Xem mẫu

LUẬN VĂN: Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay Lời nói đầu “Tư tưởng chủ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN”. Đó chính là lời khẳng định của Đảng tại Đại Hội VI (1986) về việc đổi mới cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Từ sau Đại Hội VI đến nay nước ta phát triển nền kinh tế hị trường (KTTT) được 16 năm và đã đạt được nhiều thành tựu, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế hàng năm khá cao, năm 1990: 5.1%; 1991: 5.9%;1999: 4.8%; 2000: 6.8% và rất cao vào những năm 1994: 8.84%; 1995: 9.54%; 1996: 9.34%. Các thành tựu của nền kinh tế còn được đánh giá qua sự phát triển toàn diện của xã hội: Việt Nam được coi là đất nước hòa bình và ổn định về chính trị, xã hội; Hà Nội được bầu là thành phố hòa bình, nhiều hội nghị quốc tế quan trọng đã được tổ chức ở Việt Nam,… tất cả điều đó nói lên sự tin tưởng của bạn bè thế giới đối với đất nước ta. Tuy nhiên nền kinh tế cũng phải đối mặt với những vấn đề nóng bỏng như lạm phát, thất nghiệp, cạnh tranh không lành mạnh, v.v….Nhà nước ta chủ trương phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN đây là một khó khăn rất lớn bởi nền kinh tế chúng ta mới là “ định hướng XHCN, đang trong thời kì quá độ còn quá non trẻ, do đó việc giải quyết các mâu thuẫn thị trường rất khó khăn. Đâu sẽ là giải pháp cho nền kinh tế nước ta? Lúc này chúng ta mới nhắc đến vai trò của Nhà nước như là nhân tố trung tâm trong việc duy trì ổn định của KTTT thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô. Trong nền KTTT chúng ta phải làm gì để Nhà nước thực hiện tốt vai trò của mình? Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay” làm đề tài của mình. I. Lý luận chung về vai trò kinh tế của Nhà nước. 1. Sự cần thiết khách quan về vai trò kinh tế của Nhà nước nói chung. 1.1. Lịch sử ra đời vai trò kinh tế của Nhà nước qua các thời đại lịch sử: Nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị được sử dụng để duy trì trật tự xã hội sao cho phù hợp với lợi ích của chính giai cấp thống trị. Trong lịch sử từ khi xuất hiện kiểu Nhà nước đầu tiên đến nay không có Nhà nước nào hoàn toàn tách rời các quá trình kinh tế bởi Nhà nước nào cũng dựa trên cơ sở kinh tế nhất định. Thật ra lịch sử đã chứng minh chức năng kinh tế của Nhà nước được phôi thai ngay từ buổi ban đầu, khi Nhà nước chỉ vừa xuất hiện. ở các thời kì khác nhau, ở các chế độ khác nhau, do tính chất Nhà nước khác nhau nên vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước có biểu hiện khác nhau. Trong thời đại chiếm hữu nô lệ. Nhà nước chủ nô đã trực tiếp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải được sản xuất ra. Trong thời đại của Nhà nước chủ nô, của cải được sản xuất ra bởi những người nô lệ dưới sự chỉ huy điều khiển quá trình sản xuất của giai cấp chủ nô, nhưng khối lượng của cải ấy không được phân phối mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực, các thủ đoạn bạo lực phi kinh tế ở đây được sử dụng làm công cụ chiếm đoạt, cưỡng bức kinh tế. Trong thời đại phong kiến Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào việc phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại đi mở mang các vùng đất mới để ra các chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kì. Nhìn chung các hoạt động này diễn ra một cách tự phát. Tuy nhiên chức năng quản lý kinh tế được các Nhà nước phong kiến phương Đông nhận thức sớm hơn so với các Nhà nước phong kiến phương Tây. Phương thức sản xuất phong kiến tan rã, chủ nghĩa tư bản (CNTB) ra đời, tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản xuất hiện trong giai đoạn này là chủ nghĩa trọng thương. Tư tưởng xuất phát của chủ nghĩa trọng thương cho rằng: Tiền là nội dung căn bản của của cải, là tài sản thật sự của một quốc gia. Do đó mục tiêu chủ yếu của các chính sách kinh tế của mỗi nước là tăng gia khối lượng tiền tệ và Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động ngoại thương để ngày càng tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Chủ nghĩa trọng thương đã trở thành lỗi thời và bắt đầu tan rã ngay từ đầu thế kỉ XVII, trước hết là ở Anh. Những sự kiện kinh tế - xã hội, khoa học ở cuối thế kỉ XVII như cách mạng tư sản Anh đã chứng