Xem mẫu
- 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
“Sức khoẻ là vốn quý nhất của con người, là một trong những điều
cơ bản để con người sống hạnh phúc, là mục tiêu và là nhân tố quan trọng
trong việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và bảo vệ Tổ quốc” [1]. Theo
xu thế phát triển của xã hội thì chăm sóc sức khỏe (CSSK) của con người
luôn là chính sách trọng tâm của Đảng và Nhà nước. Bảo hiểm y tế
(BHYT) ra đời và nhanh chóng trở thành một chính sách an sinh xã hội quan
trọng, mang ý nghĩa nhân đạo và có tính đoàn kết, tương trợ, chia sẻ cộng
đồng sâu sắc.
Trong công tác CSSK, thuốc là một trong những yếu tố quyết định
đến kết quả điều trị của bệnh nhân (BN) thông qua mô hình bệnh tật, thầy
thuốc kê đơn và khả năng chi trả. Vì vậy, công tác đảm bảo thuốc có vai
trò quan trọng, phải luôn đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu khám và điều trị
cho BN, đồng thời đảm bảo tiêu chí “Hợp lý, an toàn, hiệu quả” và đúng
qui định của Luật đấu thầu.
Thuốc luôn chiếm từ 40 – 60% ngân sách dành cho y tế, mặc dù công
tác đảm thuốc có nhiều tiến bộ trong thời gian qua song vẫn còn nhiều bất
cập. Một trong những nguyên nhân được xác định là công tác quản lý chưa
phù hợp [2]. Vì vậy, để hạn chế những bất cập trong công tác đảm bảo
thuốc thì các nhà quản lý cần làm tốt cả 4 khâu (trong quy trình): Lựa chọn,
mua, tồn trữ và cấp phát, sử dụng. Một số nghiên cứu đã cho thấy hiệu quả
rõ rệt khi can thiệp vào các khâu trên như luận án của Nguyễn Trung Hà
(2012) [3], Huỳnh Hiền Trung (2012) [4], Hoàng Thị Minh Hiền (2012) [5].
Từ năm 2015, một số cơ sở y tế (CSYT) có giường bệnh trong Quân
đội đã thí điểm nhận BN có thẻ BHYT để khám và điều trị theo Nghị định
- 2
số 70/2015/NĐCP [6]. Bệnh viện Quân y 105 (BVQy 105) là một trong
những đơn vị quân đội đầu tiên được Cục Quân y thí điểm thực hiện chính
sách BHYT toàn dân. Vì vậy, ngoài nhiệm vụ CSSK cho bộ đội và thân
nhân, bệnh viện còn CSSK cho nhân dân trong khu vực. Hiện nay, bệnh
viện đã và đang phát triển khoa học kỹ thuật toàn diện, đáp ứng được mọi
nhiệm vụ được giao và là cơ sở tin cậy cho BN có nhu cầu khám và điều
trị. Tuy nhiên, trong công tác đảm bảo thuốc vẫn còn một số tồn tại như:
Số lượng thuốc mua và sử dụng chưa phù hợp với kết quả trúng thầu, tỷ
lệ sử dụng nhóm thuốc không thiết yếu cao, quá trình xây kế hoạch và sử
dụng danh mục thuốc (DMT) chưa được định lượng thông qua phân tích
ABC/VEN, chưa xây dựng được các phác đồ điều trị chuẩn… Vì vậy, luận
án được thực hiện: “Nghiên cứu hoạt động đảm bảo thuốc bảo hiểm y tế
tại Bệnh viện Quân y 105 từ năm 2015 2018” để phân tích những bất cập
trong sử dụng thuốc và nguyên nhân của những bất cập đó, từ đó đề xuất
một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác đảm bảo
thuốc cho BN có thẻ BHYT.
Luận án gồm có 2 mục tiêu sau:
1. Phân tích được thực trạng công tác đảm bảo thuốc bảo hiểm y
tế tại Bệnh viện Quân y 105 từ năm 2015 2018.
2. Phân tích được một số bất cập trong sử dụng thuốc bảo hiểm
y tế tại Bệnh viện Quân y 105 từ năm 2015 – 2018 và đề xuất một số
giải pháp trong năm 2019.
Kết quả nghiên cứu là cơ sở lý luận khoa học để các nhà quản lý
nâng cao chất lượng hoạt động đảm bảo, sử dụng và thanh toán thuốc
BHYT tại BVQy 105 nói riêng và các bệnh viện trong Quân đội nói chung.
- 3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẢM BẢO THUỐC
1.1.1. Quy trình đảm bảo thuốc trong bệnh viện
̉ ̉ ̀ ̣ ̀
Bao đam thuôc hay con goi la cung
́ ứng thuốc là một chuỗi các hoạt
động bao gồm từ việc lựa chọn thuốc, đến tổ chức mua sắm, tồn trữ và
cấp phát đến sử dụng thuốc. Quy trình đảm bảo thuốc trong bệnh viện
được mô tả theo sơ đồ (Hình 1.1) dưới đây:
Hinh 1.1.
̀ ̀ ảm bảo thuôc trong bênh viên
Quy trinh đ ́ ̣ ̣
Nguồn: theo MSH (2010) [7].
