Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN: Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nền kinh tế hiện nay, vốn đầu tư phát triển kinh tế nói chung và vốn đầu tư phát triển công nghiệp nói riêng là một vấn đề đặc biệt quan trọng, cần được quan tâm giải quyết. Việc thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp như thế nào để đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển của ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời việc thu hút vốn đó phải đạt được hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay, tỉnh Hưng Yên đã hình thành một số khu công nghiệp tập trung, làng nghề tiểu thủ công nghiệp, thu hút hàng trăm nhà đầu tư đến đây thành lập doanh nghiệp, tiến hành sản xuất kinh doanh. Các khu công nghiệp, làng nghề tiểu thủ công nghiệp này cần huy động số lượng lớn vốn đầu tư phát triển của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế ở trong nước và nước ngoài. Để các khu công nghiệp, làng nghề tiểu thủ công nghiệp của tỉnh không chỉ là đầu tàu kinh tế góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, mà còn có thể trở thành các khu công nghiệp, làng nghề tiểu thủ công nghiệp điển hình về thu hút vốn đầu tư phát triển ở khu vực phía Bắc. Từ thực tế cho thấy vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên đã có những dấu hiệu khả quan, tích cực, đã thu hút được số lượng lớn vốn đầu tư ở trong và ngoài nước. Song bên cạnh đó cũng còn nhiều khó khăn, tồn tại cần phải được tháo gỡ, đặc biệt là vấn đề thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp. Đây cũng chính là vấn đề đòi hỏi phải được giải quyết cả về mặt cơ sở lý luận và cả về mặt thực tiễn hiện nay. Chính vì lý do đó mà luận văn đã đi sâu vào nghiên cứu vấn đề: Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế nói chung và phát triển công nghiệp nói riêng đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. ở nước ta có một số công trình nghiên cứu khoa học đã công bố liên quan đến thu hút vốn đầu tư phát triển như:
  3. - Viện nghiên cứu tài chính: Khu vực đầu tư asean việc tham gia của Việt Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội, 1999. - Nguyễn Công Nghiệp, Lê Hải Mơ, Vũ Đình ánh: Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính phục vụ mục tiêu tăng trưởng, Nxb Tài chính, Hà nội 1998. - đỗ đức Quân: Thị trường vốn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Luận án tiến sĩ kinh tế, 2001. - Chính sách tài chính vĩ mô trong phát triển và hội nhập, Nxb Tài chính, Hà nội 2002. - Nguyễn Văn Tuấn: Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005. - Nguyễn Văn Phúc: Huy động vốn trong nước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận văn thạc sĩ kinh tế, 1996. - Nguyễn Chu Lai: Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, năm 1996. - Nguyễn Xuân Kiên: Tích tụ và tập trung vốn trong nước để phát triển công nghiệp ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, 1999. Những công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến việc thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở nước ta và một số nước trong khu vực hiện nay. Mặt khác, việc nghiên cứu của những công trình khoa học này chỉ đề cập đến một khía cạnh nào đó trong chính sách thu hút vốn đầu tư. Chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống tập trung vào vấn đề thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp nói chung và phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Phân tích và làm rõ khái niệm, các đặc trưng của vốn đầu tư, đầu tư vốn, các nguồn vốn đầu tư và vai trò của vốn đầu tư đối với nền kinh tế quốc dân. Nghiên cứu kinh nghiệm một số tỉnh trong nước và một số nước trên thế giới về thu hút vốn đầu tư phát
  4. triển công nghiệp. Thông qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nhận thức một cách có hệ thống các nội dung có liên quan đến vấn đề vốn đầu tư, thu hút vốn đầu tư phát triển nói chung và vốn đầu tư phát triển công nghiệp của tỉnh Hưng Yên nói riêng. - Đánh giá tình hình thực tế phát triển công nghiệp và thực trạng thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn vừa qua. Tìm ra những thành công, hạn chế và các nguyên nhân. - Tổng hợp những quan điểm và định hướng của Đảng và Nhà nước, của tỉnh Hưng Yên về việc phát triển công nghiệp và thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp. - Đề xuất những giải pháp chủ yếu để thu hút vốn đầu tư có hiệu quả vào lĩnh vực công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn 2006 - 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Đưa ra các điều kiện để đảm bảo thực hiện thắng lợi các giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng và những giải pháp cơ bản nhằm thu hút có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên trong quá trình thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Thời gian nghiên cứu chỉ tập trung vào giai đoạn từ năm 2001 - 2020 khi Hưng Yên thành lập các khu công nghiệp tập trung, các làng nghề tiểu thủ công nghiệp và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, của tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn 2001 - 2020. 5. Phương pháp nghiên cứu Cách nghiên cứu dựa trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng tổng hợp một số phương pháp như: phân tích, thống kê, so sánh, dựa trên cơ sở vận dụng và quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về sự hình thành và phát triển công nghiệp, về vốn đầu tư phát triển công nghiệp. Đồng thời, kế thừa các công trình nghiên
  5. cứu có liên quan đã được công bố của một số tác giả viết về cơ sở lý luận và thực tiễn hiện nay thu hút vốn đầu tư phát triển của một số địa phương trong nước và của một số nước trên thế giới. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Luận văn đã luận giải được một cách có hệ thống những vấn đề về bản chất, nội dung, vai trò quyết định của vốn đầu tư đối với sự phát triển kinh tế nói chung và phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên nói riêng. - Trên cơ sở thực tiễn, luận văn đã đánh giá tình hình thực tế phát triển công nghiệp và thực trạng thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên trong thời gian qua, làm căn cứ cho việc đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thu hút có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên trong thời gian tới. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan hoạch định chính sách và cơ quan quản lý nhà nước cấp tỉnh ở tỉnh Hưng Yên và một số tỉnh khác. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.
