Xem mẫu
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
LÂM TRIỀU PHÁT
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG KỸ THUẬT CAN THIỆP
ĐẶT ỐNG GHÉP NỘI MẠCH
ĐIỀU TRỊ PHÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ NGỰC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
- Hà Nội 2022
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC
PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
LÂM TRIỀU PHÁT
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG KỸ THUẬT CAN THIỆP
ĐẶT ỐNG GHÉP NỘI MẠCH ĐIỀU TRỊ
PHÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ NGỰC
Chuyên ngành: Ngoại khoa
Mã số: 9720104
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học
1. PGS.TS. Trần Quyết Tiến
2. GS.TS. Nguyễn Trường Giang
- Hà Nội 2022
- LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi với sự hướng
dẫn khoa học của tập thể cán bộ hướng dẫn.
Các kết quả nêu trong luận án là trung thực chưa từng được ai công
bố. Nếu có gì sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả
Lâm Triều Phát
- MỤC LỤC
Trang
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC CHỮ, KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Tiếng Anh Tiếng Việt
BMI Body mass Index Chỉ số khối cơ thể
BN Bệnh nhân
CLVT Cắt lớp vi tính
Chụp động mạch số hóa xóa
DSA Digital Subtraction angiography
nền
ĐM Động mạch
ĐMC Động mạch chủ
ESC The European Society of Cardiology Hiệp hội Tim mạch Châu Âu
Cục quản lý Thực phẩm và
FDA Food and Drug Administration
Dược phẩm Hoa Kỳ
HR Hazard ratio Tỉ số rủi ro
MSCT Multislice Computer Tomography Chụp cắt lớp đa dãy
MRI Magnetic Resonance Imaging Chụp cộng hưởng từ
MPR Multiplanar Reconstruction Dựng hình đa mặt phẳng
Hiệp hội Phẫu thuật viên
STS Society of Thoracic Surgoens
Lồng ngực Hoa Kỳ
TAAs Thoracic aortic aneurysm Phình động mạch chủ ngực
TEVA Thoracic Endovascular Aneurysm Can thiệp nội mạch điều trị
R Repair phình động mạch chủ ngực
- DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 4.4. Sự thay đổi kích thước túi phình theo thời gian sau can
thiệp………...129
Bảng 4.5. Thay đổi kích thước túi phình sau đặt ống ghép nội
mạch…………….130
- DANH MỤC BIỂU ĐỒ
- DANH MỤC HÌNH
- ĐẶT VẤN ĐỀ
Phình động mạch chủ ngực (ĐMCN) được định nghĩa khi kích thước
ĐMCN tăng hơn 1,5 lần kích thước ĐMCN bình thường [Raimund E., Victor
A., Catherine B., et al. (2014). ESC Guidelines on the diagnosis and treatment of
aortic diseases: document covering acute and chronic aortic diseases of the thoracic
and abdominal aorta of the adult The Task Force for the Diagnosis and Treatment of
Aortic Diseases of the European Society of Cardiology (ESC). J European heart
journal., 35(41): 2873 2926.]. Đa số bệnh nhân (BN) phình ĐMCN không có
triệu chứng, được phát hiện tình cờ qua các phương tiện chẩn đoán hình
ảnh như Xquang ngực và chụp cắt lớp điện toán. Bệnh lý phình ĐMCN
gây ra hậu quả nặng nề và tàn tật cao nếu không được phát hiện và điều trị
kịp thời Tại một số nước phát triển, tỷ lệ tử vong do biến chứng của phình
động mạ.ch chủ tăng lên rõ rệt như Đan Mạch là 2,4%, Hungary là 2,1%,
Nhật Bản 0,5% và Romani là 1,3%, trong đó độ tuổi tử vong hay gặp từ 75
đến 79 tuổi [David S., Edward C., Philip S., et al. (2014). Mortality from thoracic
aortic diseases and associations with cardiovascular risk factors. J Circulation.,
130(25): 2287 2294.]. Phình động mạch chủ ngực với đường kính lớn (> 60
mm) có nhiều biến chứng như vỡ (3,6%), lóc tách (3,7%) và tử vong
(10,8%) [John A. E. (2002). Natural history of thoracic aortic aneurysms:
indications for surgery, and surgical versus nonsurgical risks. J The Annals of
thoracic surgery., 74(5): 1877 1880.].