Như vậy, 4 khâu trên luôn liên kết chặt chẽ, bổ sung cho nhau để tạo
nên một quy trình đảm bảo thuốc cung cấp cho nhu cầu khám chữa bệnh
(KCB). Quy trình đảm bảo thuốc chỉ đạt được hiệu quả tốt khi các khâu
trong quy trình đều được quản lý chặt chẽ, theo đúng trình tự logic.
- 4
1.1.1.1. Lựa chon thuôc
̣ ́
Lựa chọn thuốc là bước đầu tiên trong quy trình đảm bảo thuốc cho
nhu cầu KCB nói chung và cho công tác xây dựng DMT bệnh viện nói
riêng. Theo hướng dẫn của Thông tư số 21/2013/TTBYT về tổ chức và
hoạt động của Hội đồng Thuốc và điều trị (HĐT&ĐT) trong bệnh viện,
HĐT&ĐT có nhiệm vụ xây dựng DMT bệnh viện theo nguyên tắc sau và
các bước sau [8]:
* Nguyên tắc xây dựng danh mục thuốc:
Bảo đảm phù hợp với mô hình bệnh tật và chi phí về thuốc dùng
điều trị trong bệnh viện;
Phù hợp về phân tuyến chuyên môn kỹ thuật;
Căn cứ vào các hướng dẫn hoặc phác đồ điều trị đã được xây dựng
và áp dụng tại bệnh viện hoặc cơ sở KCB;
Đáp ứng với các phương pháp mới, kỹ thuật mới trong điều trị;
Phù hợp với phạm vi chuyên môn của bệnh viện;
Thống nhất với DMT thiết yếu, DMT chủ yếu do Bộ Y tế ban
hành;
Ưu tiên thuốc sản xuất trong nước.
* Các bước xây dựng danh mục thuốc:
Thu thập, phân tích tình hình sử dụng thuốc năm trước về số lượng
và giá trị sử dụng, phân tích ABC VEN, thuốc kém chất lượng, thuốc
hỏng, các phản ứng có hại của thuốc, các sai sót trong điều trị dựa trên các
nguồn thông tin đáng tin cậy, trong đó:
+ Phân tích ABC là phương pháp phân tích tương quan giữa lượng
thuốc tiêu thụ hàng năm và chi phí nhằm phân định ra những thuốc nào
- 5
chiếm tỷ lệ lớn trong ngân sách cho thuốc của bệnh viện. Phân hạng sản
phẩm được tính như: Hạng A: Gồm những sản phẩm chiếm 75 80 %
tổng giá trị tiền; Hạng B: Gồm những sản phẩm chiếm 15 20 % tổng giá
trị tiền; Hạng C: Gồm những sản phẩm chiếm 5 10 % tổng giá trị tiền.
Thông thường, hạng A chiếm 10 – 20% tổng số sản phẩm, hạng B chiếm
10 – 20% và còn lại là hạng C chiếm 60 80%.
+ Phân tích VEN là phương pháp giúp xác định ưu tiên cho hoạt động
mua sắm và tồn trữ thuốc trong bệnh viện khi nguồn kinh phí không đủ để
mua toàn bộ các loại thuốc như mong muốn. Trong phân tích VEN, các
thuốc được phân chia thành 3 hạng mục cụ thể như sau:
Thuốc V (Vital drugs) là thuốc dùng trong các trường hợp cấp cứu
hoặc các thuốc quan trọng, nhất thiết phải có để phục vụ công tác khám
bệnh, chữa bệnh của bệnh viện.
Thuốc E (Essential drugs) là thuốc dùng trong các trường hợp bệnh
ít nghiêm trọng hơn nhưng vẫn là các bệnh lý quan trọng trong mô hình
bệnh tật của bệnh viện.
Thuốc N (NonEssential drugs) là thuốc dùng trong các trường hợp
bệnh nhẹ, bệnh có thể tự khỏi, có thể bao gồm các thuốc mà hiệu quả
điều trị còn chưa được khẳng định rõ ràng hoặc giá thành cao không tương
xứng với lợi ích lâm sàng của thuốc.
Đánh giá các thuốc đề nghị bổ sung hoặc loại bỏ từ các khoa lâm
sàng một cách khách quan;
Xây dựng DMT và phân loại các thuốc trong danh mục theo nhóm
điều trị và theo phân loại VEN;
Xây dựng các nội dung hướng dẫn sử dụng DMT.
- 6
Như vậy, DMT bệnh viện được HĐT&ĐT xây dựng trên cơ sở DMT
thiết yếu, DMT chủ yếu và DMT chữa bệnh được quỹ BHYT thanh toán
do Bộ Y tế ban hành.
Theo Luật Dược (2016): “Thuốc thiết yếu là thuốc đáp ứng nhu
cầu CSSK của đa số nhân dân thuộc DMT thiết yếu do Bộ Y tế ban
hành” [9]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): “Thuốc thiết yếu là
những loại thuốc đáp ứng nhu cầu sức khỏe ưu tiên của một nhóm
dân số cụ thể” [10].