  6. Chương 1 Một số vấn đề cơ bản về vốn đầu tư 1.1. vai trò của vốn đầu tư phát triển công nghiệp 1.1.1. Khái niệm và những đặc trưng của vốn đầu tư Vốn là yếu tố quan trọng nhất đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước đang phát triển và đặc biệt đối với nền kinh tế n- ước ta hiện nay. Cho đến nay chưa có một định nghĩa bằng văn bản chính thức của Nhà nước về vốn. Tuy nhiên, trong nhiều sách, giáo trình của các học viện, các trường đại học thuộc khối kinh tế có rất nhiều khái niệm về vốn dưới góc độ phân loại thành vốn cố định, vốn l- ưu động và vốn đầu tư tài chính. Hiện nay, nền kinh tế nước ta đã chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, đó là môi trường thuận lợi để vốn bộc lộ bản chất và vai trò của mình. Việc tìm hiểu, nhận thức lại khái niệm và những đặc trưng cơ bản của vốn đầu tư là công việc cần thiết, trước khi đi tìm các giải pháp để thu hút vốn cho đầu tư phát triển. Vốn đầu tư là một bộ phận của nguồn lực biểu hiện dưới dạng giá trị của các tài sản quốc gia được thể hiện bằng các tài sản hữu hình và vô hình nhằm sử dụng vào mục đích đầu tư để sinh lời. Cần chú ý rằng, nguồn lực trên phải nằm trong một dự án đầu tư thì mới được gọi là nguồn vốn đầu tư. Nếu không chúng mới chỉ là nguồn lực tích lũy và dự trữ dưới dạng tiềm năng. Nói cách khác, vốn đầu tư phải là nguồn lực trong trạng thái "động". Để làm rõ khái niệm về vốn đầu tư, cần đi sâu phân tích những đặc trưng cơ bản của vốn đầu tư dưới đây: Thứ nhất, vốn phải được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản, điều này có nghĩa là vốn phải đại diện cho một lượng giá trị có thực của tài sản (tài sản hữu hình và vô
  7. hình). Tài sản hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nguyên vật liệu... Tài sản vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, tài sản vô hình rất phong phú và đa dạng như: vị trí kinh doanh, bản quyền, phát minh sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, uy tín trong kinh doanh... Như vậy một lượng tiền phát hành không vào lưu thông, không có giá trị đảm bảo hoặc các khoản nợ không có khả năng thanh toán cũng không thể được gọi là vốn. Thứ hai, vốn phải được vận động nhằm mục đích sinh lời. Vốn là tiền nhưng không phải mọi đồng tiền đều là vốn. Tiền chỉ là vốn ở dạng tiềm năng, khi nào chúng được dùng vào đầu tư kinh doanh thì chúng mới biến thành vốn. Tiền là phương tiện để trao đổi, lưu thông hàng hóa còn vốn là để sinh lời, nó luôn chu chuyển và tuần hoàn. Quá trình đầu tư là một quá trình vận động của vốn đầu tư. Cách vận động và phương thức vận động của tiền vốn lại do phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Các phương thức đầu tư có thể mô phỏng theo sơ đồ sau: - Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh: TLSX T-H ... SX... H’ - T’ SLĐ - Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực thương mại: T - H - T’ - Trường hợp đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu, góp vốn liên doanh...: T - T’ Ngoài sự phân biệt giữa vốn và tiền, cần phân biệt sự khác nhau giữa vốn và tài sản. Vốn là biểu hiện bằng tiền của một bộ phận tài sản, nhưng không phải mọi tài sản đều được gọi là vốn. Tài sản có nhiều loại: có loại do thiên nhiên ban tặng, có loại do thành quả lao động của con người sáng tạo ra; có loại là hữu hình, có loại là vô hình. Những tài sản đó nếu được
  8. giá trị hóa thành tiền và đưa vào đầu tư thì đều được gọi là vốn đầu tư. Những tài sản này được gọi là tài sản hoạt động (để phân biệt với tài sản bất động, tức là tài sản ở dạng tiềm năng). Thứ ba, vốn bao giờ cũng gắn liền với một chủ sở hữu nhất định, không có khái niệm vốn vô chủ. Chủ sở hữu vốn có thể là một chủ nh ư Nhà nước là chủ sở hữu vốn duy nhất trong các doanh nghiệp nhà nước, nhưng cũng có thể là nhiều chủ như các cổ đông là chủ sở hữu vốn trong các công ty cổ phần. Tùy theo hình thức đầu tư mà người chủ sở hữu có thể đồng nhất hoặc không đồng nhất với người sử dụng vốn. ở đâu không xác định được rõ chủ sở hữu của vốn và tài sản thì ở đó việc quản lý, sử dụng vốn sẽ kém hiệu quả, gây ra lãng phí và tiêu cực. Thứ tư, trong nền kinh tế thị trường vốn là một loại hàng hóa đặc biệt. Sở dĩ coi vốn là một loại hàng hóa, vì nó cũng có giá trị và giá trị sử dụng như mọi loại hàng hóa khác. Giá trị sử dụng của vốn là để sinh lời. Nhưng vốn là một loại hàng hóa đặc biệt khác với hàng hóa thông thường, ở chỗ người bán vốn không mất đi quyền sở hữu mà chỉ bán quyền sử dụng vốn mà thôi. Người mua nhận được quyền sử dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định và phải trả cho người bán vốn một tỷ lệ nhất định tính trên số vốn đó, gọi là lãi suất. Như vậy, lãi suất chính là giá cả của quyền sử dụng vốn. Việc mua bán quyền sử dụng vốn được diễn ra trên thị trường tài chính. Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và các công cụ tài chính nhất định, là tổng hòa các quan hệ cung và cầu về vốn. Thị trường tài chính bao gồm hai bộ phận: - Thị trường tiền tệ: là thị trường vốn ngắn hạn, nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn. Thị tr ường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại. Vì các ngân hàng thương mại là chủ thể quan trọng nhất trong việc thu hút và cung cấp các nguồn vốn ngắn hạn. - Thị trường vốn: là nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng các nguồn vốn dài hạn. Thị trường vốn cung cấp tài chính cho các khoản đầu tư dài hạn của Chính
  9. phủ, chính quyền địa phương, của các doanh nghiệp, các hộ gia đình và các cá nhân. Thị trường vốn gồm có thị trường vay nợ dài hạn và thị trường chứng khoán. Chỉ khi nào có lợi tức thỏa đáng thì người sở hữu vốn mới bán quyền sử dụng vốn của mình. Đây là một nguyên lý có tính chất nguyên tắc để thu hút, huy động vốn trong cơ chế thị trường. Thứ năm, đồng vốn có giá trị về mặt thời gian. ở các thời điểm khác nhau thì giá trị của vốn cũng khác nhau. Bởi lẽ, đồng tiền càng trải dài theo thời gian thì nó càng bị mất giá và độ an toàn càng giảm. Vì vậy, một vấn đề đặt ra là phải hiện tại hóa hoặc tương lai hóa giá trị của vốn để làm cơ sở tính toán và phân tích hiệu quả đầu tư. Thứ sáu, vốn phải được tích tụ và tập trung. Tích tụ vốn là việc tăng số vốn cá biệt của từng doanh nghiệp, từng hộ sản xuất. Tập trung vốn là làm tăng quy mô vốn đơn vị toàn xã hội. Có tích tụ vốn mới có tập trung vốn. Tập trung vốn sẽ biến những tác dụng nhỏ bé của từng khoản vốn tích tụ cá biệt thành sức mạnh của nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội. C.Mác đã khẳng định, nếu không có tích tụ và tập trung tư bản thì đến nay trên thế giới chưa có được hệ thống đường sắt. Thiếu vốn là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế Việt Nam. Để điều trị căn bệnh này không còn cách nào ưu việt hơn là phải tăng cường thu hút, huy động vốn, khơi thông các dòng chảy của vốn và hướng chúng vào đầu tư phát triển kinh tế. Đó chính là tiền đề cơ bản cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. Vốn chính là tiền đề của mọi quá trình đầu tư. 1.1.2. Đầu tư vốn Đầu tư vốn đó là số vốn được dùng vào kinh doanh trong một lĩnh vực nhất định nhằm mục đích kinh tế - xã hội. Đầu tư vốn là hoạt động chủ quan có cân nhắc của người quản lý trong việc bỏ vốn vào một mục tiêu kinh doanh với hy vọng sẽ đem lại hiệu kinh tế - xã hội cao trong tương lai. Việc bỏ vốn vào mục tiêu kinh doanh nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận thì được gọi là đầu tư vốn. Trong thực tế, giữa khả năng thu lợi nhuận cao với khả năng an toàn về vốn thường mâu thuẫn với nhau: mức lợi nhuận càng cao thì độ
  10. rủi ro về vốn càng lớn. Do đó, các nhà đầu tư trước khi đầu tư vào một dự án nào đó thường phải cân nhắc, lựa chọn hướng đầu tư và phương án đầu tư thích hợp, sao cho lợi nhuận thu được là nhiều nhất nhưng độ rủi ro về vốn là thấp nhất. Theo phạm vi đầu tư, thì đầu tư được chia ra thành đầu tư vào bên trong và đầu tư ra bên ngoài. Đứng trên phương diện đầu tư của Chính phủ đối với nền kinh tế, thì đầu tư vào bên trong là sự đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đầu tư cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư để hình thành những lĩnh vực, ngành mũi nhọn...Còn đầu tư ra bên ngoài của Chính phủ chính là đầu tư tài chính quốc tế dưới các hình thức viện trợ phát triển chính thức (ODA), tín dụng thương mại quốc tế...Nếu xét trên góc độ đầu tư của doanh nghiệp, thì đầu tư vào bên trong doanh nghiệp được chia làm hai loại: đầu tư xây dựng cơ bản và đầu tư vốn lưu động. Đầu tư xây dựng cơ bản là đầu tư vốn nhằm tạo ra tài sản cố định (tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình) của doanh nghiệp. Đầu tư vốn lưu động là việc doanh nghiệp cần dự trữ th ường xuyên về nguyên vật liệu, bán thành phẩm, công cụ dụng cụ...tương ứng với quy mô sản xuất kinh doanh để đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện liên tục. Doanh nghiệp cần phải có một số vốn lưu động nằm trong khâu sản xuất dưới dạng sản phẩm đang chế tạo, chi phí chờ phân bổ...và vốn lưu động ở khâu