tỏ thời kì tích lũy ban đầu của chủ nghĩa tư bản đã kết thúc và thời kì sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN) bắt đầu. Tính chất phiến diện của học thuyết trọng thương trở nên quá rõ ràng đòi hỏi phải có lý luận mới để đáp ứng với sự vận động và phát triển của sản xuất TBCN. Trên cơ sở đó, chính trị kinh tế học cổ điển Anh ra đời, tiêu biểu cho trường phái này là nhà kinh tế chính trị cổ diển Anh Adamsmith (1723 - 1790) với thuyết “ bàn tay vô hình” và nguyên lý “ Nhà nước không can thiệp” vào hoạt động của nền kinh tế. Tuy nhiên đầu những năm 30 của thế kỉ XX, khủng hoảng kinh tế rổ ra thường xuyên, đặc biệt là khủng hoảng 1929 – 1933 đã chứng tỏ rằng “ bàn tay vô hình” không thể đảm bảo điều kiện ổn định cho kinh tế thị trường phát triển. Từ đó nhiều trường phái kinh tế chính trị tư sản lần lượt xuất hiện, tiêu biểu là các trường phái kinh tế chính trị mới, trường phái Keynes, chủ nghĩa tự do mới v.v… trong đó tiêu biểu là trường phái keynes – John Menard Keynes (1884 - 1946) đã đưa ra thuyết “ Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường” hay còn gọi là “ Bàn tay hữu hình”. Theo thuyết này để hạn chế khủng hoảng thất nghiệp, đảm bảo cho sự cân bằng kinh tế thì phải có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Song những chấn động lớn vẫn diễn ra và ngày càng trầm trọng. Điều này làm tăng làn sóng phê phán lý thuyết của Keynes và làm xuất hiện tư tưởng phối hợp “bàn tay vô hình” với Nhà nước để điều chỉnh nền KTTT. Nổi bật là quan điểm “kinh tế hỗn hợp” của Paul Samuelson (1915), một nhà kinh tế người Mỹ. Theo đó, cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng, trong khi đó chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế và luật lệ, cả chính phủ và thị trường đều có vai trò quan trọng thiết yếu. Chính vì vậy vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ngày càng được xác lập và nâng cao. Qua những điều trên ta nhận thấy rằng cho dù có nhiều thuyết khác nhau nhưng không ai phủ nhận được vai trò kinh tế của Nhà nước trong việc ổn định và phát triển nền KTTT. 1.2. Tính tất yếu khách quan trong việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện những mục đích của giai cấp thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị đó trong xã hội. Tuy nhiên Nhà nước còn là lực lượng quản lý toàn bộ xã hội, đảm bảo cho toàn xã hội phát triển. Nhà nước có vai trò về kinh tế, chính trị, đời sống xã hội; và vai trò kinh tế là một trong những vai trò quan trọng của Nhà nước. Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật hiện đại, nhiều loại công cụ lao động tiên tiến đã được sử dụng trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp,… đã ngày càng tạo ra được khối lượng sản phẩm lớn. Trên thị trường xuất hiện nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất một loại sản phẩm vì thế đã xuất hiện sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Vì vậy cần sự điều tiết của xã hội đối với sản xuất nhằm hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh Mặc dù nền KTTT có những ưu điểm to lớn không thể phủ nhận được nhưng nó cũng nảy sinh nhiều nhược điểm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống xã hội:  Sản xuất mù quáng gây ra khủng hoảng (thừa, thiếu): Các nhà sản xuất vì mục tiêu lợi nhuận đã sản xuất ra khối lượng sản phẩm lớn, vượt quá nhu cầu của thị trường; trong khi đó khả năng mua sắm của dân cư có hạn, dần dần dẫn đến sự khủng hoảng trên thị trường hàng hóa – dịch vụ.  Các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hoạt động không thể tránh khỏi sự cạnh tranh không lành mạnh, đã làm phá sản nhiều doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể dùng nhiều thủ đoạn, thế lực để gây khó khăn cho nhau nhằm hạn chế nhau. Các doanh nghiệp phá sản sẽ dẫn theo tỷ lệ thất nghiệp tăng nhanh, khiến cho đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn, tệ nạn xã hội phát triển nhanh.  Cũng vì mục tiêu lợi nhuận nên một số ngành phát triển được nhiều doanh nghiệp trú trọng đầu tư. Các ngành có lợi nhuận thấp hơn rất ít được trú trọng đầu tư. Chính hiện tượng này đã dẫn đến việc đầu tư không cân đối giữa các ngành, nền kinh tế ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn