Xem mẫu
- Đề án kinh tế chính trị
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế - một nhiệm vụ trọng tâm của nước ta
hiện nay"
- Đề án kinh tế chính trị
A. MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá là một xu thế phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại.
Hiện nay, toàn cầu hoá tạm thời do các nước tư bản phát triển, đang phát
triển và chuyển đổi nền kinh tế thì hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo ra rất
nhiều cơ hội thuận lợi trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia và tất nhiên cũng đặt ra không ít thách thức.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới chuyển sang phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy việc đẩy mạnh tham
gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới là một nội dung khía cạnh
quan trọng.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, em đã lựa chọn đề tài
"Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế - một nhiệm vụ trọng tâm của nước
ta hiện nay". Nhân đây, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Mai H ữu
Thực đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành đề án này.
- Đề án kinh tế chính trị
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG.................................................................................................................. 2
I. Một số vấn đề lí luận về toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế ... 2
1. Khái niệm về toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ......... 2
1.1. Khái niệm toàn cầu hoá ........................................................................... 2
1.2. Khái niệm khu vực hoá ................................................................ ............ 3
1.3. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế ..................................................... 4
2. Các nhân tố thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế ................................... 5
2.1. Sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất................................ 6
2.2. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế toàn cầu ................................ ............ 7
2.3. Sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu trong bối cảnh thế giới kết thúc
chiến tranh lạnh bước vào thời kỳ hoà bình hợp tác và phát triển .................. 8
2.4. Sự bành trướng của công ty xuyên quốc gia ................................ ............ 9
2.5. Sự hình thành và phát triển của các định chế toàn cầu và khu vự .......... 10
2.6. Vai trò của chính phủ và sự chuyển đổi trong chính sách phát triển ..... 10
3. Triển vọng phát triển toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ................ 11
3.1. Toàn cầu hoá không còn là âm mưu của các nước tư bản phát triển
nhằm thôn tính thế giới................................................................................. 11
3.2. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế ngày càng gia tăng ........................... 13
II. Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ................................. 13
1. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam .................................... 13
2. Những thành tựu của quá trình hội nhập kinh tế và hạn chế cần khắc phục
2.1. Những thành tựu của h ơn một thập kỉ hội nhập kinh tế quốc tế ............. 15
2.2. Những hạn chế cần khắc phục trong quá trình hội nhập........................ 17
III. Chủ trương, nguyên tắc và các giải pháp cần thực hiện trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam ........................................................... 19
1. Chủ trương và nguyên tắc chỉ đạo ............................................................ 19
2. Nhiệm vụ và biện pháp cần thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế ................................................................................................ .......... 21
C. KẾT LUẬN ................................ ................................ ................................ ............... 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................ ................................ ............................. 26
- Đề án kinh tế chính trị
B NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TOÀN CẤU HOÁ KINH TẾ VÀ HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Khái niệm
1.1. Khái niệm về toàn cầu hoá.
Trong hơn một thập kỷ trở lại đây xu thế toàn cầu hoá gia tăng ngày
càng mạnh mẽ.Và cùng với điều đó là những cách lý giải và thái độ không
giống nhauđối với xu thế này.
Có quan điểm cho rằng toàn cầu hoá chỉ mới xuất hiện gần đây. Toàn
cầu hoá được hiểu làchính sách của Mĩ nhằm bành trướng quyền lực,thống
trị thế giới theo kiểu Mĩ,thưc chất toàn cầu hoá là Mĩ hoá.Quan niệm này đã
đẩy tới thái độ phải chống lại quá trình này nhằm đảm bảo cho sự phát triển
độc lập,đa dạng của các quốc gia.
Loại quan điểm thứ hai là quan điểm thừa nhận tính tất yếu khách
quan của quốc tế hoá,toàn cầu hoá.Nhưng trong quan điểm này cũng có
nhiều ý kiến khác nhau:Có người cho rằngtoàn cầu hoá xét về bản chất là
quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ sự ảnh hưởng, tác động lẫn
nhau phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia các dân tộc
trên toàn thế giới ;có người lại cho rằng : “Toàn cầu hoá là giai đoạn cao của
quá trình phát triển của lực lượng sản xuất trên thế giới,là kết quả tất yếu của
phát triển kinh tế thị trường và khoa học công nghệ”
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về toàn cầu hoá nhưng điểm
quan trọng mà ta nhận thấy là toàn cầu hoá không chỉ là quá trình phản ánh
sự gia tăng của các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau mà nét quan trọng hơn
là phản ánh qui mô của các hoạt động liên quốc gia.Từ đó ta có thể đưa ra
môt khái niệm mang tính chất khái quát về toàn cầu hoá: “Toàn cầu hoá là
sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan hệ gắn kết,tác động phụ thuộc lẫn
- Đề án kinh tế chính trị
nhau,là quá trình mở rộng qui mô và cường độ hoạt động giữa các khu
vực,các quốc gia các dân tộc trên phạm vi toàn cầu trong sự vận động phát
triển”
Với quan niệm như vậy thế giới hoá cũng có nghĩa là toàn cầu hoá và
quốc tế hoá được xem như giai đoạn trước đó của toàn cầu hoá. Quốc tế
hoá,toàn cầu hoá là một quá trình,và vì vậy nó khác với các vấn đề toàn cầu.
Tham gia vào quá trình quốc tế hoá,toàn cầu hoá chính là thực hiện hội nhập
quốc tế.
