Xem mẫu

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO           BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN QUÂN Y ĐỖ THỊ MAI DUNG NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ  MYCOPHENOLIC ACID VÀ SỐ LƯỢNG TẾ BÀO  LYMPHO T MÁU NGOẠI VI Ở BỆNH NHÂN GHÉP  THẬN  LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC HÀ NỘI ­ 2021
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO           BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN QUÂN Y ĐỖ THỊ MAI DUNG NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ  MYCOPHENOLIC ACID VÀ SỐ LƯỢNG TẾ BÀO  LYMPHO T MÁU NGOẠI VI Ở BỆNH NHÂN GHÉP  THẬN  Chuyên ngành: Khoa học y sinh Mã số: 9720101 LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC Hướng dẫn khoa học:  1. PGS.TS. Hà Phan Hải An 2. PGS.TS. Lê Văn Đông HÀ NỘI ­ 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, do chính tôi   thực hiện, tất cả các số  liệu trong luận án này chưa đượ c công bố  trong bất kì công   trình nào khác. Nếu có gì sai trái tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tác giả Đỗ Thị Mai Dung
  4. 4 MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục chữ viết tắt Danh mục bảng Danh mục hình PHỤ LỤC
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Phần viết tắt Phần viết đầy đủ Tiếng Việt BTM Bệnh thận mạn  BTMGĐC Bệnh thận mạn giai đoạn cuối CS Cộng sự ĐTĐ Đái tháo đường HT Huyết tương KN Kháng nguyên KT Kháng thể NC Nghiên cứu SKD Sinh khả dụng ST Suy thận ƯCMD Ức chế miễn dịch Tiếng Anh AcMPAG MPA­acyl­Glucuronide ADCC Antibody­dependent   cellular     cytotoxicity   (gây   độc   tế   bào   qua  trung gian tế bào phụ thuộc kháng thể) AUC Area under the curve  (Diện tích dưới đường cong) AZA Azathioprin CEDIA Clone enzyme donor immunoassay ( Kỹ thuật enzym đồng nhất cạnh tranh) Ct Concentrate time ( Nồng độ thuốc trong máu theo thời gian ) C Concentrate maximum ( Nồng độ đỉnh trong máu ) max Calci neurine inhibitor ( Ức chế Calcineurin ) CNI CsA Cyclosporin EA Enzyme Acceptor ( enzyme nhận ) ED Enzyme Donor ( enzyme cho ) EDTA Ethylene diamin tetraacetic acid EMIT Enzyme­ Multipled Immunoassay Technique  ( Kỹ thuật miễn dịch enzyme được nhân lên) HLA Human leucocyte antigen (kháng nguyên bạch cầu người) HPLC High performance liquid chromatography  ( Sắc ký lỏng hiệu năng cao ) IMPDH Inosine monophosphate dehydrogenase
  6. 6 IL Interleukin IV Intravenous ( tiêm tĩnh mạch ) LC­MS Liquid chromatography – mass spectography ( Sắc ký lỏng khối phổ ) MHC Major histocompatibility complex (phức hợp hòa hợp tổ chức chủ yếu) MMF Mycophenolate mofetil MPA Mycophenolic Acid MPAG Glucoside MPA mARN Messenger ARN ( ARN thông tin ) mTOR  Mammalian Target of Rapamycin NK Natural killer ( tế bào giết tự nhiên ) NO Oxit nitric Pred Prednisolon Tac Tacrolimus TCR T cell receptor TDM Therapy Drug Monitoring (kiểm soát thuốc điều trị) SRL Sirolimus UGT UDP Glucurono Syltransferase DANH MỤC BẢNG Bảng Tên bảng Trang
  7. 8 DANH MỤC HÌNH Hình Tên hình Trang
  8. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh thận mạn giai đoạn cuối (BTMGĐC) là vấn đề  sức khỏe toàn cầu. Nhiều   nghiên cứu tại Mỹ, châu Âu, châu Á cho thấy có khoảng 9­13% dân số thế giới mắc bệnh   thận mạn (BTM). Hầu hết những bệnh nhân này cần phải điều trị thay thế bằng lọc máu  hoặc ghép thận [1]. Dù các biện pháp lọc máu đã có nhiều tiến bộ nhưng tỷ lệ tử vong ở  nhóm bệnh nhân này vẫn cao hơn gấp 20 – 30 lần so với nhóm dân số chung cùng giới, lứa   tuổi và chủng tộc [2].  Ghép tạng nói chung và ghép thận nói riêng là sự tiến bộ vượt bậc của y học thế  kỷ XX và ngày càng phát triển. Tính đến nay, tại Việt Nam, đã có nhiều bệnh nhân ghép  sống trên 15 năm với sức khỏe tốt và tiếp tục làm việc. Kết quả này có được là nhờ vào   việc cải tiến kỹ thuật ghép và đặc biệt là sự  ra đời và phát triển của các loại thuốc ức   chế miễn dịch (ƯCMD).  Tuy nhiên việc sử dụng thuốc ƯCMD sau ghép rất phức tạp. Thuốc ƯCMD có cửa  sổ điều trị hẹp, thiếu thuốc liên quan đến thải ghép và thừa thuốc có thể dẫn đến ngộ độc.  Do đó, việc xác định được chính xác liều lượng thuốc trong cơ thể để từ đó điều chỉnh liều  thuốc phù hợp với từng bệnh nhân, cân bằng được các yếu tố nguy cơ và lợi ích của thuốc  điều trị  chính là yêu cầu bắt buộc góp phần vào thành công của liệu pháp  ƯCMD trong  điều trị ghép tạng.  Sau ghép, bệnh nhân phải sử  dụng thuốc  ƯCMD suốt đời. Các bác sĩ lâm sàng  thường xuyên phải kiểm tra nồng độ  thuốc trong máu của bệnh nhân phối hợp các chỉ  số  sinh hóa để  đưa ra các đơn thuốc tối  ưu cho bệnh nhân. Bên cạnh các xét nghiệm  định lượng nồng độ  thuốc  ƯCMD phổ  biến và thường quy hiện nay như  Cyclosporin  (CsA) và Tacrolimus (Tac) [3], xét nghiệm Mycophenolic acid (MPA) [4] đã được triển  khai ở nhiều nước trên thế giới nhưng chưa được thực hiện tại Việt Nam, trong khi số  bệnh nhân sau ghép tại bệnh viện Việt Đức có tới 100% được chỉ  định sử  dụng MPA   (Cellcept hoặc Myfotic). Việc điều chỉnh liều của thuốc này vẫn đang dựa theo khuyến  cáo của nhà sản xuất và kinh nghiệm bác sỹ lâm sàng. Thói quen sử dụng một mức liều   MPA duy nhất cho mọi bệnh nhân liệu có đạt nồng độ   đích, phù hợp và an toàn hay  không, theo Hướng dẫn ghép thận Việt Nam năm 2017 của Hội ghép tạng Việt Nam thì   đây là vấn đề  đang tranh cãi [5]. Quan điểm về  liều điều trị  thay đổi từ  việc sử  dụng   liều cố định cho các bệnh nhân đến việc theo dõi nồng độ để tối ưu hóa liều đích được  khá nhiều nghiên cứu trên thế  giới đề  cập, việc cho liều sử  dụng của bệnh nhân dựa  trên các cá thể, đánh giá các nguy cơ miễn dịch cũng như làm sao để giá trị AUC rơi vào  khoảng giá trị  từ  30 ­ 60 mg.h/L là được chấp nhận [6].  Jinsoo Rhu, M.D. và cộng sự 
  9. (2018) nghiên cứu nồng độ đáy các thuốc ức chế miễn dịch trên 90 bệnh nhân ghép thận  sử dụng phác đồ 3 thuốc cyclosporin, mycophenolate và methylprednisolone thì nhóm chỉ  đạt nồng độ  mục tiêu cyclosporin cho thấy nguy cơ  bị thải ghép cao hơn so với nhóm   đạt chỉ đạt nồng độ đáy MPA và nhóm đạt nồng độ đáy cả 2 thuốc (tỷ lệ nguy cơ [HR]:   4.112; khoảng tin cậy 95%[CI]: 1.583 ­ 10.683; p= 0,004)   [129].   Thuốc MPA là một  chất  ức chế  thuận nghịch của inosine­5ʹ­monophosphate dehydrogenase (IMPDH), một  enzyme quan trọng tham gia vào quá trình tổng hợp de novo nucleotide guanosine, rất  cần thiết cho sự tăng sinh của tế bào T và B. Do đó, sự suy giảm nucleotide guanosine  do MPA ngăn cản quá trình sao chép DNA, dẫn đến ức chế cả miễn dịch qua trung gian   tế bào và dịch thể và gây ra khả năng dung nạp thận ghép trong ghép thận [7].  Jamali S.  và CS [46] theo dõi trên bệnh nhân trước và sau 4 tháng ghép thận đều tăng tỷ lệ dòng tế  bào lympho TCD4, nhưng ở nhóm bệnh nhân dùng Tac /MPA có sự tăng tỷ lệ các tế bào   lympho TCD4 sau ghép hơn so với nhóm dùng Tac/SRL.  Ở  Việt Nam chưa có nghiên  cứu nào về việc sử dụng MPA trên  bệnh nhân ghép. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài:   “Nghiên cứu mối liên quan giữa nồng độ  Mycophenolic acid và số  lượng tế  bào   lympho T máu ngoại vi ở bệnh nhân ghép thận” với mục tiêu sau: 1) Khảo sát nồng độ  Mycophenolic acid và diện tích dưới đường cong (AUC 0­ ) ở ngày thứ 3, 10 và 6 tháng sau ghép thận. 12 2) Đánh giá mối liên quan giữa nồng độ Mycophenolic acid với đáp ứng miễn   dịch thông qua sự thay đổi số lượng tế bào lymphoT CD 3, 4, 8 trên bệnh nhân ghép   thận .
  10. CHƯƠNG 1  TỔNG QUAN 1.1. Đại cương về ghép thận 1.1.1. Khái niệm chung về ghép tạng Ghép tạng là cấy ghép tạng (hay bộ phận cơ thể) từ cơ thể cho tạng sang cơ thể  nhận tạng. Tạng ghép có thể được ghép vào cùng vị trí cũ của tạng bệnh đã phải cắt bỏ  hay được ghép vào vị trí khác. Ghép tạng gồm 3 loại là ghép tự thân, ghép đồng loài và ghép dị loài. ­ Ghép tự  thân (autograft) là mảnh ghép được lấy và cấy ghép trên cùng một cơ  thể. ­ Ghép đồng loài (homograft) là ghép trong cùng loài. ­ Ghép dị loài (xenograft) là ghép khác loài. Thận là tạng được tiến hành ghép thành công sớm nhất vì ghép thận không cần  cắt bỏ thận cũ mà thận hiến được ghép vào vị  trí khác. Điều này làm cho các kỹ  thuật  thao tác được tiến hành dễ dàng hơn. 1.1.2. Một số nét lịch sử  về tình hình ghép thận 1.1.2.1. Tình hình ghép thận trên thế giới Năm 1950, Bác sỹ  Richard Lawler,  ở  Chicago, công bố  một trường hợp ghép  thận cho bệnh nhân, nhưng chỉ  một thời gian ngắn, bệnh nhân chết vì phản  ứng loại  thải. Đến năm 1953, Bác sỹ John P. Merrill cùng với các cộng sự ở bệnh viện  Boston đã  lấy thận của người anh ghép cho người em sinh đôi. Người em được ghép thận tên   Richard Harris sống được thêm 8 năm. Đây là trường hợp ghép thận được đánh giá là   thành công đầu tiên [8], [9]. Năm 1954, cũng ở Mỹ, Bác sỹ Joseph. E. ghép thận giữa hai anh em sinh đôi cùng   trứng. Người nhận sống thêm được 7 năm. Năm 1960, các nhà y học nắm rõ được quy   luật loại thải của hệ  miễn dịch. Với các chất  ƯCMD    như  corticoid, azathioprine,   immuran, kháng thể kháng lympho bào, các nhà giải phẫu Mỹ đã có thể  tiến hành ghép   thận từ người hiến không cùng huyết thống và từ thận của người hiến khi chết [8], [9]. Năm 1962, các nước Âu châu lần lượt ghép được thận. Tuy nhiên, tại thời điểm   này và với số lượng thuốc ức chế miễn dịch đang có, việc ghép thận vẫn chưa được an 
  11. toàn. Nếu thận cho của người cùng huyết thống, tỷ  lệ  thành công 70%. Thận cho từ  những người không liên quan huyết thống, nhưng có dùng thuốc  ƯCMD, tỷ  lệ  thành  công 20%. Trường hợp không cùng huyết thống, không dùng thuốc ƯCMD, cơ hội sống   sót chỉ 1% [10]. Năm 1974, tình hình ghép thận và mô tạng thực sự  sáng sủa khi thuốc  ƯCMD   CsA xuất hiện. Tỷ lệ người được ghép thận sống trên 1 năm tăng lên 80 – 90% so với   20% trước đó và tỷ lệ sống được 5 năm tăng lên đáng kể [10].  Năm 1985, nhà giải phẫu Mỹ Thomas Starzl sử dụng thuốc  ƯCMD dịch mới FK   506 của Nhật để ghép thận cho 40 bệnh nhân. Kết quả tuyệt vời, không có trường hợp  phản  ứng loại thải. Từ  giai đoạn này trở  về  sau, phản  ứng loại thải hầu như  được  khắc phục nhờ ngày càng có nhiều loại thuốc mới: Mycophenolic 1985, Tac 1989, năm  2004 có các thuốc Rapamycin, Mizoribin, Mycophenolate mofetil ( MMF )... Việc ghép  thận trở thành thường quy và đại trà đối với các nhà phẫu thuật  ở  các nước phát triển   [11]. 1.1.2.2. Tình hình ghép thận tại Việt Nam Đầu những năm 70 của thế  kỷ  XX, Học viện Quân y đã ghép thận   thực nghiệm. Đến ngày 4/6/1992, trường hợp ghép thận đầu tiên  ở  Việt   Nam đã được thực hiện thắng lợi với những nỗ  lực của các thầy thuốc  bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y, với sự giúp đỡ của các chuyên gia   Đài Loan.  Tháng 12/1992, bệnh viện Chợ Rẫy đã triển khai ghép thận. Đến nay, đây là cơ sở  y tế có số lượng ghép thận nhiều nhất trong cả nước.  Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức được bắt đầu năm 2002 với ca ghép thận đầu tiên  từ người hiến khoẻ mạnh. Đến năm 8/2019, tại Việt Nam có 19 Trung tâm ghép thận với gần 4000 bệnh nhân   đã được ghép thận. 1.2.2.3. Chỉ định và chống chỉ định ghép thận * Chỉ định ghép thận Suy thận mạn giai đoạn cuối có nguyện vọng được ghép thận. 
  12. Khi có tình trạng toàn thân và tình trạng mạch máu vùng chậu tốt để  có thể tiến hành phẫu thuật ghép thận. Tình trạng tim mạch ổn định. Huyết  áp được kiểm soát tốt [5].  * Chống chỉ định : Bệnh nhân có bệnh lý ác tính. Nhiễm khuẩn cấp chưa kiểm soát. Bệnh lý tim mạch, tắc nghẽn mạch máu não. Bệnh lý đông máu [5] 1.1.3. Đáp ứng miễn dịch thải ghép Sau ghép tạng, cơ thể có đáp ứng miễn dịch chống lại mô ghép. Việc  mô ghép có thể tồn tại hoặc bị thải bỏ được quyết định bởi các protein do   các gen nằm trong phức hợp gen phù hợp mô mã hóa gọi là kháng nguyên   ghép hay kháng nguyên phù hợp mô. Kháng nguyên này được mã hóa trên 40  vị  trí, nhưng vị  trí gây phản  ứng thải ghép mạnh nhất nằm trên kháng   nguyên hòa hợp mô chủ yếu. Ở người, kháng nguyên hòa  hợp mô chủ yếu   được gọi là hệ  thống HLA (human leukocyte antigens), các gen kiểm soát  hệ thống HLA được định vị trên nhiễm sắc thể 6 [13]. Các kháng nguyên trong hệ thống HLA được chia thành 2 lớp : lớp I và  lớp II. Kháng nguyên lớp I hoạt động như  một đơn vị  nhận dạng miễn  dịch, phát hiện protein lạ  và quyết định tính đặc hiệu của lympho bào T  chống lại kháng nguyên lạ. Kháng nguyên lớp II có vai trò chính trong đáp  ứng miễn dịch chống lại kháng nguyên ghép [13]. Sau ghép, phản ứng thải  ghép xảy ra nhanh hay chậm tùy thuộc vào các yếu tố sau: ­ Mức độ phù hợp kháng nguyên HLA giữa người nhận và người cho.   Càng có ít kháng nguyên HLA phù hợp thì khả năng thải ghép càng cao. ­   Sự   phơi   nhiễm   của   hệ   thống   miễn   dịch   người   nhận   với   kháng 
  13. nguyên người cho từ trước. ­ Đáp ứng của hệ thống miễn dịch người nhận. 1.1.3.1. Tế bào lympho T và đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào * Nguồn gốc tế bào lympho T Từ  tế  bào nguyên thủy của tủy xương sau một số  lần biệt hóa đã   tách ra nhánh lympho rồi từ  đây lại tách ra 2 nhánh nữa là T và B, cùng  được đưa vào vòng tuần hoàn từ  rất sớm, khi cơ thể  ở giai đoạn bào thai;   trong đó tế bào lympho T bị giữ lại ở tuyến ức nhờ lực hấp dẫn hóa hướng  động rất lớn  của chất thymotaxin do tuyến ức tiết ra. Vùng vỏ tuyến ức là   nơi định cư đầu tiên, ở đây có các tế bào non nhất và đông đảo nhất (chiếm  90 – 95% tổng số   ức bào). Nhờ  các hormon “tại chỗ” do tuyến  ức tiết ra   cho các  ức bào có môi trường phù hợp để  sinh sản, biệt hóa, chọn lọc và  trưởng thành, sau đó di cư vào vùng tủy ức, tiếp tục được chọn lọc và chín,   rồi được tung vào máu để  định cư  lâu dài  ở  các cơ  quan và mô lympho   ngoại vi như hạch, lách, niêm mạc.... Trong máu, tế bào lympho T có tỷ lệ  và số lượng cao (60 – 70%) hơn hẳn B, rất phù hợp với chức năng săn lùng  và nhận biết những kháng nguyên mới xâm nhập [14]. * Quá trình biệt hóa và chọn lọc ở tuyến ức Trên bề  mặt tế  bào lympho T tuyến  ức có những protein biến đổi  theo giai đoạn biệt hóa của tế bào: một số được sản xuất mới, một số lại   biến đi (vĩnh viễn hoặc tạm thời). Điều này được sử dụng để phân loại và  xác định giai đoạn chín của tế  bào lympho T, đồng thời còn có thể  phân   loại T với các tế bào khác không phải T. Cũng do đó, các protein trên được  coi là “dấu  ấn” bề  mặt của tế bào. Từ  nhiều tên gọi do nhiều tác giả  đặt  cho, đến nay đã thống nhất chọn tên cho các protein dấu  ấn đó là CD kèm   theo các con số nói lên thứ tự phát hiện của nó (C: cluster hay class nghĩa là 
  14. cụm, lớp; D:  determinant  hay diferentiation nghĩa là xác  định, biệt hóa).  Chẳng hạn tế bào non nhất  ở  vỏ  tuyến  ức có CD38 (và một số  CD giống   như  của tế  bào lympho  ở  tủy xương). Tiếp đó xuất hiện thêm các CD2,   CD7, CD4, CD8... (và chỉ  còn rất ít dấu vết  ở  tủy xương) nói lên một giai  đoạn trưởng thành khác. Khi vào vùng tủy ức, các tế bào lympho tách thành  2 dòng nhỏ  : a) một dòng mất CD8 (còn CD4 và các CD khác), đó là tiền  thân của T hỗ trợ (Th); và b) một dòng mất CD4 (còn CD8 và các CD khác),  đó là tiền thân của T ức chế  (Ts) và T gây độc (Tc). Có thể so sánh :  T hỗ trợ (Th) : có CD4, CD2, CD3, CD5, CD7, ..... T gây độc (Tc): có CD8, CD2, CD3, CD5, CD7, .....   Là những protein khác nhau, mỗi CD có mặt hay mất đi đều liên quan đến   chức năng mà nó phụ trách [14]. * Lympho T trong đáp ứng miễn dịch tế bào ­ Nhận biết kháng nguyên: + Vai trò của thụ thể tế bào lympho T Phân tử CD4 hay CD8 là thụ thể giúp Th và Tc tiếp cận đúng tế  bào  trình kháng nguyên bằng MHC II hay là MHC I. Còn việc trực tiếp nhận biết   kháng nguyên lại do một thụ thể khác của lympho T (TCR : T cell receptor).   Thụ  thể  này có cấu trúc đại thể  tương tự  như  kháng thể  vì vậy được xếp   vào đại gia đình Ig và cũng có tính đa dạng như Ig [14]. + Vai trò của MHC và các phân tử kết nối : MHC là phân tử  có nhiệm vụ  trình diện kháng nguyên cho tế  bào  lympho T sau khi tế  bào trình diện đã thực bào và xử  lý kháng nguyên đó,   nghĩa là kháng nguyên từ dạng protein hình cầu ( do chuỗi peptid cuộn chặt   lại) phải được cắt thành các đoạn peptid đủ nhỏ và thẳng, có kích thước phù  hợp với rãnh chứa peptid của các phân tử MHC. Nếu một protid bị cắt thành 
  15. n peptid kháng nguyên thì tế  bào trình kháng nguyên phải có ít nhất n loại   phân tử MHC đặc hiệu cho từng peptid đó [14]. + Vai trò của các phân tử kết dính Tế bào lympho T liên kết với APC ít nhất bằng hai lực: a) CD4 (hoặc  CD8) với MHC (II hoặc I); và b) TCR với peptid kháng nguyên. Thực tế các  cặp liên kết phân tử MHC­CD và TCR­KN cũng là những cặp kết dính. Trên   tế bào nhận biết (TCD4, TCD8) có các phân tử  mang tên LFA­1 và các CD   khác làm nhiệm vụ kết dính [14]. ­ Chức năng hoạt hóa và điều hòa kiểm soát miễn dịch : Chức năng hoạt hóa,  điều hòa kiểm soát miễn dịch được giao cho Th và Ts. Đây là giai đoạn “sau   nhận biết” [14]. ­ Chức năng loại trừ kháng nguyên của miễn dịch tế bào + Vai trò của Th: nhận biết kháng nguyên và tiết ra các interleukin như IL4,  IL5...tác động làm tế  bào lympho B trở  thành tương bào và sinh kháng thể  dịch thể đặc hiệu với kháng nguyên đã nhận biết bởi Th.[14] + Vai trò của Tc:  Thể  hiện bằng tiết ra các độc tố  đối với tế  bào có tên  chung là cytotoxin, diệt tế bào đích [14]. + Vai trò của tế bào lympho T quá mẫn muộn : Có vai trò tạo ổ viêm, các tế  bào viêm tập trung đến  ổ  viêm khu trú kháng nguyên lại và loại trừ  kháng  nguyên tại chỗ [14]. + Vai trò của một số  tế bào khác : Natural killer cell (NK – tế bào diệt tự  nhiên): cơ chế diệt tế bào đích tương tự Tc. Killer cell (K : tế bào diệt): có khả năng tiêu diệt tế bào đích rất hiệu  quả. Lymphokin activated killer cell (LAK) : là tế  bào NK được hoạt hóa  bởi một số lymphokin như IL­2, IFN  ..khả năng diệt tế bào đích mạnh mẽ 
  16. hơn tế bào NK và tế bào K [14].  ­ Chức năng ghi nhớ miễn dịch: Khi tế bào lympho T ở hạch gần nhất gặp   kháng nguyên lần đầu sẽ  tăng sinh rất mạnh và trên bề  mặt sẽ  hình thành  thụ thể đặc hiệu với nhóm quyết định kháng nguyên tương ứng. Sau 6 ngày  các tế bào lympho T được mẫn cảm này có thể nhận biết kháng nguyên đó  và phát động các cơ chế loại trừ, đồng thời tạo nên những tế bào lympho có  trí nhớ, có tên là tế bào Th nhớ, sau đó cả lympho B nhớ và Tc nhớ. Khi gặp   kháng nguyên lần 2, chỉ sau 10 giờ là đã có đáp ứng [14]. * Quá trình hình thành miễn dịch tế bào ­ Điều kiện để có miễn dịch tế bào: Có hai quần thể tế bào : trình diện ( đại  thực bào) và quần thể tế bào nhận biết ( tế bào lympho T) ở cơ thể đáp ứng  miễn dịch. Hai quần thể  tế bào này phải có cùng kháng nguyên hòa hợp mô chủ  yếu.   [14]. ­ Mẫn cảm để hoạt hóa tế bào lympho T + Mẫn cảm lần đầu: Kháng nguyên được đại thực bào đưa theo đường bạch  huyết đến hạch gần nhất. Tế  bào lympho T  ở  vùng vỏ  hạch đó tăng sinh  mạnh   làm   sưng   to   hạch.   Trên   bề   mặt   tế   bào   lympho   T   này   hình   thành  receptor đặc hiệu với quyết định kháng nguyên. Sau 6 ngày, những tế  bào  lympho này được mẫn cảm, rời hạch tới lách, các hạch khác và vào tuần   hoàn để nhận biết kháng nguyên lạ đó và loại trừ chúng [14].   + Mẫn cảm lần sau ( viêm đặc hiệu):  Nếu kháng nguyên mẫn cảm lần  trước vào lại thì chỉ  cần 10 giờ  sau tại chỗ  tiêm sẽ  xuất hiện viêm. Phản  ứng viêm tăng dần và đạt mức tối đa khoảng 48 – 72 giờ  sau. Các tế  bào  thâm nhiễm ở ổ viêm là bạch cầu đơn nhân, tế bào langerhan biểu bì, tế bào   lympho T và một ít tế bào lympho B [14].
  17. + Kết quả của miễn dịch tế bào Hoạt hóa các tế bào có thẩm quyền miễn dịch. Phát triển quần thể tế  bào lympho Th và các tế bào khác như  Tc, T diệt, T mẫn cảm muộn. Hoạt   hóa tế  bào lympho B, lympho Tc. Tập trung nhiều tế bào viêm đến nơi có   kháng nguyên gây viêm đặc hiệu, gây quá mẫn chậm. Tạo các tế bào lympho   Th nhớ, Tc nhớ và tế bào lympho B nhớ [14].
  18. 1.1.3.2. Cơ chế miễn dịch thải ghép Sau ghép tạng, tế bào T của vật chủ sẽ tăng sinh, tăng sự gắn kết với tế  bào trình diện kháng nguyên để  “tiêu diệt” tạng ghép. Thụ  thể  CD3 nằm  xung quanh thụ thể của tế bào T (T cell receptor) giữ vai trò dẫn truyền tín  hiệu số 1 khi thụ thể tế bào T nhận diện nhóm phù hợp tổ chức chính từ tế  bào trình diện kháng nguyên. Tín hiệu này sẽ  kích hoạt tế  bào T tăng sản   xuất interleukin 2 qua 3 con đường là calcineurin, MAP ( Mitogen Activated  Protein)   kinase   và  NF­κB  (Nuclear   Factor   Kappa­light­chain­enhancer   of  activated B cells).  Việc tăng sản xuất interleukin 2 s ẽ làm lộ  diện thụ thể interleukin 2   trên bề  mặt tế  bào này,   nhân tế  bào T còn làm lộ  diện những thụ  thể  đồng kích thích (costimulatory receptor) trên bề  mặt tế  bào T hoạt hóa,   làm tăng sự  gắn kết giữa tế  bào T và tế  bào trình diện kháng nguyên và  làm tối ưu hóa sự gắn kết dẫn truyền tín hiệu thứ 1 của tế bào T. Sự kết   gắn này gọi là tín hiệu thứ 2 [13]. Sự  bài tiết interleukin 2 được coi như  một autokin, gi ữ  vai trò dẫn   truyền tín hiệu thứ  3, có vai trò dẫn truyền tín hiệu qua đườ ng mTOR  (Mammalian Target of Rapamycin) trở  vào nhân tế  bào T và các tế  bào  xung quanh làm tăng sinh dòng tế bào T đặc hiệu, có khả năng nhận diện  kháng nguyên lạ, chuyên biệt. Chính những tế bào này sẽ  xâm nhập vào  tạng ghép và gây thải ghép.  1.1.3.3. Các biện pháp ngăn cản thải ghép. ­ Đọ kháng nguyên phù hợp mô giữa người cho và người nhận là biện   pháp quan trọng để tăng thời gian sống thêm của tạng ghép, cụ thể là phải  đọ kháng nguyên ABO và HLA. ­ Định typ mô: hiện nay đã sản xuất được kháng thể  đơn dòng được 
  19. tiêu chuẩn hóa để định typ mô. ­ Phát hiện tình trạng tiền mẫn cảm sẵn có bằng cách cho huyết thanh người nhận   phản ứng với lympho bào có đầy đủ kháng nguyên phù hợp mô. ­ Sử dụng thuốc  ƯCMD: là biện pháp được sử  dụng lâu dài sau ghép.   Sự  ra đời của các thuốc  ƯCMD đã mang lại diện mạo mới cho chuyên  ngành ghép nói chung cũng như ghép thận nói riêng, tuy nhiên việc sử dụng   thuốc  ƯCMD sau ghép rất phức tạp. Sự  kết hợp thuốc cũng như  sử  dụng   thuốc lâu dài sẽ  làm tăng tác dụng phụ  của thuốc, gây khó khăn cho các   thầy thuốc lâm sàng. Thuốc ƯCMD có cửa sổ điều trị hẹp, thiếu thuốc liên  quan đến thải ghép và thừa thuốc có thể  dẫn đến ngộ  độc. Do đó, việc  điều chỉnh liều thuốc phù hợp với từng bệnh nhân, cân bằng được các yếu  tố  nguy cơ  và lợi ích của thuốc điều trị  chính là thành công của của liệu   pháp  ức chế  miễn dịch. Các phác đồ  sử  dụng thuốc cần được cá thể  hoá  như:  nam  và  nữ; già  và  trẻ; Sự  khác biệt theo chủng tộc về  chuyển hoá;  châu Phi, châu Á, người da trắng. Hình 1.1. Các đường dẫn truyền tín hiệu và cơ chế tác dụng của thuốc ức chế   miễn dịch 
nguon tai.lieu . vn