Năm 1978, Tuyên ngôn Alma Ata xác định “Chăm sóc sức khỏe
ban đầu đòi hỏi một nguồn cung cấp liên tục thuốc thiết yếu” [11].
Đến năm 2019, WHO đã công bố DMT thiết yếu lần thứ 21 với 570
khoản thuốc [12]. Việc tiếp cận các loại thuốc thiết yếu phụ thuộc
vào bốn yếu tố: Lựa chọn hợp lý, giá cả phải chăng, tài chính bền
vững và hệ thống y tế đáng tin cậy [13].
Nhận rõ vai trò to lớn của thuốc thiết yếu trong CSSK nói chung
và CSSK ban đầu nói riêng, từ năm 1985, Bộ Y tế đã ban hành DMT
thiết yếu lần thứ I. Danh mục này sau đó đã được cập nhật, điều
chỉnh và ban hành vào các năm 1989, 1995, 1999 và 2005 [14]. DMT
thiết yếu lần thứ VII được ban hành gần đây nhất vào năm 2018 [20].
Trên cơ sở DMT thiết yếu, ngày 1/2/2008, Bộ Y tế đã ban hành
DMT chữa bệnh chủ yếu sử dụng tại các cơ sở KCB làm cơ sở để
thanh toán cho các đối tượng có thẻ BHYT [16]. Chính sách quốc gia
về thuốc giai đoạn 1996 2000 đã đề ra mục tiêu “Bảo đảm cung ứng
thường xuyên và đủ thuốc có chất lượng đến người dân. Bảo đảm sử
dụng thuốc hợp lí, an toàn, có hiệu quả” [17]. Chính phủ đã xây dựng
- 7
chiến lược quốc gia phát triển ngành Dược Việt Nam giai đoạn đến
năm 2020 và tầm nhìn 2030 [18].
Từ năm 2005 2018, Bộ Y tế đã ban hành 3 lần DMT thiết yếu
và 3 lần DMT chủ yếu. Kết quả tổng hợp được thể hiện ở bảng 1.1
dưới đây:
Bảng 1.1. Danh mục thuốc do Bộ Y tế ban hành
DMT thiết yếu DMT chủ yếu
Năm
Số ban hành SKM thuốc Số ban hành SKM thuốc
2005 17/2005/QĐBYT 325 03/2005/QĐBYT [21] 646
[15]
2008 05/2008/QĐBYT [22] 750
2013 45/2013/TTBYT [19] 466
2014 01/2014/TTHNBYT 1.143
[23]
2018 19/2018/TTBYT [20] 510
SKM của DMT thiết yếu tăng dần từ 325 (năm 2005) lên 510
khoản (năm 2018), của DMT chủ yếu tăng từ 646 (năm 2005) lên 1.143
khoản (năm 2014). Như vậy, DMT thiết yếu ngày càng tăng về số
lượng nhằm đảm bảo số chủng loại thuốc thiết yếu cho mô hình
bệnh tật trong nước. Trong khi đó, DMT chủ yếu là DMT được cơ
quan BHYT thanh toán luôn có SKM cao gấp đôi DMT thiết yếu, giúp
cho thầy thuốc có nhiều sự lựa chọn thuốc để điều trị cho BN tham
gia BHYT.
Bên cạnh DMT chủ yếu, Bộ Y tế còn ban hành “ Thông tư ban
hành và hướng dẫn thực hiện danh mục thuốc tân dược thuộc phạm vi
- 8
thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế” năm 2014 với 1.064 SKM thuốc và
“Thông tư ban hành Danh mục và tỷ lệ, điều kiện thanh toán đối với
thuốc hóa dược, sinh phẩm, thuốc phóng xạ và chất đánh dấu thuộc
phạm vi được hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế” năm 2018 với
1.030 SKM thuốc [24], [25].
1.1.1.2. Mua thuôć
Sau khi có kết quả lựa chọn thuốc, mua thuốc là bước tiếp theo
trong quy trình đảm bảo thuốc và là khâu có vai trò cụ thể hoá bước
lựa chọn thuốc. Mua thuốc là một phần rất quan trọng trong quản lý
đảm bảo thuốc ở tất cả các cấp độ CSSK. Mua thuốc là một quá
trình để đảm bảo chắc chắn đúng thuốc, đúng số lượng, sẵn có, cho
đúng BN, với giá hợp lý và chất lượng đảm bảo. Mua thuốc không chỉ
đơn thuần là hành động mua bán mà còn có sự tham gia của nhiều lĩnh
vực như thương mại, thông tin kỹ thuật, quản lý nguy cơ, hệ thống
pháp luật.
Quy trình mua thuốc tốt trước hết cần xác định đúng mục tiêu,
tạo được niềm tin, kiểm soát được nguồn đảm bảo, đánh giá đúng
được năng lực của các nhà đảm bảo, lựa chọn chiến lược mua sắm
thích hợp, đánh giá được lâm sàng cũng như hiệu quả đầu ra [26]. Quy
trình mua thuốc không đảm bảo đúng qui định sẽ ảnh hưởng đến
chất lượng thuốc, gây thất thoát kinh phí. Mua thuốc là một trong
những hoạt động dễ nảy sinh tham nhũng nhất trong hệ thống CSSK
[26], [27].