lưu thông như thành phẩm, vốn trong thanh toán... Ngoài ra, doanh nghiệp phải có một số vốn lưu động bằng tiền mặt, tiền gửi ngân hàng. Còn đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp là góp vốn liên doanh với doanh nghiệp khác, mua cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp khác hoặc của Nhà n ước. Trong nền kinh tế thị trường, để bảo toàn và phát triển vốn phòng ngừa rủi ro, các doanh nghiệp th ường dành một tỷ lệ vốn đầu tư nhất định để đầu tư tài chính ra bên ngoài doanh nghiệp. Nghiên cứu vấn đề này giúp ta thấy rõ sự khác nhau cơ bản của hai khái niệm vốn đầu tư và đầu tư vốn, để từ đó chọn lựa được phương án đầu tư vốn đạt hiệu quả nhất. 1.1.3. Các nguồn vốn đầu tư Nguồn vốn đầu tư phát triển của xã hội được hình thành trên cơ sở động viên các nguồn lực trong nước và ngoài nước, thông qua các công cụ chính sách, cơ chế, luật pháp. Nguồn vốn trong nước bao gồm: nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng
  11. (tín dụng nhà nước và tín dụng ngân hàng), các nguồn vốn khác (vốn đầu tư của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư). Nguồn vốn ngoài nước gồm có: đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn vay, viện trợ và các nguồn vốn khác. 1.1.3.1. Nguồn vốn trong nước * Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước được đặc trưng bằng sự vận động của các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định. Nó phản ánh các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội, phát sinh khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. Nguồn vốn ngân sách nhà nước được hình thành từ tiết kiệm của ngân sách nhà nước, đó là khoản chênh lệch giữa thu và chi của ngân sách nhà nước. Thu của ngân sách nhà nước được thực hiện chủ yếu là từ thuế và một phần nhỏ là các khoản thu từ phí, lệ phí và thu khác... Chi của ngân sách nhà nước bao gồm: chi cho đầu tư phát triển và chi thường xuyên cho quản lý hành chính, an ninh quốc phòng, sự nghiệp văn hóa, y tế, giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học, thể dục thể thao và xã hội, chi các sự nghiệp kinh tế...Xu hướng chi tiêu công cộng của Nhà nước có chiều hướng ngày càng tăng lên, vì Nhà nước ngày càng phải đảm nhận việc cung cấp nhiều hàng hóa công cộng hơn cho xã hội. Một quan hệ thường thấy trong cân đối ngân sách quốc gia là có bội thu hoặc bội chi. Nếu bội thu ngân sách thì điều hiển nhiên là Nhà nước có nguồn tiết kiệm để hình thành nên vốn đầu tư phát triển. Nhưng một vấn đề cần lưu ý là có thể trong trường hợp bội chi ngân sách thì ngân sách nhà nước vẫn tiết kiệm một phần để dành cho đầu tư phát triển, vì trong các khoản chi của Nhà nước có khoản chi cho đầu tư phát triển. Điều này có nghĩa là muốn có tiết kiệm từ ngân sách nhà nước thì tốc độ tăng chi đầu tư phát triển phải luôn lớn hơn tốc độ tăng chi thường xuyên. Vấn đề không phải là bội chi ít hay nhiều mà phương pháp xử lý chính là định hướng đầu tư. Nhưng một thực tế là hầu hết các nước đang phát triển, tiết kiệm của Chính phủ không phải là nguồn đầu tư chủ yếu, vì thường ngân sách của các nước này nguồn thu
  12. rất hạn chế, mà nhu cầu chi tiêu thường xuyên lại cao, nên Nhà nước chỉ có thể tập trung vốn đầu tư phát triển ở những lĩnh vực thật sự thấy cần thiết. Muốn tăng nguồn tích lũy của ngân sách nhà nước phải phấn đấu tăng thu và tiết kiệm chi. Vốn đầu tư phát triển qua kênh ngân sách nhà nước, được thể hiện qua hai phần: một phần vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước, một phần từ nguồn kinh phí sự nghiệp kinh tế hàng năm. * Nguồn vốn tín dụng nhà nước: Là hình thức vay nợ của Nhà nước thông qua kho bạc, được thực hiện chủ yếu bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ, do Bộ Tài chính phát hành. Trong trường hợp nhu cầu chi tiêu của ngân sách lớn, nhưng nguồn thu lại không thể đáp ứng được. Để thỏa mãn nhu cầu này, Chính phủ thường cân đối ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ. Cũng có thể Chính phủ tiến hành một dự án nào đó, nhưng không muốn sử dụng vốn ngân sách, thì dự án này có thể được thực hiện bằng vốn vay dưới hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ. ở nước ta hiện nay, trái phiếu Chính phủ có các hình thức sau đây: - Tín phiếu kho bạc: là loại trái phiếu ngắn hạn dưới một năm, được phát hành với mục đích để bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước và tạo thêm công cụ của thị trường tiền tệ. - Trái phiếu kho bạc: là loại trái phiếu có thời hạn một năm trở lên, được phát hành nhằm mục đích huy động vốn theo kế hoạch ngân sách nhà nước hàng năm đã được Quốc hội phê duyệt. - Trái phiếu đầu tư: là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn một năm trở lên, bao gồm các loại sau: + Trái phiếu huy động vốn cho từng công trình cụ thể thuộc diện ngân sách đầu tư, theo kế hoạch đầu tư đã được Chính phủ phê duyệt nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm kế hoạch.