Trước đây, điều trị phình ĐMCN chủ yếu là phẫu thuật thay đoạn
phình bằng ống ghép nhân tạo với tỷ lệ tử vong và biến chứng sau mổ cao,
thời gian nằm hồi sức và nằm viện lâu, đặc biệt là các bệnh nhân có nguy
cơ phẫu thuật cao do lớn tuổi, nhiều bệnh kết hợp. Tác giả Jennifer H.
- thấy rằng tỉ lệ tử vong sau mổ trong 30 ngày đầu là 9,1% và tỷ lệ đột quỵ
hậu phẫu là 5,8% [Jennifer H., May K. L., Caroll C., et al. (2014). Longterm
outcomes after thoracic aortic surgery: a populationbased study. J The Journal of
thoracic cardiovascular surgery., 148(1): 47 52.].
Năm 1990, Parodi và cộng sự tiến hành thành công trường hợp đặt
ống ghép nội mạch điều trị phình động mạch chủ bụng đầu tiên trên thế
giới tại Viện tim mạch Buenos Aires, Argentina [ Parodi J. C., Palmaz J. C.,
Barone H. D. (1991). Transfemoral intraluminal graft implantation for abdominal
aortic aneurysms. J Annals of vascular surgery., 5(6): 491 499. ]. Năm 1994, bác
sĩ Michael Dake ở trường đại học Stanford, Hòa Kỳ và cộng sự đã báo cáo
những trường hợp đầu tiên được điều trị phình ĐMCN đoạn xuống bằng
phương pháp can thiệp đặt ống ghép nội mạch. Kết quả ban đầu của
nghiên cứu cho thấy can thiệp đặt ống ghép nội mạch có tỷ lệ tử vong chu
phẫu thấp hơn và thời gian nằm viện ngắn hơn so với mổ mở kinh điển
[6]. Năm 1999, cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa kỳ đã chính thức
công nhận lưu hành sản phẩm ống ghép nội mạch, đã tạo thuận lợi cho sự
phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật này. Với những kết quả ưu việt về hậu
phẫu, tỷ lệ tử vong thấp, thời gian nằm viện ngắn, hồi phục nhanh, từ đó
đến nay, can thiệp đặt ống ghép nội mạch điều trị phình động mạch chủ
ngực là phương pháp điều trị được ưu tiên chọn lựa so với phẫu thuật mổ
mở kinh điển tại các nước trên thế giới. Tuy nhiên, phình ĐMCN có liên
quan đến các nhánh động mạch (ĐM) nuôi não hoặc nuôi tạng vẫn còn là
thách thức do không thể thực hiện được bằng phương pháp can thiệp nội
mạch đơn thuần vì sẽ che lấp các ĐM này khi đặt ống ghép. Khuynh
hướng hiện nay là kết hợp phẫu thuật và can thiệp nội mạch (Hybrid)
- nhằm tránh cho bệnh nhân phải chịu một cuộc phẫu thuật lớn với nhiều
nguy cơ.
Tại Việt Nam, nhiều trung tâm trong nước như Bệnh viện Việt Đức,
Bạch Mai, Trung Ương Huế, Bình Dân, Đại học Y Dược Thành phố Hồ
Chí Minh… cũng đã thực hiện kỹ thuật này. Mặc dù đến nay đã có một số
công trình nghiên cứu được công bố, tuy nhiên số lượng BN còn ít và chưa
có nghiên cứu hệ thống đánh giá kết quả can thiệp nội mạch động mạch
chủ đoạn ngực trên bệnh nhân Việt Nam. Tại Bệnh viện Chợ Rẫy, chúng
tôi đã tiến hành đặt ống ghép nội mạch từ tháng 05/2012 và đã thu được
một số kết quả ban đầu rất khả quan. Việc đánh giá kết quả điều trị của
một kỹ thuật mới là cần thiết để đưa ra một tổng kết đầy đủ, các biến
chứng cũng như ưu thế, nhược điểm cúa kỹ thuật can thiệp đặt ống ghép
nội mạch điều trị phình ĐMCN. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
nhằm các mục tiêu sau:
1. Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh
nhân
đặt ống ghép nội mạch điều trị phình động mạch chủ ngực tại Bệnh
viện Chợ Rẫy.