Toàn cầu hoá là một xu hướng bao gồm nhiều phương diện: kinh tế,
chính trị,văn hoá,xã hội v.v...Trong các mặt đó thì toàn cầu hoá kinh tế đang
là xu thế nổi trội nhất,nó vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng là động lực
thúc đẩy các lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu hoá nói chung.Giống như
khái niệm toàn cầu hoá thì cũng có nhiều quan điểm khác nhau về toàn cầu
hoá kinh tế.Sau đây là khái niệm phổ biến nhất: “Toàn cầu hoá kinh tế
chínhlà sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vựt qua mọi biên giới
quốc gia,khu vực,tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự
vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất.sự gia
tăng c ủa xu thế nàyđược thể hiện ở sự mở rộng mức độ và qui mô mậu dịch
thế giới,sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu.”
1.2 Khái niệm khu vực hoá.
Cùng với toàn cầu hoá và bổ sung cho toàn cầu hoá là xu thế khu vực
hoá. Xu thế khu vưc hoá vừa là sự thể hiện vừa là s ự phản ứng đối với xu
thế toàn cầu hoá.Trong quan hệ với toàn cầu hoá thì xu thế khu vực hoá
được xem là bước chuẩn bị để tiến tới toàn cầu hoá,mặt khác khu vực hoá
hiện nay phản ánh một thực trạng co cụm nhằm bảo vệ những lợi ích tương
đồng giữa một vài quốc gia trước những nguy cơ,những tác động tiêu cực do
toàn cầu hoá đăt ra.
Khu vực hoá phản ánh sự khác biệt,mâu thuẫn về lợi ích giữa các
quốc gia khu vực trong một thế giới đa dạng,trong đó sự hợp tác liên kết
- Đề án kinh tế chính trị
quốc tế ngày càng tăng lên nhưng cuộc đấu tranh vì lợi ích quốc gia,dân
tộc,khu vực cũng rất gay gắt quyết liệt.
Khu vực hoá có nhiều mức độ khác nhau tư một vài nước và một vài
vùng lãnh thổ đến nhiều nước tham gia vào một tổ chức nhằm hỗ trợ cho
nhau trong phát triển, tận dụng nhưng ưu thế của khu vực trong quá trình
tham gia nền kinh tế toàn cầu.
1.3. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Các vấn đề kinh tế không chỉ mang các đặc trưng kinh tế đơn thuần
ma luôn gắn liền với một hệ thôngs chính trị là nền tảng của nó. Về mặt thực
tiễn rõ rằng ở quốc gia nào cũng vậy, người ta chỉ chấp nhận hội nhập kinh
tế quốc tế một khi lợi ích của quốc gia đó cả về kinh tế, chính trị xã hội
được đảm bảo. Với cách tiếp cận này có thể hiểu hội nhập kính tế quốc tế
không chỉ la quá trình tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế mà còn được
biểu hiện trong bản thân hệ thống chính sách thương mại, chính sách phát
triển kinh tế của mỗi nước. Như vậy có thể xác định hội nhập kính tế quốc tế
là việc các nước đi tìm kiếm một số điều kiện nào đó mà họ có thể thống
nhất được với nhau, kể cả dành cho nhau nhưng ưu đãi, tạo ra nhưng điều
kiện công bằng, có đi có lại trong quan hệ hợp tác với nhau... nhằm khai
thác các khả năng lẫn nhau phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của mình.
Để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, các điều kiện chung được quy
định đối với mỗi quốc gia, là tự do hoá thương mại và đầu tư một cách công
khai, rõ ràng. Cụ thể, các tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế hay khu vực nói
chung đều hoạt động theo 4 nguyên tắc cơ bản sau:
- Công bằng: các nước dành cho nhau quy c hế ưu đãi cao nhất của
mình và chung cho mọi nước (nghĩa là mọi hàng hoá và dịch vụ của các
công ty các nước đối tác đều được hưởng một chính sách ưu đãi chung);
đồng thời không phân biệt chính sách thương mại giữa các công ty: mọi chế
độ chính sách liên q uan đến thương mại và đầu tư trong mỗi nước đều phải
- Đề án kinh tế chính trị
bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, giữa hàng nhập khẩu
và hàng sản xuất nội địa.
- Tự do hoá thương mại: các nước chỉ được sử dụng thuế làm công cụ
bảo hộ cho nền sản xuất của mình, các biện pháp phi thuế quan như giấy
phép, quota, hạn ngạch xuất nhập khâu... đều không đ ược sử dụng, các biểu
thuế này đều phải có lộ trình rõ ràng công khai về việc giảm dần đến tự do
hoá hoàn toàn (thuế suất bằng 0%).
- Làm ăn hay thương lượng với nhâu p hải trên cơ sở có đi có lại: khi
nền kinh tế thịt rường của một nước thành viên bị bị hàng nhập khâu đe doạ
thái quá hoạc bị những biện pháp phận biệt đối xử gây hại, thì nước đó có
quyền khước từ một nghĩa vụ nào đó hoặc có thể có những hành động khẩn
cấp cần thiết, được các nước thành viên khác thừa nhận, đề bảo vệ quyền lợi
cua nền kinh tế trong nước.
- Công khai mọi chính sách thương mại và đầu tư.
Với các điều kiện và nguyên tắc trên, nước “ đi sau” như nước ta có
nhiều thuận lợi, nhất là học hỏi kinh nghiệm của các nước “đi trước”, nhưng
cũng phải chịu rất nhiều khó khăn thách thức, mà quan trọng hàng đầu là
bảo hộ nền sản xuất trong nước và các doanh nghiệp việt nam, nhất là các
doanh nghiệp mới “chân ướt chân ráo” bước vào nền kinh tế thị trường. Đây
khong chỉ đơn thuần là việc bảo hộ thuần tuý cho nền kinh tế, cho từng
doanh nghiệp, mà còn là vấn đề của yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường
theo đ ịnh hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn mới việc hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với quá
trình tự do hoá. Không thể có hội nhập quốc tế mà không có tự do hoá kinh
tế, đây là một đặc điểm mới của xu thế toàn cầi hoá ngày nay. Vấn đề quan
trọng trong việc hội nhập kinh tế quốc tế là cần xác định mức độ tiến trình
hội nhập và tự do hoá như thế nào cho phù hợp với trình độ phát triển kinh
tế để có thể phát huy được các thế mạnh của đất nước, tận dụng đ ược những
- Đề án kinh tế chính trị
ưu thế của hợp tác quốc tế, tạo rá sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế quốc
gia, nâng cao vị thế của mình trong phân công lao động quốc tế.
2. Các nhân tố thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế
Nhiều thế kỉ trước, những tiến bộ trong kỹ thuật hàng hải, công nghệ
đóng tàu, khai phá giao thông, những phát triển của thị trường hàng hoá đã
tạo điều kiện mở mang giao lưu buôn bán giữa các quốc gia. Trải qua quá
trình phát triển lâu dài, quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng trở nên phổ biến,
bao quát nhiều lĩnh vực với nhiều hình thức. Đặc biệt vài chục năm gần đây
xuất hiện những yếu tố kinh tế kỹ thuật rất mới dẫn đến b ước phát triển nhảy
vọt cua toàn cầu hoá các quan hệ kinh tế. Sau đây là 6 yếu tố cơ bản thúc
đẩy quá trình toàn cầu hoá:
2.1. Sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất
Thực tiển của nền kinh tế thế giới đang cho thấy bước quá độ từ nền
kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, điều này được thể hiện rõ ở
các quốc gia phát triển. C ùng với nó các quốc gia đang phát triển cũng đã
kết hợp bước chuyển nông nghiệp lên công nghiệp kết hợp những bước nháy
tắt để rút ngắn quá trình xây dựng những c ơ sở của nền kinh tế tri thức.
Sự p hát triển của kinh tế tri thức dự trên các công nghệ có hàm lượng
khoa hoc kỹ thuật cao, nhất là công nghệ thông tin đã mở ra điều kiện thuận
lợi cho sự đẩy nhanh xu thế toàn cầu hoá, ví dụ như: các công nghệ mới làm
tăng tốc độ giao dịch kinh doanh, rút ngắn khoảng cách về không gian và
thời gian. Công nghệ thông tin đồng thời cũng góp phần nâng cao trình độ
dân trí, tạo điều kiện cho dân chủ phát triển, thúc đẩy nhu cầu mở của, giao
lưu hội nhập.
Tóm lại, chính sự phát triển như vũ bảo của khoa học kỹ thuật đã làm
phá vỡ hàng rào ngăn cách đ ịa giới trong giao dịch của con người trên tất cả
các mặt giãu các quốc gia. Điều này đã đẩy quốc tế hoá nền kinh tế lên một
thời kỳ mới, thời kỳ toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Cac quốc gia dù
muốn hay không dều chịu tác động của của quá trình toàn cầu hoá và đương
- Đề án kinh tế chính trị
nhiên để tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay không thế không tham
gia quá trình toàn cầu hoá, tức là hội nhập quốc tế.
2.2. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thi trường
Qua trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá có sự gắn bó chặt chẽ với tiến
trình phát triển của kinh tế thi trường. Kinh tế thị trường phát triển đã mở ra
điều kiện cho sự gia tăng xu thế quốc tế hoá, thể hiện trên hai khía cạnh
chính: Thứ nhất, kính tế thị trường mở ra cơ sở, điều kiện c ho sự phát triển
của lực lượng sản xuất, làm cho quy mô sản xuất không bó hẹp trong phạm
vi cua từng quốc gia mà mang tầm quốc tế, như vậy cũng có nghĩa là thúc
đẩy quá trình phân công lao động quốc tế, gắn các quố gia vào sự ràng buộc
của sản xuất và tiêu thụ. Thứ hai, nền kinh tế thi trường phát triển của các
quốc gia đưa lại cơ chế thống nhất cho sử lý các mối quan hệ, đó là cơ chế
thị trường.
Có thể nói, ngày nay nền kinh tế thế giới thống nhất với cơ chế vận
hành : cơ chế thi trường.
Kinh tế thi trườngcàng phát triển thì sự giao thoa thâm nhập lẫn nhau
giữa các nền kinh tế càng tăng. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường
không chỉ ở sự mở rộng qui mô về không gian, về sự xâm nhập ràng buộc
lẫn nhâu giữa các quốc gia mà còn thể hiện ở sự phát triển theo chiều sâu.
Đó là sự bùng nổ phát triển của thi trường tài chính gắn liền với sự xuất hiện
của một loạt công cụ mới trong thanh toán giao dịch. Thi trường sản phẩm
hàng hoá cũng gia tăng mạnh mẽ thể hiện ở qui mô chưa từng có của khối
luqongj giao dich thương mại và ở sự phát triển của các dang giao dịch mới
như thương mại dịch vụ và điện tử.
Như vậy có thể thấy sư phát triển mạnh mẽ của cơ chế thị trường
chínhlà cơ sở, điều kiệncho quá trình quốc tế hoá. Nhìn chung các quốc gia
trên thế giới ngày nayđèu dựa trên cơ chế thị trường, sử dụng các phương
tiện và công cụcủa kinh tế thị trường trong hoạt động kinh doanh, đ ưa lại
- Đề án kinh tế chính trị
một không gian rộng lớn, không gian toàn cầu cho các hoạt động sản xuất và
lưu chuyểncác yếu tố của chính quá trình sản xuất ấy,
2.3 Sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu trong bối cảnh thế giới kết
thúc chiến tranh lạnh bước vào thời kì hoà bình hợp tác và phát triển.
Trong vài thập niên trở lại đây nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ
nhưng kéo theo đó là những vấn đề mang tính chất toàn cầunhư sự phân hoá
giàu nghèo, sự ô nhiễm môi trường, dịch bệnh...Những vấn đề này liên quan
đến mọi quốc gia, có tác động trên phạm vi toàn thế giới, nó quyết định sự
phát triển tồn vong của toà thể cộng đồng nhân loại.
Do đó khi giải quyết các vấn đề mang tính chất toàn cầu phải có sự nỗ
lực của mọi quốc gia, sự liên kết sức lực của cả cộng đồng. Bản thân mỗi
quốc gia cho dù tiềm lực mạnh đến đâu cũng không thể giải quyết nổi vấn
đề liên quan đến toàn thế giới. Đây chính là cơ sở khách quan qui định , thúc
đẩy cho việc tiến tới thống nhất những qui phạm chung cho quá trình phát
triển kinh tế.
2.4 Sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia
Với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất trong chủ nghĩa tư bản tất yếu
dẫn đến sự tâp trung sản xuất và dẫn đến độc quyên. Trong lịch sử của nền
sản xuất thế giớivào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và những năm đầu của thế
kỷ 21 này dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuậtđã đưa lại
sự phát triển chưa từng có của các công ti xuyên quốc gia.
Đến nay có gầ n khoảng 60000 công ti xuyên quốc gia đang kiểm soát
2/3 nền thưong mại thế giới, 4/5 nguồn vốn đầu tư trực tiếp ở nước ngoài và
9/10 kết quả nghiên cứu và chuyển giao công nghệ thế giới. Với sức mạnh
như vậy các công ti xuyên quốc gia không những có ưu thế trong phân phối
tài nguyên trên phạm vi thế giới giúp cho việc thúc đẩy phân công lao động
quốc tếđi vào chi tiết hoá mà còn thông qua việc toàn cầu hoá sản xuất và
kinh doanh để đẩy nhanh tiến trình toàn cầu hoá kinh tế.
- Đề án kinh tế chính trị
Sự phát triển mạnh mẽ của các công ti xuyên quốc gia trên địa phận
toàn cầu đã tạo ra mạng lưói liên kết kinh tế quốc tế. Các quốc gia có thể
tham gia ngay vào dây chuyền sản xuất quốc tế và cũng vì vậy mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau gia tăng.
Các công ty xuyên quốc gia đã đóng vai trò rất lớn trong việc tăng
mức xuất khẩu, gia tăng mạnh mẽ vốn đầu tư trực tiếp nứoc ngoài vào các
nước đang phát triển đẩy mạnh tiến trinhf hội nhập của nền kinh tế này vào
nền kinh tế thế giới nói chung.
Như vậy sự phát triển và xâm nhập ngày càng mạnh của các công ty
xuyên quốc gia vào các nền kinh tế dân tộc đã góp phần xoá bỏ sự ngăn
cách biệt lập trong phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Các quốc gia
dân tộc từng bước thamm gia, thích ứng với các chuẩn mực của nền kinh tế
quốc tế đồng thời nó cũng đem lại nét mới từ những bản sắc riêng, bổ sung
vào nền kinh tế toàn cầu làmm gia tăng tính đa dạng của nó.
2.5 Sự hình thành và phát triển của các định chế toàn cầu và khu
vực.
Các định chế toàn cầu ra đời nhằm đáp ứng đòi hỏi của xu thế quốc tế
hoá, toàn cầu hoá kinh tế. Sự tồn tại và hoạt động của các định chế toàn cầu
và khu vực lại góp phần thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của xu thế toàn cầu
hoá.
Trong các tổ chức kinh tế- thương mại-tài chính toàn cầu và khu vực
có ảnh hưỏng lớn tới quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá phải kể đến
ƯTO, IMF, ƯB và các tổ chức khu vực khác như EU, NAFTA, APEC...Với
các mục tiêu chức năng của mình các tổ chức kinh tế quốc tế đã tham gia và
thúc đẩy các hoạt động kinh tế quốc tế, điều phối và quản lí các hoạt động
này. C ho dèu tính hiệu quả của các tổ chức này còn đựoc đánh giá khác
nhau xuất phát từ quan điểm lợi ích quốc gia, song không ai không thừa
nhận sự cần thiết và vai trò c ủa chúng, thậm chí đang đặt ra yêu cầu về hoàn
thiệncơ cấu tổ chức, đổi mới nguyên tắc hoạt động của chúng.
- Đề án kinh tế chính trị
Tác động của các tổ chức toàn cầu và đặc biệt là các tổ chức khu vực
đến xu thế toàn cầu hoá kinh tế thể hiện ở hai điểm chính:
-Thứ nhất, việc tham gia vào các tổ chức này cho phép các quốc gia
đựoc hưỏng những ưu đãi của hoạt động kinh doanh khu vực; thúc đẩy các
quốc gia trong khu vực tiến đến những chuẩn mực chung trong quá trình sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trên cơ sở các thoã thuận hợp tác song phương
và đa phươngđã làm tăng lên sự gắn bó tuỳ thuộc lân nhau giữa các nền kinh
tế, thực chất nó đã thúc đẩy phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc
trong nội bộ tổ chức.
-Thứ hai hoạt động của các tổ chức này từ thấp đến cao sẽ đẩy đến
hình thành một thị trường thống nhất trong khu vực buộc các quốc gia tham
gia phải có lịch trình hội nhập tích cực để hoà đồng vào khu vực.
Nói tóm lại các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực vừa là kết quả
vừa là động lực của quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
2.6 Vai trò của chính phủ và sự chuyển đổi trong chính sách phát
triển.
Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu song tốc độ của toàn cầu hoá phụ
thuộc rất nhiều vào chính sách của các quốc gia. Sau chiến tranh thế giới thứ
nhất thì việc đóng cửa đất nước không giao lưu thông thương với nưocs
ngoài c ủa các quốc gia đã làm cho lưu thông quốc tế bị hạn chế nền kinh tế
thế giới suy thoái mạnh.Nhưng từ sau chiến tranh thế giới thứ haithì các
quốc gia phát triển đã nhận thấy vấn đề cần phải tự do háo thương mại, giảm
các hàng rào thuế quan nhằm bành trướng thế lực ra bên ngoài. Và cho đến
naythì hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tiến hành cải cách mở cửa, thực
hiện tư nhân hoá và tự do hoá mở ra không gian mới cho sự gia tăng xu thế
toàn cầu hoá. Đặc biệt trong quá trình cải cách nhiều quốc gia đã chuyển
hướng phát triển kinh tế từ hướng nội sang hướng ngoại mà cốt lõi là chuyển
từ công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu sang công nghiệp hoá hướng về xuất
khẩu.
- Đề án kinh tế chính trị
Với chiến lượccôngnghiệp hoá hướng về xuất khẩu buộc các quốc gia
phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế không chỉ phải
dựa vào nhu cầu bên trong mà phải căn cứ vào nhu cầu thị trường thế giới,
sản xuất sản phẩm và d ịch vụ phù hợp với yêu cầu chuẩn mực của thị trường
quốc tế. Muốn vậy đòi hỏi các quốc gia phải mở cửa nền kinh tế, cho nhập
các thành tựu công nghệ, thu hút vốn đầu tư để xây dựng và phát triển một
cơ cấu ngành kinh tế phù hợp. Như vậy với chiến lược hướng về xuất khẩu,
trên thực tế đã đẩy đến xu thế gắn bó phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia,
giữa các nền kinh tế thông qua thực hiện phân công lao động quốc tế dựa
trên thế mạnh của từng nền kinh tế đân tộc.
Ngoài những nhân tố đã nêu trên thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu
hoá trong những năm gần đây chúng ta còn có thể kể đến một số nhân tố
khác xem như xung lực đẩy mạnh thêm cho xu thế toàn cầu hoá. Đó là sự
phát triển về dân chủ, văn hoá...
3 . Triển vọng phát triển toàn cầu hoá và hội nhập KTQT
3.1. Toàn cầu hoá không còn là âm mưu của các nước tư b ản phát
triển nhằm thôn tính thế giới
Chúng ta đã biết rằng sau chiến tranh lạnh thế giới vận động theo trật
tự đa cực với một siêu cường là Mỹ. Với sức mạnh của mình Mỹ đóng vai
trò chi phối bàn cờ thế giới. Suốt những thập kỷ sau chiến tranh thế giới lần
thứ 2 Mỹ luôn chiếm 30% GDP thế giới. Và đến khi c ường quốc Xô Viết
sụp đổ thì Mỹ thực sự trở thành một siêu cường duy nhất, Mỹ đã xúc tiến
một chiến lược nhằm đề cao vai trò lãnh đạo của mình. Mưu đồ của Mỹ là
"không để có một kẻ thách thức nào ở lục địa Âu - Á nổi lên có đủ khả năng
thống trị nơi đây và thách thức nước Mỹ. Mỹ muốn quy tụ toàn thế giới vào
vòng ả nh hưởng, chịu sự chỉ huy, điều khiển của mình.
Trong lĩnh vực kinh tế, Mỹ thao túng các định chế kinh tế toàn cầu,
đòi các quốc gia phải mở rộng cửa thị trường, tham gia hội nhập vào bàn cờ
kinh tế quốc tế theo các luật chơi đã được định sẵn xuất phát từ nhu cầu, lợi
- Đề án kinh tế chính trị
ích và quan niệm chuẩn mực giá trị lối sống Mỹ. Vì vậy không phải ngẫu
nhiên mà có ý kiến đã đồng nhất toàn cầu hoá với Mỹ hoá.
Nghiên cứu lịch sử phát triển của nền kinh tế tư bản ta thấy bản thân
các nền kinh tế này c ũng đã trải qua thời kì bảo hộ cao chống lại sự xâm
naâpj từ bên ngoài. Nhưng do s ự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất
đã đặt ra nhu cầu mở rộng giao tiếp và mở rộng thị trường ngoài biên giới.
Sự phát triển CNTB của Mác đã chỉ ra luôn bị hai giới hạn bởi thị
trường và nguyên liệu, cho nên xu hướng bành trướng tìm kiếm thị trường
và nguyên liệu có nguồn gốc trong kết cấu phát triển của CNTB. Việc tạo ra
sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất trong CNTB so với các xã hội
trước đó cũng chính là cơ sở, là điều kiện cho quá trình bành trướng ra bên
ngoài.
Như vậy xu thế quốc tế hoá toàn cầu hoá xuất hiện gắn liền với sự
hình thành và phát triển của CNTB đã lợi dụng những thành tựu của khoa
học - kỹ thuật tạo ra sự phát triển sản xuất mạnh mẽ, dẫn đến sự hình thành
của những liên min h độc quyền cấu kết với nhau chi phối các quan hệ kinh
tế.
Ngay trong thời k ì đầu tiên này, quá trình quốc tế hoá đã chịu sự chi
phối của CNTB. Và khi hệ thống CNXH bị sụp đổ thì các nước đế quốc
mưu toan lợi dụng xu thế toàn cầu hoá để nhằm xoá bỏ các nước XHCN
chúng muốn "buộc tất cả các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất
TBCN". Các nước TBCN cũng nhận thấy những cơ hội kiếm lợi lớn qua
toàn cầu hoá nên càng thúc đẩy mạnh mẽ toàn cầu hoá. Họ đòi hỏi các quốc
gia đang phát triển phải mở cửa thị trường, phải chấp nhận các luật chơi đã
có do chính họ đặt ra nhằm loại bỏ những ưu thế, những lợi thế so sánh của
các quốc gia đi sau. Đồng thời họ đặt ra hàng loạt điều kiện cho các nước
đang phát triển trong quá trình tiếp xúc thị trường của chính họ. Trê n thực tế
họ mong muốn tạo lập một mô hình kinh tế một loạt giá trị chung cho thế
giới theo quan điểm của họ.
- Đề án kinh tế chính trị
Tuy nhiên sự thống trị, chi phối đó của CNTB mà đứng đầu là M ĩ chỉ
là tạm thời.
Thừa nhận sự chi phối của CNTB đối với quá trình toàn cầu hoá kinh
tế hiện nay, thừa nhận tính chất chính trị của quá trình toàn cầu hoá không
có nghĩa chúng ta tẩy chay, từ chối tham gia toàn cầu hoá kinh tế, mà ngược
lại phải đấu tranh vì s ự toàn cầu hoá hướng tới sự tiến bộ và phát triển của
nhân loại. Chủ nghĩa tư bản đang mưu toan phổ biến các giá trị và luật chơi
tư bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn cầu. Song điều đó vấp phải xu hướng
vươn tới tự do bình đẳng của cả nhân loại. V ì vậy chính trong toàn cầu hoá
chủ nghĩa tư bản cũng sẽ phải biến đổi. Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá
không chỉ có Mỹ và các nước tư bản phát triển mà còn có hàng loạt các quốc
gia trên thế giới, trong đó có cả các quốc gia đang trên con đường đi lên
CNXH. Do vậy quá trình toàn cầu hoá không phải đơn giản là sự phổ biến
các giá trị, luật chơi của CNTB, mà là quá trình đấu tranh, thoả thuận, sàng
lọc, trong đó các giá trị văn minh, nhân đạo của loài người sẽ được chấp
nhận, đó chính là quá trình hội nhập giao thoa của các nền kinh tế, các giá trị
văn hoá, chính trị…, và trong quá trình ấ y những cái gì là tiến bộ sớm muộn
sẽ tất yếu được phát triển. Đó là quy luật phát triển của xã hội. Những diễn
biến trong tổ chức thương mại thế giới vừa qua chính là một ví dụ phản ánh
xu thế đó. Và cũng vì vậy sẽ là không thoả đáng khi xem toàn cầu hoá hiện
nay thuần tuý mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Sự đan xen của các lợi ích
trong quá trình tham gia hội nhập của các chủ thể phản ánh tính phức tạp và
đầy mâu thuẫn của chính quá trình này.
3.2. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng
Xu thế toàn cầu hoá từ khi xuất hiện cho đến nay trong quá trình phát
triển luôn vấp phải sự chống đối của những người có quan niệm sai lệch về
toàn cầu hoá. Nhưng điều đó không thể thay đổi được tính tất yếu của xu thế
này. Toàn cầu hoá vẫn diễn ra và diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên tất cả các
phương diện từ kinh tế cho đến chính trị, văn hoá, xã hội. Trong tất cả các
- Đề án kinh tế chính trị
mặt đó thì toàn cầu hoá kinh tế phát triển nhất, có tác động đến các lĩnh vực
khác của xu thế này. Toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đang diễn ra mạnh mẽ
gắn liền với xu thế khu vực hoá diễn ra cũng không kém phần nhộn nhịp.
Trước xu thế đó thì hội nhập kinh tế quốc tế đã đang trở thành yêu cầu
bức thiết đối với mỗi nước. Ngày nay số đông các nước trên thế giới đã nhận
thức được rằng toàn cầu hoá là sản phẩm văn minh của nhân loại và do đó
họ đón nhận, tự nguyện hội nhập và góp sức mình thúc đẩy toàn cầu hoá.
Như vậy hội nhập kinh tế quốc tế cũng đang gia tăng nhanh chóng cùng với
xu thế toàn cầu hoá.
II. THỰC TRẠNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Nhìn lại chặng đường phát triển của dân tộc ta, trên thực tế chúng ta
chưa bao giờ tách khỏi nền kinh tế thế giới, chúng ta đã đang và sẽ tiếp tục
quá trình hội nhập.