Một quy trình mua sắm thuốc hiệu quả thể hiện [28]:
- 9
Tìm cách quản lý mối quan hệ người bán người mua một cách
minh bạch và có đạo đức;
Mua đúng loại thuốc với số lượng phù hợp;
Có được giá mua thực tế thấp nhất;
Đảm bảo rằng tất cả dược phẩm được thu mua đáp ứng các tiêu
chuẩn chất lượng đã được công nhận;
Sắp xếp giao hàng kịp thời để tránh thiếu hụt và dự trữ;
Đảm bảo độ tin cậy của nhà cung cấp đối với dịch vụ và chất
lượng;
Đặt lịch mua hàng, công thức về số lượng đặt hàng và mức dự trữ
an toàn để đạt được tổng chi phí mua hàng thấp nhất ở mỗi cấp độ của hệ
thống;
Đạt được các mục tiêu này theo cách hiệu quả nhất có thể.
Ngày nay, việc mua sắm thuốc phải thông qua các hình thức đấu
thầu theo Luật đấu thầu. Áp dụng đấu thầu là một công cụ quan
trọng để mua thuốc, được thực hiện ở hầu hết các nước thành viên
Liên minh châu Âu; thông qua đấu thầu lựa chọn được thuốc giá thấp
hơn và tăng tính minh bạch khi sử dụng quỹ công [29], [30].
Theo Luật đấu thầu số 43/2013: Đấu thầu là quá trình lựa chọn
nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn,
phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; Lựa chọn nhà đầu tư để ký
kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác công
tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công
bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế [31].
Từ năm 2015 – 2018, đấu thầu mua thuốc tai cac CSYT đ
̣ ́ ược
- 10
thực hiện theo Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 [31], Nghị định số
63/2014/NĐCP [32] và các thông tư, công văn hướng dẫn theo từng
năm, cụ thể:
Năm 2015, các CSYT tự tổ chức đấu thầu mua sắm thuốc bằng
các hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu,
chào hàng cạnh tranh, mua sắm trực tiếp và tự thực hiện. Trong thời
gian này, việc lập hồ sơ mời thầu theo hướng dẫn của các Thông tư
số 01/2012/TTLTBYTBTC, số 36/2013/TTBYTBTC, số 37/2013/TT
BYT và số 31/2014/TTBYT [33], [34], [35], [36].
Năm 2016, thực hiện theo hướng dẫn của Thông tư số
09/2016/TTBYT ban hành Thông tư ban hành DMT đấu thầu, DMT
đấu thầu tập trung, DMT được áp dụng hình thức đàm phán giá. Công
tác đấu thầu được thực hiện theo hướng dẫn của Thông tư số
11/2016/TT BYT [37], [38].
Như vậy, từ năm 2016 các CSYT phải thực hiện kết quả đấu
thầu mua sắm tập trung (cấp Quốc gia gồm: 5 khoản thuốc do Đơn vị
mua sắm tập trung cấp quốc gia thực hiện và 59 khoản thuốc do các
chương trình, dự án tự thực hiện; Cấp địa phương gồm: 106 khoản
thuốc). Ngoài DMT đấu thầu tập trung, các CSYT được lựa chọn các
thuốc có trong DMT đấu thầu chung gồm: 1.091 thuốc tân dược, 57
thuốc phóng xạ và hợp chất đánh dấu, 229 thuốc đông y, thuốc từ
dược liệu và 349 vị thuốc y học cổ truyền [37].
Năm 2017, ngoài qui định mua thuốc thông qua đấu thầu theo
hướng dẫn của Bộ Y tế, Cơ quan Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam
- 11
có Công văn số 2369/BHXHDVT ngày 14/6/2017, Về việc hướng xây
dựng, tổng hợp nhu cầu mua thuốc tập trung quốc gia đối với thuốc
sử dụng trong lĩnh vực BHYT với DMT kèm theo là 5 hoạt chất thuốc
chia thành 25 khoản thuốc (mỗi hoạt chất được chia theo nhiều nhóm
kỹ thuật) [39].
Năm 2018, Bộ Y tế ra Công văn số 3015/BYTQLD Về việc
DMT đấu thầu tập trung cấp quốc gia năm 2018 do BHXH Việt Nam
thực hiện, DMT đi kèm là 9 hoạt chất thuốc chia thành 20 khoản
thuốc (mỗi hoạt chất được chia ở các nồng độ, hàm lượng khác nhau)
và cũng trong năm 2018 BHXH Việt Nam ra Công văn số 2451/BHXH
DVT, Về việc hướng dẫn xây dựng, tổng hợp nhu cầu mua thuốc tập
trung quốc gia đối với thuốc sử dụng trong lĩnh vực BHYT với 20
hoạt chất/thuốc đi kèm [40], [41].
Như vậy, từ năm 2015 – 2018 đã có nhiều thông tư, công văn
hướng dẫn các CSYT đấu thầu và mua thuốc theo kết quả đấu thầu
và tính đến năm 2018, mỗi CSYT đồng thời thực hiện 4 đầu mối đấu
thầu: Quốc gia, Sở Y tế địa phương, BHXH và do CSYT tự tổ chức.
Theo Điều 44 Luật đấu thầu số 43/2013: “Mua sắm tập trung là
cách tổ chức đấu thầu rộng rãi để lựa chọn nhà thầu thông qua đơn vị mua
sắm tập trung nhằm giảm chi phí, thời gian, đầu mối tổ chức đấu thầu,
tăng cường tính chuyên nghiệp trong đấu thầu, góp phần tăng hiệu quả
kinh tế” [31]. Mặc dù Luật đấu thầu số 43/2013 đã chỉ ra được những ưu
điểm của công tác mua sắm tập trung so với các hình thức mua sắm khác,
song vẫn còn một số bất cập:
+ DMT đấu thầu tập trung chiếm tỷ lệ thấp so với DMT đấu thầu
- 12
chung nên SKM còn lại khá lớn, các CSYT vẫn phải tổ chức đấu thầu.
Bên cạnh đó, DMT đấu thầu tập trung có hoạt chất và nồng độ, hàm
lượng cụ thể nên các CSYT có thể lập các thuốc có cùng hoạt chất nhưng
ở nồng độ, hàm lượng khác để tự đấu thầu mua sắm.
+ Đầu mối tổ chức đấu thầu không giảm, đồng nghĩa chi phí và thời
gian cho tổ chức thầu cũng không giảm và các CSYT vẫn phải sử dụng
lực lượng chuyên môn để kiêm nhiệm công tác đấu thầu.
+ Đấu thầu tập trung có số lượng rất lớn ở mỗi khoản thầu nên năng
lực cung ứng của đơn vị trúng thầu không bảo đảm được khiến nguy cơ
đứt hàng.
+ Đấu thầu tập trung có giá trị gói thầu quá lớn nên hạn chế khả
năng tham gia của các công ty nhỏ và vừa (chủ yếu là các công ty trong
nước).
+ Có thể các đơn vị trúng thầu không cung cấp thuốc cho các CSYT
vùng sâu, vùng xa do lợi nhuận không bù đắp được chi phí vận chuyển
thuốc.
1.1.1.3. Tôn tr
̀ ư và c
̃ ấp phát thuốc
Tồn trữ và cấp phát thuốc là hai bước khác nhau nhưng nằm trong
cùng một khâu của quy trình đảm bảo thuốc. Tồn trữ thuốc là một khâu hết
sức quan trọng nhằm đảm bảo lượng thuốc đầy đủ cho quá trình cấp phát
liên tục của nhu cầu khám chữa bệnh tại các CSYT. Bên cạnh đó, cấp phát
cũng là cơ sở để các nhà quản lý xây dựng số lượng, chủng loại thuốc tồn
trữ một cách hợp lý, tránh hiện tượng quá nhiều gây ảnh hưởng đến nguồn
kinh phí mua sắm cho các thuốc khác và có thể gây lãng phí do dư thừa,
đồng thời tồn trữ quá ít gây cho cấp phát thuốc bị gián đoạn qua giai đoạn
chuyển tiếp giữa hai lần gọi hàng.
- 13
Tồn trữ không chỉ là việc cất giữ hàng hóa trong kho mà nó còn là cả
1 quá trình xuất, nhập kho hợp lý, quá trình kiểm tra, kiểm kê, dự trữ và các
biện pháp kỹ thuật bảo quản hàng hóa từ khâu nguyên liệu đến các thành
phẩm hoàn chỉnh trong kho. Công tác tồn trữ là một trong những mắt xích
quan trọng của việc đảm bảo cung cấp thuốc cho người tiêu dùng với số
lượng đủ nhất và chất lượng tốt nhất, giảm tối đa tỷ lệ hư hao trong quá
trình sản xuất và phân phối thuốc [42].
Quản lý tồn kho là một quá trình phức tạp nhưng quan trọng trong
̉ ̉ ́ ếu không có các biện pháp quản lý tôn kho thu
quy trình bao đam thuôc. N ̀ ốc
đầy đủ, các CSYT có nguy cơ không cung cấp cho BN loại thuốc thích hợp
nhất. Giải quyết vấn đề quản lý hàng tồn kho một cách hiệu quả có thể
cho phép các CSYT cải thiện được hiêu suât tai chinh, tuân th
̣ ́ ̀ ́ ủ các yêu cầu
quy định, giảm thiểu rủi ro liên quan để đảm bảo an toàn cho BN và đảm
bảo có sẵn thuốc mà không cần dự trữ thường xuyên [2].
Theo nhận định của MSH (Management sciences for health): Chìa
khoá của hoạt động quản lý tồn kho là đảm bảo chất lượng phục vụ và tồn
kho an toàn. Thông thường hai đại lượng này tỷ lệ thuận với nhau, nếu tồn
kho lớn có nghĩa là thuốc luôn sẵn sàng trong kho và chất lượng phục vụ sẽ
tăng do đáp ứng đầy đủ thuốc mọi lúc, mọi nơi, tuy nhiên, điều này sẽ làm
tăng chi phí quản lý kho, tăng giá trị tồn kho, gây ứ đọng thuốc... Vì vậy,
việc xác định giá trị tồn kho an toàn rất có ý nghĩa nhằm đảm bảo sự sẵn
có của thuốc với lượng tồn kho hợp lý [28].