2. Đánh giá kết quả can thiệp đặt ống ghép nội mạch điều trị
phình động mạch chủ ngực tại Bệnh viện Chợ Rẫy.
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giải phẫu ứng dụng trong điều trị bệnh phình động mạch chủ
ngực
- Động mạch chủ ngực là động mạch chính của hệ tuần hoàn và là
mạch máu lớn nhất trong cơ thể. Xuất phát từ tâm thất trái, ĐMCN chạy
lên trên ngang mức đốt sống ngực số 4 thì vòng sang trái rồi quặt xuống
dưới, đi dọc theo cột sống ngực, qua cơ hoành xuống ổ bụng và đổi tên
thành động mạch chủ bụng. ĐMCN được chia thành 4 đoạn: gốc động
mạch chủ (ĐMC), động mạch chủ lên, quai động mạch chủ và động mạch
chủ ngực xuống. Mỗi đoạn có liên quan, phân nhánh cũng như bệnh lý đặc
trưng khác nhau. Thành động mạch chủ dày, rất đàn hồi và được nuôi
dưỡng bởi các mạch nuôi mạch (vaso vasorum). Kích thước ĐMC của
người Việt Nam qua phẫu tích tử thi có liên quan trực tiếp với chiều cao và
cân nặng, với đường kính trung bình từ 1,2 cm tới 3 cm, gốc ĐMC có kích
thước lớn nhất và nhỏ nhất là ĐMC bụng [7].
1.1.1. Động mạch chủ lên và quai động mạch chủ
Động mạch chủ lên: xuất phát từ khớp nối xoang ống đi lên trên
hướng sang phải đến động mạch thân cánh tay đầu (tương ứng đốt sống
ngực V). Động mạch chủ lên nằm trong trung thất giữa và được màng
ngoài tim bao bọc cùng với thân động mạch phổi. Ở người Việt Nam trên
phim chụp cắt lóp vi tính (CLVT), động mạch chủ lên đường kính trung
bình là 28 mm và là phần nằm ra trước của ĐMC [8]. Phần đầu của động
mạch chủ lên nằm sau thân động mạch phổi, phía trước tiểu nhĩ trái. Phần
cuối nằm trước động mạch phổi và phế quản chính phải. Động mạch chủ
lên không phân nhánh.
Quai động mạch chủ: nối tiếp với ĐMCN lên, quai ĐMC chạy sang
trái và hướng ra sau tạo thành một cung lõm xuống dưới, ôm lấy phế quản
chính trái. Quai ĐMC nằm ngang mức đốt sống ngực 4 và là phần ngắn
nhất của ĐMC. Ở người Việt Nam, quai ĐMC có đường kính trung bình là
- 24 mm [8]. Mặt trước có dây thần kinh hoành trái, thần kinh lang thang trái
và các nhánh tim của thần kinh lang thang trái. Phía sau là khối khí quản và
thực quản. Phía dưới liên quan với chỗ phân chia của thân động mạch phổi,
có dây chằng động mạch là di tích của ống động mạch, phế quản chính trái
và thần kinh quặt ngược thanh quản trái. Phía trên là các nhánh bên của quai
ĐMC và trước các nhánh bên này là tĩnh mạch tay đầu trái.
+ Thông thường có 3 nhánh bên lớn xuất phát từ quai ĐMC là thân
ĐM cánh tay đầu, động mạch cảnh chung trái và động mạch dưới đòn trái.
Các nhánh bên này là nguồn cấp máu cho đầu mặt cổ và chi trên [9], [10].