Giai đoạn từ năm 1945 cho đến khi chúng ta thực hiện đổi mới quan
hệ Việt Nam với khu vực bị ngừng trệ. Chúng ta chỉ tiến hành quan hệ với
các nước XHCN mà đáng chú ý là việc tham gia vào hội đồng tương trợ
kinh tế (SEV). Nhưng bước sang giai đoạn đổi mới mà bắt đầu từ đại hội
Đảng 6 của Đảng đã mở ra phương cách mới chúng ta đã tiến hành chuyển
sang cơ chế thị trường. Cùng với những đổi mới bên trong chúng ta thực
hiện chuyển nhượng chiến lược trong kinh tế đối ngoại từng bước hội nhập
vào nền kinh tế thế giới và khu vực.
Tiếp tục tinh thần đại hội VII, đại hội VII, VIII và gần đây nhất là đại
hội IX c ùng các nghị quyết của hội nghị trung ương đã tạo nên cơ sở rất
quan trọng để triển khai thúc đẩy hội nhập kinh tế.
Thực hiện các đường lối đổi mới trong hơn 10 năm qua chúng ta đã
có những bước đi ban đầu tương đối bài bản trong quá trình hội nhập kinh tế
thế giới (nếu như cuối năm 80 kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng khủng
hoảng trầm trọng trong điều kiện Việt Nam bị bao vây cấm vận ngặt nghèo
- Đề án kinh tế chính trị
tưởng như khó đứng vững nổi, nhưng với quyết tâm đổi mới mở cửa từng
bước hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực chúng ta đã được được những
thành tích đáng khích lệ.
Năm 1993 Việt Nam đã nối lại quan hệ tín dụng với IMF và WB. Và
từ đó liên tiếp được các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức viện trợ phát
triển (ODA) của Liên hiệp quốc và nhiều tổ chức tài chính khác thường
xuyên viện trợ để giải quyết những vấn đề khó khăn tạo điều kiện cho nhiều
ngành kinh tế phát triển.
Đến nay chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với trên
160 quốc gia trên thế giới, kí kết các hiệp định thương mại với hơn 60 nước.
Năm 1995 gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á, tham gia các
Hiệp định về khu vực đầu tư khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), các
chương trình ưu đãi thuế q uan (CEPT) hành động chung (CAPT). Đây là
những bước hội nhập thực sự vào hành động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội quan trọng nhất trong khu vực.
Việt Nam tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác với các nước ở các khu
vực rộng lớn hơn như Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Bắc Á, Châu Phi, châu Mĩ
và nhiều khu vực khác. Từ tháng 11/1998 Việt Nam đã trở thành thành viên
của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), chúng ta
đã và đang xây dựng, thực hiện các chương trình hành động quốc gia (IAP),
hành động chung (CAP), thúc đẩy nhanh quá trình tự do hoá các dịch vụ,
thương mại, dịch vụ giữa các nước trong khối (với mục tiêu Việt Nam hoàn
toàn mở cửa thị trường thương mại và đầu tư vào năm 2020).
Là thành viên c ủa Hội nghị thượng đỉnh về hợp tác Á - Âu (ASEM)
từ tháng 2/1995, Việt Nam đang tích cực, chủ động xúc tiến mở rộng thương
mại đầu tư và hợp tác hỗ trợ giữa các doanh nghiệp của các nước thành viên
trong khối (từ tháng 6/1996 tiến hành đàm phán xây dựng Hiệp định thương
mại thế giới WTO vào tháng 1/1995. Và theo quy định của WTO chúng ta
- Đề án kinh tế chính trị
đã đang và sẽ chuẩn bị điều kiện nhằm đáp ứng các yêu cầu của WTO để
sớm gia nhập tổ chức này trong thời gian gần nhất có thể được.
Như vậy nước ta ngày càng chủ động hơn trong quá trình hội nhập
khu vực và quốc tế để hoà mình vào xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh
mẽ.
2. Những th ành tựu của quá trình hội nhập kinh tế và hạn chế
cần khắc phục
2.1. Những thành tựu của hơn 1 thập kỷ hội nhập kinh tế quốc tế
Trải qua hơn 10 năm hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới
nước ta đã có được những kết quả bước đầu quan trọng.
Mở rộng các mối quan hệ kinh tế song phương, đa phương với nhiều
nơi trên toàn thế giới đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội nước ta trong thập niên cuối của thế kỷ XX. Nếu như trước
những năm 90, tốc độ tăng GDP bình quân nước ta chỉ đạt khoảng 2 -
3%/năm thì ở thập niên cuối của thể kỷ XX (1991-2000), mức tăng bình
quân GDP đạt 6-8%/năm. Sau 10 năm, tổng sản phẩm xã hội (GDP) tăng
thêm 13 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người tăng gấp hơn 2 lần. Nhiều
mặt hoạt động sản xuất và đời sống xã hội đã có những bước phát triển
tương đối nhanh.
Song song với việc phát triển kinh tế rút ngắn khoảng cách đối với
các quốc gia thì nước ta đã có những thành công trong công cuộc xây dựng
một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh hội nhập. Đảng và Nhà nước
ta đã xây dựng được đường lối chính sách kinh tế độc lập tự chủ, chúng ta tự
mình lựa chọn định hướng phát triển kinh tế. Bên cạnh đó thì nước ta cũng
đã đạt được thực lực kinh tế ở một mức độ tương đối cao, giá trị sản xuất
trong nước bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và có
phần tích luỹ cần thiết để thực hiện tái sản xuất mở rộng. Nói tóm lại ta đã
xây dựng được một nền kinh tế mà không hoặc rất ít bị lệ thuộc, bị các thế
- Đề án kinh tế chính trị
lực xấu, thù địch lợi dụng vấn đề kinh tế để lôi kéo khống chế, ép buộc đó là
yếu tố để nước ta đi đúng quĩ đạo của chủ nghĩa xã hội.