̀ ̀ ược tinh băng công th
Tôn kho an toan đ ́ ̀ ức [28]:
Tôn kho an toàn = C
̀ A × LT
Trong đo:
́
CA: Mức tiêu thụ trung bình hàng tháng, được điều chỉnh cho dự trữ.
- 14
LT: Thời gian chờ trung bình (đối với nhà cung cấp dự kiến hoặc
trường hợp xấu nhất), theo tháng.
Thơi gian ch
̀ ờ trung binh không co quy đinh cu thê (tuy theo xac đinh
̀ ́ ̣ ̣ ̉ ̀ ́ ̣
̉ ưng đ
cua t ̀ ơn vi) tuy nhiên, khoang th
̣ ̉ ơi gian nay tôi thiêu phai băng th
̀ ̀ ́ ̉ ̉ ̀ ơì
̉ ̉ ̣ ̀ ực vê tai chinh va th
gian đê chuân bi nguôn l ̀ ̀ ́ ̀ ơi gian ch
̀ ờ đê co khoang trông
̉ ́ ̉ ́
́ ứng cho nhu câu bao quan thuôc.
kho đap ̀ ̉ ̉ ́
́ ơi gian ch
Nêu th ̀ ơ trung binh kho xac đinh thi tôn kho an toan nên tăng
̀ ̀ ́ ́ ̣ ̀ ̀ ̀
̀ ơi gian ch
lên va th ̀ ờ trung binh dao đông nhiêu co thê s
̀ ̣ ̀ ́ ̉ ử dung công th
̣ ức sau
̉ ́ ̣
đê xac đinh thơi gian ch
̀ ơ:̀
DDE = DDp + (OD x OD%)
̀ ̀ ự kiên.
DDE: Ngay giao hang d ́
̀ ̀ ̃ ứa.
DDp: Ngay giao hang đa h
OD: Thơi gian qua han trung binh tinh theo ngay.
̀ ́ ̣ ̀ ́ ̀
OD: Phân trăm đ
̀ ơn đăt hang qua han.
̣ ̀ ́ ̣
1.1.1.4. Sử dung thu
̣ ốc
Sử dụng là bước cuối cùng của quy trình bao đam thuôc, nó th
̉ ̉ ́ ể hiện
kết quả của một quá trình hoạt động quản lý bao đam thu
̉ ̉ ốc là tốt hay kém
bởi vì mục đích cuối cùng của hệ thống quản lý bao đam là s
̉ ̉ ử dụng đúng
thuốc cho đúng BN. Các bước lựa chọn, mua sắm, cấp phát thích hợp là
tiền đề để sử dụng thuốc hợp lý [28].
WHO đa va đang không ng
̃ ̀ ưng nô l
̀ ̃ ực thuc đây viêc s
́ ̉ ̣ ử dung thuôc
̣ ́
hợp ly v
́ ơi muc tiêu cuôi cung la bao đam BN đ
́ ̣ ́ ̀ ̀ ̉ ̉ ược sử dung thuôc đung v
̣ ́ ́ ới
nhu câu lâm sang, v
̀ ̀ ơi liêu l
́ ̀ ượng va khoang th
̀ ̉ ơi gian thich h
̀ ́ ợp, chi phi thâp
́ ́
́ ́ ̉ ̉ ́ ược kê đơn, câp phat hoăc
nhât co thê. Tuy nhiên, co khoang 50% cac thuôc đ
́ ́ ́ ́ ̣
̀ ợp va khoang 50% BN trên toan thê gi
ban không phu h
́ ̀ ̉ ̀ ́ ới sử dung thuôc
̣ ́
không đung theo h
́ ương dân (không tuân thu điêu tri), co khoang môt phân ba
́ ̃ ̉ ̀ ̣ ́ ̉ ̣ ̀
- 15
́ ́ ơi không đ
dân sô thê gi ́ ược tiêp cân v
́ ̣ ới thuôc thiêt yêu [2].
́ ́ ́ Một nghiên cứu
khác của WHO chỉ ra, nhiều quốc gia đã dành 30 40% ngân sách ngành y
tế để mua thuốc và phần lớn số tiền đó bị lãng phí do sử dụng không hợp
lý và thiếu hiệu quả trong mua thuốc và đặc biệt là vấn đề lạm dụng
kháng sinh [43].
Thực tế cho thấy, ở nước ta vấn đề kiểm soát sử dụng thuốc ngoại
trú còn gặp rất nhiều khó khăn và thách thức. Bộ Y tế đã đưa ra các nguyên
tắc và tiêu chuẩn cơ bản tại nhà thuốc, nhưng tình trạng các cơ sở bán
thuốc không cần kê đơn vẫn phổ biến, ngay cả các thuốc kháng sinh [44],
[45], [46].
Co nhiêu cach hi
́ ̀ ́ ểu khac nhau vê s
́ ̀ ử dung thuôc tùy theo b
̣ ́ ối cảnh cụ
thể, nghiên cứu xin đưa ra 2 quan điểm về sử dụng như sau:
Sử dụng thuốc trong quy trình đảm bảo thuốc nhằm trả lời câu hỏi:
Thuốc được sử dụng đủ/thiếu? Chất lượng/chủng loại/phân nhóm kỹ
thuật của thuốc như thế nào? Giá cao/thấp (có đủ khả năng chi trả của BN
hay của cơ quan quản lý BHYT không)?
