, đó là phần thu nhập
để dành, chưa tiêu dùng của các hộ gia đình.
Thu nhập của dân cư được hình thành từ thu nhập trong kết quả lao động ở lĩnh vực
sản xuất và dịch vụ của các gia đình. Tỉ lệ tiết kiệm của dân cư có xu hướng tăng dần khi
thu nhập của các hộ gia đình tăng. Vì vậy, tiết kiệm của dân cư coi là biến số trực tiếp phụ
thuộc vào thu nhập sau khi đã nộp thuế của dân cư [23,tr.31].
Trong nền kinh tế thị trường, tiết kiệm của dân cư là bộ phận chủ yếu và ngày càng
khẳng định được vị trí, tầm quan trọng của nó trong việc hình thành tổng nguồn vốn đầu tư
phát triển của một quốc gia.
ở Việt Nam theo tính toán của các nhà kinh tế, khu vực hộ gia đình và các tổ chức
phi lợi nhuận, bao gồm: Cá thể, kinh tế hộ gia đình, hiệp hội, các tổ chức xã hội khác…
phần tiết kiệm đạt trên dưới 12% so với thu nhập cuối cùng [14, tr. 34].
Như vậy, nguồn vốn trong nước gồm có: tiết kiệm ngân sách nhà nước, tiết kiệm
doanh nghiệp và tiết kiệm dân cư. Mỗi nguồn vốn trên có tầm quan trọng riêng, song, bản
thân chúng là những yếu tố cấu thành tổng nguồn vốn trong nước. Hiểu rõ cơ cấu nguồn
vốn trong nước cho ta một cách nhìn tổng thể, toàn diện cơ cấu nguồn vốn này, giúp ích
cho việc khai thác, huy động, quản lý và sử dụng nguồn vốn trong nước một cách hiệu quả.
1.1.3. Vai trò và đặc điểm của vốn để xây dựng nhà ở
Vốn để xây dựng nhà ở có những đặc trưng riêng so với vốn đầu tư khác:
Thứ nhất: yêu cầu đầu tư và cho vay với số lượng tương đối lớn.
Thứ hai: thời gian thu hồi vốn dài từ 10 - 25 năm.
Do có sự trả chậm, đặc biệt trong trường hợp lãi suất cố định, nên thể chế tài chính
nhà ở phải đối phó với các vấn đề sau đây:
Về thời gian: nguồn vốn vay phải tính cho thời gian dài.
Về lãi suất: phải tính toán để bảo toàn vốn.
Những nguyên tắc hướng dẫn cho các hoạt động vay tiền của các tổ chức tài chính là giảm
tối đa sự rủi ro, chống lại sự phá sản và trang trải được các chi phí.
1.1.3.1. Yêu cầu cấp bách về vốn để xây dựng nhà ở
- Quá trình đô thị hoá ở thành phố diễn ra nhanh chóng, do đó yêu cầu về nhà ở cũng
như nguồn vốn đầu tư cho nhà ở, hệ thống hạ tầng kỹ thuật như giao thông, điện nước, vệ
sinh và hệ thống mạng lưới công nghiệp và thương mại tăng lên.
Tính chất cấp bách về vốn để đầu tư xây dựng nhà ở của Thành phố Hồ Chí Minh nói
chung và quận 4 nói riêng do những nhân tố sau đây:
Thứ nhất, đầu tư vốn bổ sung để đáp ứng yêu cầu của tăng trưởng đô thị và phát triển
các hộ gia đình mới.
Thứ hai, đầu tư vốn để di chuyển một số khu nhà ở, và hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật
như cung cấp nước, đường sá, di chuyển rác và các dịch vụ khác.
Thứ ba, đầu tư vốn để thay thế, sửa chữa, bảo trì nhà ở và hạ tầng kỹ thuật đã được
sử dụng lâu năm, hiện đang xuống cấp đe dọa đến an toàn cuộc sống của dân cư.
1.1.3.2. Vốn-nhân tố quyết định thúc đẩy việc xây dựng nhà ở
Cũng giống như bất kỳ một ngành sản xuất vật chất nào, sự gia tăng nhanh tiết kiệm
để đầu tư phát triển nhà ở sẽ thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hóa, đồng thời sẽ thu hút các
nguồn đầu tư khác để phát triển kinh tế xã hội. Vì thế, vai trò của nhân tố vốn đối với phát
triển nhà ở hiện nay là rất lớn, thể hiện ở chỗ: Vốn đầu tư vào việc xây dựng nhà ở đồng thời
với việc chỉnh trang các khu vực dân cư, hình thành các khu dân cư mới và nó sẽ cải thiện
điều kiện về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đồng thời làm thay đổi bộ mặt của đô thị.