Hình 1.1. Động mạch chủ lên và quai động mạch chủ
* Nguồn: theo Kelley J.D. (2020) [10]
+ Các bất thường giải phẫu của quai ĐMC: có thể có những biến
thể về mặt giải phẫu, do sự tăng lên hoặc giảm xuống số lượng các nhánh
xuất phát từ quai ĐMC. Theo các tác giả Bahman J.K., Julia D. và cộng sự,
- các biến thể của quai ĐMC có thể được chia thành 4 loại như sau [11],
[Julia D., Alan S.C., Bulat A. Z., et al. (2015). Atypical aortic arch branching
variants: a novel marker for thoracic aortic disease. J The Journal of thoracic
cardiovascular surgery., 149(6): 1586 1592.]:
• Loại A: quai ĐMC bình thường, với 3 nhánh là thân cánh tay đầu
phải, động mạch cảnh chung trái và động mạch dưới đòn trái. Đây là loại
thường gặp nhất, chiếm 84,9% các trường hợp quai ĐMC ở người bình
thường.
• Loại B: quai ĐMC dạng của bò, với 2 nhánh là thân cánh tay đầu và
động mạch dưới đòn trái, động mạch cảnh chung trái có chung chỗ xuất
phát với thân cánh tay đầu, chiếm 12,8% các trường hợp.
• Loại C: quai ĐMC có 4 nhánh là thân cánh tay đầu, động mạch
cảnh chung trái, động mạch đốt sống trái và động mạch dưới đòn trái. Loại
này chiếm 0,9% các trường hợp quai ĐMC ở người bình thường.
• Loại D: động mạch dưới đòn phải xuất phát từ ĐMC ngực xuống, đi
sau khối khí thực quản và vòng sang phải, chiếm 1,8% các trường hợp.
- Loại A Loại B Loại C Loại D
Hình 1.2. Bất thường giải phẫu của quai động mạch chủ
* Nguồn: theo Julia D. và cộng sự (2015) [Julia D., Alan S.C., Bulat A. Z., et al.
(2015). Atypical aortic arch branching variants: a novel marker for thoracic aortic
disease. J The Journal of thoracic cardiovascular surgery., 149(6): 1586 1592.]
1.1.2. Động mạch chủ xuống
Tiếp tục với quai động mạch chủ từ sườn trái D4 đến lỗ cơ hoành,
lúc đầu ĐMC ở bên trái thực quản đi xuống dưới, chếch vào trong và bắt
chéo sau thực quản ở gần lỗ cơ hoành.
ĐMC xuống chia ra các nhánh sau: ĐM phế quản, các ĐM trung
thất rất nhỏ đi vào màng phổi nuôi màng tim, các nhánh thực quản và ĐM
gian sườn sau dưới (9 hoặc 10 nhánh) [9]. Ở người Việt Nam, đường kính
trung bình ĐMC ngực xuống là 22 mm [8]. Phía trước ĐMC ngực xuống liên
quan với cuống phổi trái và thực quản, phía sau liên quan với cột sống ngực,
bên phải liên quan với ống ngực và tĩnh mạch đơn, bên trái liên quan với tĩnh
mạch bán đơn và tĩnh mạch bán đơn phụ.
Các động mạch Adamkiewicz: tủy sống nhận máu nuôi từ 3 nguồn
chính: động mạch tủy trước cấp máu 2/3 trước tủy và 2 động mạch tủy sau
cung cấp máu cho phần còn lại.
+ Động mạch Adamkiewicz là động mạch rễ tủy trước lớn chiếm ưu
thế nhất và tưới máu chính cho tủy sống từ vùng T8 đến chóp tủy [13]. Vị
trí xuất phát của các ĐM này thay đổi khá nhiều, trải dài từ vùng giữa ngực
đến vùng thắt lưng: Từ các động mạch liên sườn T3 đến T12 và L1 đến
L4. Thông thường, động mạch Adamkiewicz xuất phát từ lỗ T8 và L1 từ
các động mạch liên sườn trái. Đường kính trung bình của động mạch
Adamkiewicz từ 0,8 1,3 mm. Nhận diện các động mạch Adamkiewicz và
- bảo tồn hoặc tái tạo lại các động mạch này khi cần thiết có thể giúp giảm
tỉ lệ tai biến mạch máu tủy và cải thiện kết quả phẫu thuật động mạch
chủ ngực bụng cũng như can thiệp đặt ống ghép nội mạch điều trị phình
động mạch chủ ngực (TEVAR).
+ Trong nghiên cứu gộp về các biến thể của động mạch
Adamkiewicz, Dominik T. và cộng sự báo cáo kết quả như sau [14]: Các
ĐM Adamkiewicz xuất phát từ bên trái là 76,6% và 23,4% xuất phát từ bên
phải. Động mạch Adamkiewicz xuất phát ở ngang mức T8 L1 là 89%,
trong đó vị trí thường gặp nhất là ngang mức T9 (22,2%), sau đó là T10
(21,7%) và T11 (18,7%).
Hình 1.3. Động mạch Adamkiewicz
* Nguồn: theo Dominik T. và cộng sự (2019) [14]
1.1.3. Động mạch đường vào (động mạch chậuđùi):
Động mạch chủ bụng đi bên trái cột sống, đến đốt sống thắt lưng 4
5 chi ra thành hai ĐM chậu gốc trái và phải, góc chia từ 6880 độ. Từ chỗ
phân chia, ĐM chậu chung chạy xuống dưới và sang bên một đoạn dài 5
6cm thì chia thành hai động mạch chậu ngoài và trong. Đường kính trung
bình của ĐM chậu chung phải là 0,89cm và trái là 0,83cm qua phân tích trên
giải phẫu tử thi [15]. ĐM chậu trong chia các nhánh cấp máu cho các tạng
- vùng chậu góp phần tạo nên tuần hoàn bàng hệ trong những trường hợp
bệnh lý. ĐM chậu ngoài chạy tiếp theo ĐM chậu chung, xuyên qua vùng
tiểu khung theo hướng từ sau ra trước, đến phía sau điểm giữa dây chằng
bẹn thì đổi tên thành ĐM đùi chung. Đường kính ĐM chậu ngoài trung bình
là 0.8cm.
ĐM đùi chung chạy tiếp ĐM chậu ngoài, đi theo một cung thẳng
cong vào phía trong của đầu dưới xương đùi, ĐM nằm giữa, thần kinh đùi
nằm ngoài và tĩnh mạch đùi nằm trong. Đến khoảng 4cm dưới dây chằng
bẹn thì chia thành hai ĐM đùi nông và đùi sâu. Đường kính trung bình ĐM
đùi chung khoảng 0.82cm [15]. ĐM đùi chung sát dưới da, kích thước lòng
mạch lớn nên dễ tiến hành chọc kim trong can thiệp nội mạch, đường tiếp
cận với tổn thương ngắn, ngoài ra ĐM đùi được bao quanh bởi hệ thống
cân cơ rất chắc (dây chằng bẹn) đóng vai trò như một băng ép cầm máu
trong quá trình tiến hành thủ thuật và sau can thiệp.
- Hình 1.4: Động mạch chậuđùi.
* Nguồn: theo Frank H.N. (2015) [16].
1.2. Bệnh phình động mạch chủ ngực
1.2.1. Định nghĩa và phân loại phình động mạch chủ ngực
Phình ĐMCN được xác định khi đường kính động mạch chủ ngực tại
vị trí có phình đo được trên phim cắt lớp vi tính lớn hơn 1,5 lần đoạn động
mạch chủ ngực bình thường [17]. Kích thước ĐMCN thay đổi phụ thuộc
vào nhiều yếu tố: độ tuổi, giới tính, chủng tộc…. Bệnh thường gặp ở nam
nhiều hơn nữ với tỉ lệ hiện mắc ở nam là 1,3 8,9% và ở nữ là 1,0 2,2%.
Theo Hội Tim mạch học Việt Nam đường kính trung bình ĐMC là 14
30 mm, khác nhau ở từng đoạn ĐMC ngực:
nguon tai.lieu . vn