  13. + Trái phiếu huy động vốn cho Quỹ hỗ trợ phát triển theo kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển hàng năm được Chính phủ phê duyệt. Đối với vốn đầu tư phát triển, hình thức tín dụng nhà nước có thể tác động lên hai mặt: Chính phủ vay ngắn hạn tạo điều kiện cân đối ngân sách đảm bảo kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế và phát hành trái phiếu để đầu tư cho một số dự án nào đó. Hình thức tín dụng nhà nước tuy lãi suất chưa cao, nhưng có sự đảm bảo của Nhà nước nên rất dễ huy động vốn. Nếu vận dụng tốt sẽ tạo ra nguồn vốn đầu tư phát triển quan trọng. * Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước: Hiện nay, ở các quốc gia đều tồn tại khu vực kinh tế nhà nước (doanh nghiệp nhà nước) vì nhiều lý do khác nhau: bảo đảm những ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn, kinh doanh ở những lĩnh vực mà tư nhân không đủ sức, đủ vốn hoặc không muốn làm vì hiệu quả kinh tế thấp, nhất là ở những lĩnh vực như giao thông, thủy lợi, năng lượng, dịch vụ công cộng... Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước được hình thành từ rất nhiều nguồn khác nhau: là nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp cho các doanh nghiệp nhà nước lúc mới hình thành doanh nghiệp, tuy nhiên nguồn vốn này sẽ có xu hướng giảm đáng kể cả về tỷ trọng và số lượng; nguồn vốn huy động thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu (đối với các doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hóa); tiền khấu hao cơ bản của tài sản cố định, lợi nhuận tích lũy được phép để lại doanh nghiệp... * Nguồn vốn tín dụng ngân hàng: Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian khác như công ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, công ty bảo hiểm...có vai trò rất quan trọng trong việc huy động vốn đầu tư phát triển. Các tổ chức này có ưu điểm là có thể thỏa mãn được mọi nhu cầu về vốn của các pháp nhân và thể nhân trong nền kinh tế, nếu những đối tượng vay vốn chấp hành đầy đủ những quy chế tín dụng. Sở dĩ các tổ chức này có thể thu hút, huy động nguồn vốn bằng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế với khối l ượng lớn, bởi vì các tổ chức này
  14. đã sử dụng dưới nhiều hình thức huy động khác nhau rất phong phú và đa dạng. Mặt khác, thời hạn cho vay cũng rất linh hoạt (bao gồm vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn), tùy thuộc vào nhu cầu của người đi vay. Do nguồn vốn của các tổ chức này huy động được có thời gian nhàn rỗi cũng rất khác nhau (tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn) và là nguồn vốn bằng tiền nên có thể điều chỉnh giữa các nguồn vốn với nhau để đáp ứng nhu cầu về thời gian của người đi vay. Phạm vi cho vay cũng rất rộng, liên quan đến các chủ thể và các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Bởi vậy, trong lĩnh vực đầu tư phát triển thì vấn đề huy động vốn qua tín dụng ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian là hình thức không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. * Nguồn vốn đầu tư của khu vực dân doanh: Nguồn vốn đầu tư của khu vực dân doanh được hình thức từ nguồn tiết kiệm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tiết kiệm của dân cư. - Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân...): lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp này sẽ được chia làm hai phần: một phần chia cho các cổ đông và một phần để lại cho doanh nghiệp. Khoản lợi nhuận không chia này là khoản tiết kiệm của các doanh nghiệp để hình thành nên nguồn vốn đầu tư. Bên cạnh đó, để tiến hành đầu tư các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng thêm cả phần vốn khấu hao tài sản cố định. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng có thể vay tín dụng ngân hàng hoặc phát hành cổ phiếu đối với công ty cổ phần và phát hành trái phiếu để thu hút vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, vay lẫn nhau giữa các doanh nghiệp có vốn tạm thời nhàn rỗi, vay thông qua mua hàng trả chậm và vay thương mại (thường được các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu áp dụng). Theo xu hướng phát triển hiện nay, nguồn vốn này có chiều hướng gia tăng vì ngày càng có nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời, dưới nhiều hình thức, quy mô, lĩnh vực hoạt động khác nhau và phát triển với tốc độ tương đối nhanh.