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội bao gồm: các công trình giao thông, hệ
thống điện, nước, cấp, thoát nước, công trình bưu chính viễn thông, các công trình phúc lợi
công cộng, công viên cây xanh, trường học, bệnh viện, các công trình văn hóa xã hội. Hiện
đại hóa kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội sẽ góp phần tích cực vào việc làm thay đổi môi
trường đầu tư, thu hút các nguồn lực của xã hội, cải thiện môi trường sống, nâng cao điều
kiện sống của người dân, tăng thêm phúc lợi công cộng, bảo đảm an sinh xã hội.
Thiếu vốn sẽ đồng nghĩa với việc các chương trình xây dựng nhà ở, chỉnh trang đô
thị không thực hiện được.
1.1.4. Vai trò của nhà ở
1.1.4.1. Nhà ở đối với đời sống con người
- Nhà ở là một nhu cầu cơ bản, quyền có nhà ở là quyền cơ bản của con người. Ngày
nay các nước trên thế giới đang hưởng ứng chiến lược toàn cầu về chỗ ở của Đại Hội đồng
Liên hiệp quốc, nhằm mục tiêu tạo điều kiện cho mọi người có chỗ ở phù hợp.
Nhân loại đã không ngừng khẳng định ý nghĩa, vai trò quan trọng của nhà ở trong đời
sống cá nhân lẫn đời sống xã hội. Nhà ở không chỉ có giá trị sử dụng là phương tiện che
mưa, che nắng, nơi con người nghỉ ngơi để tái phục hồi sức lao động, mà còn là nơi làm
việc, giao tiếp, nơi con người thể hiện vai trò, vị trí của mình trong quan hệ xã hội.
Gautama, nhà triết gia cổ đã miêu tả chỗ ở là "gốc rễ của hạnh phúc". "Chúng ta tạo
ra nhà ở, nhưng sau đó nhà ở lại tạo ra chúng ta ". Người ta đã dẫn lời một người đàn ông
Pakistan vô gia cư: "Nhà ở không chỉ là nơi để ăn và ngủ, nó còn tạo cho tôi cảm xúc
riêng. Trong ngôi nhà của tôi, tôi có thể nhận thức được xã hội, tôi có thể tiếp đãi bạn bè
và tôi có thể tự hào về nó - không có nhà ở, tôi không là con người mà chỉ là một con vật".
Người Việt Nam từ ngàn xưa đã đúc kết sâu sắc rằng: "Sống cái nhà, thác cái mồ".
Những thập niên gần đây, giải quyết chỗ ở là nỗ lực chung mang ý nghĩa chiến lược trên
phạm vi toàn cầu. ủy ban định cư của Liên hiệp quốc tính toán rằng trên toàn thế giới có trên
một tỷ người đang sống trong những căn nhà chật chội và hơn một trăm triệu người đang chịu
cảnh sống không nhà cửa. Tổ chức này đã hành động tích cực để quyền có nhà ở phải được
coi là quyền cơ bản của con người. Quá trình này bắt đầu bằng việc thực hiện Công ước về
quyền có chỗ ở của con người được công bố vào năm 1976. Đến năm 1987, công bố năm
quốc tế về chỗ ở cho những người vô gia cư và tiếp theo là thông qua chiến lược toàn cầu về
chỗ ở đến năm 2000 của Đại Hội đồng Liên hiệp quốc năm 1988.
1.1.4.2. Nhà ở và vấn đề môi trường đô thị
Đối với các đô thị lớn trên thế giới - trong đó có Thành phố Hồ Chí Minh- nhà ở liên
quan đến môi trường sinh học, môi trường nhân văn của đô thị. Xây dựng nhà ở một cách tự
phát không những làm mất mỹ quan đô thị mà còn tác động xấu đến môi trường, tác hại lớn
đến cuộc sống, như: phát triển bất hợp lý kết cấu hạ tầng đô thị; giao thông yếu kém làm tắc
nghẽn giao thông, lãng phí nguồn tài nguyên nước và nguồn nước bị ô nhiễm, tình trạng xả rác
và lấn chiếm kênh rạch, thảm cây xanh đô thị thiếu nghiêm trọng,... Việc giải quyết chỗ ở gắn
nguon tai.lieu . vn