Đến nay nước ta thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước và
tham gia vào nhiều tổ chức và các hiệp định thương mại trên thế giới như
ASEAN, AFTA, APEC đã phá vỡ thế cô lập tạo ra được một môi trường
cùng hợp tác phát triển đối với các đối tác trên thế giới.
* Những thành tựu cụ thể trên các mặt
- Về ngoại thương: Trong hơn 160 nước đ ã chính thức thiết lập quan
hệ ngoại giao thì nước ta kí kết hiệp định thương mại với hơn 60 nước. Tốc
độ tăng xuất nhập khẩu hàng năm thường cao gấp 2-3 lần tốc độ tăng GDP.
Nếu năm 1991, thị trường Liên Xô và các nước Đông Âu bị cắt giảm đột
ngột, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam giảm 15,1% thì ngay sau đó từ
1992 đến 1995 đã vươn lên giữ mức tăng 23-30%/năm. Năm 1980 tăng do
khủng hoảng kinh tế châu Á nhưng năm 1999 tiếp tục vươn lên, kim ngạch
xuất khẩu đạt hơn 11,5 tỉ USD gấp hơn 5 lần năm 1991. Và đến năm 2002
ước đạt 16,53 tỉ USD hoàn thành kế hoạch đặt ra. Từ năm 1991 đến nay thì
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam luôn luôn tăng. Từ chỗ chỉ là nước nhập
hàng viện trợ và xuất hàng trả nợ mỗi năm vài trăm triệu USD đến nay
chúng ta đã có nhiều mặt hàng xuất khẩu đạt trên 2 tỷ USD/năm. Chẳng hạn,
như mặt hàng thuỷ sản trong năm 2002 đạt kim ngạch xuất khẩu 2,03 tỉ
USD tăng 3% so với năm trước và kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may thì
ước đạt 2,7 tỉ USD năm 2002 tăng 36% so với năm 2001 và đây là mức tăng
trưởng cao nhất trong 5 năm gần đây. Một số mặt hàng nông sản Việt Nam
đã và đang vươn lên thứ hạng cao trên thị trường thương mại thế giới: gạo
đứng thứ 2, hạt điều ở vị trí thứ 3 và cà phê là thứ 4. Những mặt hàng xuất
khẩu Việt Nam vẫn tiếp tục tăng chiếm lĩnh nhiều nơi trên thị trường quốc tế
kể cả các thị trường khó tính như Nhật Bản, Tây Âu, Bắc Mỹ.
- Trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài chúng ta cũng đã đạt
được những kết quả đáng khích lệ. Tính đến tháng 9/1999 chúng ta đã thu
- Đề án kinh tế chính trị
hút 35,9 tỉ USD của hơn 70 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, trong đó đàu
tư vào công nghiệp và xây dựng là gần 51%. Cùng với vốn FDI chúng ta
còn tiếp nhận một lượng không nhỏ nguồn vốn qua kênh ODA. Nguồn ODA
thực sự có ý nghĩa quan trọng trong phát triển cơ sở hạ tầng, cả phần cứng
và phần mềm đối với Việt Nam. Tính ra mức vốn nước ngoài hiện nay
chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư xã hội. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài GDP đều tăng lên qua các năm. Năm 1993 đạt 3,6%,
đến năm 1998 đạt 9%; năm 1999 đạt khoảng 10,5%. Nguồn thu ngân sách từ
khu vực có vốn đầu tư nướcngoài đạt 370 triệu USD vào năm 1998.
Cùng với mở cửa thu hút vốn nước ngoài, gia tăng xuất khẩu, các
doanh nghiệp Việt Nam cũng đã mạnh dạn tham gia đầu tư ra nước ngoài,
kể cả vào những nước phát triển như Nhật Bản. Tính cho đến nay các doanh
nghiệp Việt Nam đã có 27 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số khoảng 8
triệu USD, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, thương
mại, dịch vụ và xây dựng v.v… Đồng thời trong những năm 90 chúng ta đã
ký các hợp đồng đưa vạn lao động ra nước ngoài làm việc.
2.2. Những hạn chế cần khắc phục trong quá trình hội nhập.
Sau hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế, hội nhập kinh tế thì đi kèm với
những thành tựu là tồn tại và yếu kém là những vấn đề đặt ra ở cả tầm vĩ mô
và vi mô cần suy nghĩ giải quyết để hội nhập ngày càng hiệu quả hơn.
Đối với nước ta niện nay thách thức lớn nhất là năng lực cạnh tranh
của hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước còn yếu bị thua thejt
trên thương trường. Cho đến nay hàng xuất của ta chủ yếu vẫn là sản phẩm
thô hoặc sản phẩm sơ chế có giá trị gia tăng thấp (do vèe trình độ kỹ thuật
công nghệ chế biến thấp mẫu mã chủng loại sản phẩm chưa phong phú kém
hấp dẫn nên gía trị thấp dẫn đến sức cạnh tranh yếu, hiệu quả kinh tế thấp.
Đối với các doanh nghiệp thì thiếu hụt năng lực thu thập và phân tích thông
tin để dự báo chiều ưhớng phát triển của nền kinh tế thế giới và các đối tác
cạnh tranh từ đó kém khả naưng mở rộng và phát triển thị trường của mình,
nguon tai.lieu . vn