  15. Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường được đầu tư với quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ, thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng doanh nghiệp, nhưng lại rất linh hoạt và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đã có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. - Tiết kiệm của dân cư: phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của mỗi hộ gia đình. Thu nhập của các hộ gia đình lại phụ thuộc vào thu nhập có thể sử dụng như tiền lương, tiền công, thu nhập từ sản xuất kinh doanh...và các khoản thu nhập khác (vay, mượn...). Một khi thu nhập nhỏ hơn mức chi tiêu sẽ không có tiết kiệm, các hộ gia đình phải vay mượn thêm để chi tiêu. Khi thu nhập có thể sử dụng vừa bằng mức chi tiêu thì tiết kiệm bằng không. Nếu thu nhập lớn hơn mức chi tiêu thì mới có tiết kiệm. Một xu hướng chung là các hộ gia đình có mức thu nhập cao hơn sẽ tiết kiệm nhiều hơn (mức tiết kiệm ở thành thị lớn hơn ở nông thôn) và những nước phát triển cũng có tỷ lệ tiết kiệm cao hơn những nước kém phát triển. Đối với nước ta hiện nay, do thu nhập của dân cư ở mức thấp, đặc biệt ở nông thôn tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao, nên mức tiết kiệm trong dân cư rất thấp, đây là vấn đề khó khăn trong việc thu hút và huy động vốn đầu tư. Tuy nhiên, theo đà phát triển của đất nước, thu nhập của dân cư ngày càng tăng, thì nguồn vốn này sẽ có xu hướng tăng lên. Một vấn đề cần quan tâm trong việc nghiên cứu nguồn vốn tiết kiệm là sự tách rời giữa những động cơ đưa đến tiết kiệm và đầu tư. Trong nền kinh tế mức tiết kiệm và mức đầu tư mà ta mong muốn không phải ngẫu nhiên bằng nhau, bởi vì nói chung tiết kiệm và đầu tư do những người khác nhau thực hiện và vì những lý do rất khác nhau: đầu tư chủ yếu do các doanh nghiệp tiến hành bằng nguồn vốn tích lũy, bằng nguồn vốn vay ngân hàng, phát hành cổ phiếu, trái phiếu...Ngược lại, tiết kiệm chủ yếu do các hộ gia đình, các cá nhân, các quỹ tập thể (hưu trí, bảo hiểm). Cá nhân mong muốn tiết kiệm vì nhiều lý do: đề phòng khó khăn, dự phòng tài chính cho tương lai, lãi suất cao thúc đẩy tiết kiệm hoặc do thói quen, tập quán của địa phương...Trong khi đó thị trường không phối hợp được nhanh chóng giữa tiết kiệm và đầu tư: nó không tự động chuyển những thay đổi trong
  16. khoản tiết kiệm mong muốn của người tiêu thụ thành những thay đổi trong đầu tư của người kinh doanh. Tức là, khoản tiết kiệm chỉ được đưa ra đầu tư khi người đầu tư thấy có lợi. Khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư đòi hỏi Nhà nước phải có vai trò điều tiết vĩ mô thích hợp mới có thể có một chính sách huy động vốn có hiệu quả. Cho đến nay, hầu hết các nhà kinh tế và hoạch định chính sách đều nhận thấy rằng có tiết kiệm mới có đầu tư. Để tăng nguồn vốn trong nước thì phải kích thích tăng trưởng kinh tế để tăng tiết kiệm và đầu tư. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để có vốn đầu tư. Điều này rất quan trọng vì nếu toàn bộ số thu nhập đều sử dụng cho tiêu dùng thì sẽ không có nguồn tiết kiệm. Song có tiết kiệm mà không bỏ vào đầu tư lại đem cất trữ thì nguồn tiết kiệm chỉ là nguồn tiềm năng, nguồn vốn "chết" mà thôi. Đối với những nước đang phát triển như nước ta, dù có huy động tối đa nguồn vốn trong nước cũng chưa thể thỏa mãn nhu cầu cho đầu tư phát triển, nhất là trong điều kiện hạ tầng kinh tế - xã hội còn thấp như hiện nay. Muốn nền kinh tế nước ta có những bước đi vững chắc thì phải có sự đầu tư lớn. Theo tính toán của các chuyên gia tài chính, tổng đầu tư toàn xã hội trong 10 năm (từ năm 2001 đến năm 2010) sẽ cần khoảng 162 tỷ đô la Mỹ (giá hiện hành), trong khi đó mức tiết kiệm trong nước sẽ đạt được khoảng 112 tỷ đô la Mỹ, chiếm tỷ trọng 69% so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội [3, tr. 35]. Để tăng cường hoạt động đầu tư, góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển thì điều quan trọng hàng đầu là phải thực hiện chính sách nền kinh tế mở, trên cơ sở cân nhắc các điều kiện và khả năng có liên quan đến mối quan hệ kinh tế đối ngoại, phải có sự hòa nhập về không gian kinh tế, xóa bỏ hàng rào địa lý. Có như vậy mới thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế và các yêu cầu về đầu tư phát triển. Không ngừng đẩy mạnh khả năng tăng nhanh việc tạo vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tranh thủ triệt để các nguồn vốn từ ngoài nước, đồng thời phát triển mạnh mẽ thị trường vốn nhằm thực hiện tốt quá trình giao l ưu vốn giữa các thành phần kinh tế.
  17. Với tình hình thực tế ở nước ta cho thấy, việc khai thác các nguồn vốn trong nước có thể nhiều khi còn gặp khó khăn, thì nguồn vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọng và hết sức cần thiết. 1.1.3.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài Trong giai đoạn đầu của các nước đang phát triển mức thu nhập còn thấp nên khả năng tiêu dùng cũng như khả năng tích lũy ở mức thấp. Trong khi đó lại cần khoản vốn đầu tư lớn để hoàn chỉnh kết cấu cơ sở hạ tầng và xây dựng các công trình quan trọng nhằm phát triển kinh tế. Mặt khác, ở giai đoạn này hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản và công nghiệp tiêu dùng có giá trị chưa cao. Trong khi đó hàng hóa nhập khẩu là những máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ hiện đại có giá trị cao, nên cán cân thanh toán thường bị thâm hụt. Các nước đang phát triển luôn phải đối mặt với một vấn đề thiếu hụt ngoại tệ. Đầu tư nước ngoài góp phần tích cực để giải quyết hai vấn đề nan giải nêu trên, đồng thời với xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa đời sống kinh tế - xã hội, quan hệ giao lưu kinh tế và khoa học kỹ thuật phát triển sôi động đã trở thành nhu cầu bức xúc của tất cả các nước trên thế giới. Mỗi nước dù nhỏ hay lớn đều có thể và cần phải tham gia vào phân công lao động trong khu vực và quốc tế để tận dụng những khả năng to lớn của nền kinh tế thế giới về di chuyển các luồng tài chính, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý...từ đó xuất hiện nhu cầu đầu tư và nhu cầu nhận đầu tư. ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này để phát triển kinh tế, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là hết sức quan trọng và cần thiết. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay gồm các nguồn chủ yếu sau: * Viện trợ phát triển chính thức (ODA): Là nguồn vốn do Chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với lãi suất thấp, thậm chí không có lãi. Nguồn này th ường được tập trung vào ngân sách của Chính phủ để đầu tư phát triển hoặc cho vay. Hình thức
  18. viện trợ phát triển chính thức ngoài vốn ngoại tệ, th ường được đầu tư dưới dạng máy móc, thiết bị, công nghệ, công trình hoặc chuyên gia. Đây là nguồn vốn có quy mô tương đối lớn, thời gian đầu tư dài thường tập trung vào các công trình cơ sở hạ tầng mang tầm chiến lược quốc gia như: đường quốc lộ, cảng biển, đường dây tải điện cao thế, thủy điện, các hồ đập, thủy lợi lớn...có ý nghĩa then chốt và chủ đạo đối với việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo ra động lực phát triển kinh tế của đất nước. * Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI): Là những khoản đầu tư do những tổ chức và cá nhân người nước ngoài đưa vào một nước để sản xuất kinh doanh hoặc để góp vốn liên doanh với các tổ chức, cá nhân trong nước theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại nước đó. Đây là nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng, vì một mặt cũng giống như nguồn vốn ODA, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài tạo điều kiện cho nước sở tại có thể thu hút được kỹ thuật và công nghệ tiến tiến, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài. Mặt khác, FDI gắn trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn với bản thân phía nước ngoài, về phía chủ nhà không làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài. Việc áp dụng hình thức đầu tư này vào lĩnh vực phát triển công nghiệp có nhiều thuận lợi hơn do công nghệ tiên tiến, máy móc thiết bị hiện đại, hiệu quả đầu tư cao. Tùy theo từng nước mà có những hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài khác nhau. ở Việt Nam, theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì có các hình thức đầu tư trực tiếp của nước ngoài sau đây: - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp do chủ nước ngoài đầu tư 100% vốn tại nước sở tại, có quyền điều hành toàn bộ doanh nghiệp theo quy định của pháp luật nước sở tại. - Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư nước ngoài góp vốn chung với các chủ doanh nghiệp ở nước sở tại trên cơ sở hình thành hợp đồng liên doanh. Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào vốn điều lệ của doanh nghiệp.
  19. Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, phần vốn góp pháp định của bên nước ngoài không hạn chế về mức cao nhất như một số nước khác, nhưng không được ít hơn 30% vốn pháp định. Hình thức liên doanh có nhiều ưu điểm, nhưng do điều kiện phía Việt Nam có hạn chế về tiền vốn nên chủ yếu góp vốn bằng quyền sử dụng đất, giá cả của đất đai ngày càng tăng, giá trị góp vốn không được tính theo giá trị thời gian. Bên nước ngoài góp vốn bằng vật tư, máy móc thiết bị thường bị lạc hậu về công nghệ, giá cả không chính xác, bị đẩy lên quá cao, kinh nghiệm quản lý kinh doanh chưa tốt...nên chưa phát huy tác dụng tích cực của hình thức này. - Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh: đây là một văn bản được ký kết giữa một chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong nước, để tiến hành một hay nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà, trên cơ sở quy định về trách nhiệm để thực hiện hợp đồng và xác định quyền lợi của mỗi bên, nhưng không hình thành một pháp nhân mới. - Các hình thức khác: ngoài các hình thức nêu trên, ở các nước và ở Việt Nam còn có các hình thức khác như: Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) nhằm khuyến khích thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tính đến ngày 31/12/2005 Việt Nam đã thu hút 6.030 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký trên 51 tỷ đô la Mỹ. Vốn đầu tư thực hiện được gần 28 tỷ đô la Mỹ, chiếm bằng 55% tổng số vốn đăng ký [4, tr. 7]. Biểu 1.1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư từ năm 1988 - 2005 (Tính đến ngày 31/12/2005 - Chỉ tính các dự án còn hiệu lực) Đơn vị tính: Triệu đô la Mỹ Tổng vốn Vốn pháp Vốn đầu Hình thức đầu tư Số dự án đầu tư định tư thực
  20. hiện 100% vốn nước ngoài 4.504 26.041,42 11.121,22 9.884,07 Liên doanh 1.327 19.180,91 7.425,93 11.145,96 Hợp đồng hợp tác kinh 184 4.170,61 3.588,81 6.053,09 doanh BOT 6 1.370,13 411,39 727,03 Công ty cổ phần 8 199,31 82,07 170,18 Công ty quản lý vốn 1 55,56 55,56 6,00 Tổng số 6.030 51.017,94 22.684,98 27.986,33 Nguồn: [4]. Hoạt động thu hút FDI tại Việt Nam thời gian qua đã đóng góp tích cực vào việc thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. FDI là nguồn vốn rất quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát triển, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, là một trong những điều kiện quyết định đến sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, trong hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam vẫn còn những hạn chế. Một số chính sách, đặc biệt là chính sách ưu đãi đầu tư chưa được xác định rõ ràng, các biện pháp khuyến khích đầu tư hiện hành chưa đủ sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư để họ quan tâm đến các lĩnh vực mà nước ta cần đẩy mạnh. Một số văn bản hướng dẫn thi hành luật ban hành chậm và chưa đầy đủ, tình trạng tùy tiện trong thi hành luật, tình trạng địa phương hóa chính sách ưu đãi đầu tư vẫn chưa được khắc phục. Hệ thống thuế còn phức tạp, chồng chéo có nhiều điểm bất hợp lý hay thay đổi gây khó khăn cho việc thực hiện dự án hoặc tạo kẽ hở làm thiệt hại cho Nhà nước. * Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO):
nguon tai.lieu . vn