Sử dụng thuốc xet trên bôi canh vê măt lâm sang thi s
́ ́ ̉ ̀ ̣ ̀ ̀ ử dung h
̣ ợp lý
gôm cac tiêu chi sau:
̀ ́ ́
̉ ̣ ̀ ợp: Nghia la viêc kê đ
+ Chi đinh phu h ̃ ̀ ̣ ơn thuôc phu h
́ ̀ ợp vơi đăc điêm
́ ̣ ̉
lâm sang BN.
̀
+ Lựa chon thuôc d
̣ ́ ựa trên viêc cân nhăc gi
̣ ́ ưa yêu tô nguy c
̃ ́ ́ ơ/lợi ich
́
̀ ̀ ợp vê măt chi phi đôi v
va phu h ̀ ̣ ́ ́ ới từng đôi t
́ ượng BN.
̀ ượng, cach dung, th
+ Liêu l ́ ̀ ời gian dung phu h
̀ ̀ ợp.
̣ ̉ ̣
+ Không vi pham chông chi đinh.
́
̉ ̀ ̣
+ BN dê tuân thu điêu tri.
̃
- 16
̉ ̣ ược tiêu chi trên ng
Đê đat đ ́ ươi kê đ
̀ ơn phai tuân thu cac quy trinh kê
̉ ̉ ́ ̀
đơn, hương dân điêu tri va trên c
́ ̃ ̀ ̣ ̀ ơ sở đăc điêm lâm sang, cân lâm sang cua
̣ ̉ ̀ ̣ ̀ ̉
̉ ́ ̣ ̀ ̣ ừ đo l
BN đê xac đinh vân đê cân điêu tri t
́ ̀ ̀ ́ ựa chon ph
̣ ương phap điêu tri tôi
́ ̀ ̣ ́
ưu nhât cho ng
́ ười bênh [28].
̣
* Khái niệm va phân loai vê vân đê liên quan đên s
̀ ̣ ̀ ́ ̀ ́ ử dung thuôc:
̣ ́
1 Vấn đề liên quan đến sử dụng thuốc (Drug Related Problems
̀ ững tình huống liên quan đến điều trị bằng thuốc có thể gây
DRPs): La nh
hại hoặc tiềm ẩn mối nguy hại cho sức khỏe BN [47]. Như vậy, DRPs là
một khái niệm rộng, bao gồm trong đó cả sai sót liên quan đến thuốc
(Medication Error ME), biến cố bất lợi của thuốc (Adverse Drug Event –
ADE, hay Adverse Event – AE) và phản ứng có hại của thuốc (adverse drug
reactions ADR).
2 Sai sót liên quan đến thuốc (ME): Là bất kì biến cố có thể phòng
tránh nào có khả năng gây ra hoặc dẫn đến việc sử dụng thuốc không hợp
lý, hoặc gây hại cho BN trong khi thuốc được kiểm soát bởi nhân viên y tế,
BN, hoặc người tiêu dùng. Các biến cố như vậy có thể liên quan tới thực
hành chuyên môn, các sản phẩm CSSK, quy trình và hệ thống bao gồm: Kê
đơn và quá trình chuyển giao đơn thuốc; Ghi nhãn, đóng gói và danh pháp;
Pha chế, cấp phát và phân phối; Quản lý, giám sát và sử dụng thuốc trên
BN [48].
3 Biến cố bất lợi của thuốc (ADE): Là những tổn thương xảy ra
trên BN mà nguyên nhân có thể do sử dụng thuốc gây ra hoặc thiếu thuốc
cần thiết cho BN sử dụng [49].
4 Phản ứng có hại của thuốc (ADR): Là những phản ứng độc hại,
không định trước xuất hiện khi dùng thuốc ở liều thường dùng cho người
- 17
để dự phòng, chẩn đoán, điều trị hoặc thay đổi chức năng sinh lý của cơ
thể [50].
DRPs có thể xảy ra tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình sử dụng
thuốc, từ kê đơn thuốc của bác sĩ, cấp phát thuốc của dược sĩ đến thực
hiện thuốc của điều dưỡng và sử dụng thuốc, tuân thủ điều trị của BN.
Trong mỗi giai đoạn, DRPs lại được chia thành nhiều loại khác nhau [51].
̣ ́ ̉ ược thê hiên theo
Phân loai DRPs co thê đ ̉ ̣ hinh 1.2
̀ dưới đây:
DRPs
Bênh nhân
̣ Bac si/d
́ ̃ ược sĩ Điêu d
̀ ương,
̃
(DRPs tuân thủ dược sĩ
(DRPs kê đơn)
̀ ̣
điêu tri) (DRPs câp phat,
́ ́
sử dung)
̣
DRPs thực sự DRPs tiềm ân̉
̉
DRPs có thê phòng
̉
DRPs không thê pho ̀ng
tránh được
tránh được
Hinh 1.2.
̀ ̣ ấn đề liên quan sử dụng thuốc
Phân loai v
- 18
Nguồn: Theo Mil V. (2005) [52].
DRPs liên quan đến BN hay còn gọi là DRPs tuân thủ điều trị: Tuân
thủ điều trị (compliance) được định nghia là “ph
̃ ạm vi mà người bệnh tuân
theo lời khuyên của các chuyên gia y tế và chấp nhận sự điều trị” [53]. Bao
gôm nh
̀ ững vấn đề trong tuân thủ dùng thuốc và kiến thức hiểu biết của
BN như: dùng thuốc không đầy đủ, dùng thuốc quá dài ngày, dùng thuốc
thất thường, lạm dung thu
̣ ốc, sai đường dùng của dạng bào chế, BN thiếu
kiến thức về bệnh và thiếu kiến thức về thuốc điều trị [54].
DRPs xảy ra trong quá trình kê đơn của bác sĩ (hay còn gọi là DRPs
trong kê đơn, truyền đạt đơn thuốc): Được tính từ khi bác sĩ kê đơn thuốc
đến khi đơn thuốc được chuyển tới khoa Dược, bao gồm DRPs về thiếu
thông tin trong đơn thuốc, lựa chọn thuốc, liều dùng, cách dùng thuốc,
tương tác tương kỵ thuốc và thiếu điều trị [51], [55].
DRPs trong cấp phát thuốc (thực hiện y lệnh): Tính từ khi đơn
thuốc tới khoa Dược đến khi thuốc được phát đến tay BN hoặc phát cho
BN ngoại trú, bao gồm DRP do sai thuốc (sai loại thuốc, sai hàm lượng, sai
dạng bào chế), sai nhãn, thiếu hoặc thừa thuốc, thuốc quá hạn sử dụng
[56].
Ngoài các DRPs xảy ra trong các quá trình trên còn có thể xảy ra
trong các khâu như:
+ DRPs trong chuẩn bị và thực hiện thuốc: Bao gồm giai đoạn dược
sĩ pha chế một số loại thuốc đặc biệt tại khoa Dược (thuốc độc tế bào,
dịch nuôi dưỡng đường tĩnh mạch) và điều dưỡng chuẩn bị thuốc (hoàn
nguyên, pha loãng thuốc, nghiền thuốc…), thực hiện thuốc cho BN, bao
gồm DRPs về loại thuốc, dung môi pha thuốc, đường dùng, thời điểm
- 19
dùng, nồng độ, tốc độ tiêm truyền, tương kỵ thuốc, kỹ thuật dùng thuốc,
bỏ thuốc [57].
+ DRPs trong giai đoạn BN dùng thuốc ngoại trú sau ra viện: DRPs
về tuân thủ thuốc của BN.
DRPs thực sự và DRPs tiềm ẩn: DRPs thực sự là những DRPs đã
gây ra hậu quả trực tiếp trên BN như: Biến cố bất lợi của thuốc (ADE)
hoặc phản ứng có hại của thuốc (ADR) có thể coi như là một DRPs thực
sự
DRPs tiềm ẩn là những vấn đề liên quan đến sử dụng thuốc đã xảy
ra nhưng chưa gây ra hậu quả đối với bệnh nhân.
DRPs có thể phòng tránh được và DRPs không thể phòng tránh
được:
Các sai sót liên quan đến sử dụng thuốc (ME) là các DRPs có thể
phòng tránh được. Các phản ứng có hại của thuốc (ADRs) là các DRPs
không thể phòng tránh được.
* Các yếu tố làm tăng nguy cơ xảy ra DRPs
Nhóm tác giả người Thụy Sỹ gồm Lucca J. M. và cộng sự đã tổng
quan các yếu tố nguy cơ xuất hiện DRPs dựa trên tổng hợp các nghiên cứu
trong y văn đồng thời kết hợp ý kiến thảo luận và đánh giá của một hội
đồng các chuyên gia trong lĩnh vực y tế từ bác sĩ, dược sĩ lâm sàng, dược sĩ
nhà thuốc cộng đồng, điều dưỡng, những người có hoạt động lâm sàng
thực tế trong suốt quy trình sử dụng thuốc của BN [58]. Nhóm tác giả đã
đưa ra 26 yếu tố gồm 10 yếu tố quan trọng và 16 yếu tố tương đối quan
trọng, trong đó 10 yếu tố quan trọng:
Nhóm các yếu tố thuộc về bệnh hoặc BN: (1) BN giảm trí nhớ, chỉ
số thông minh thấp, lo lắng bồn chồn; (2) Thông tin về BN không được
- 20
cung cấp đầy đủ, hoặc BN không hiểu mục đích của điều trị; (3) BN có
nhiều bệnh lý mắc kèm; (4) BN không tuân thủ điều trị.
Nhóm các yếu tố thuộc về thuốc: (5) Sử dụng nhiều thuốc (>5
thuốc); (6) Sử dụng thuốc chống động kinh; (7) Sử dụng thuốc chống
đông; (8) Sử dụng kết hợp thuốc chống viêm không steroid và thuốc chống
đông đường uống; (9) Sử dụng insulin; (10) Thuốc có khoảng điều trị
hẹp.
1.1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác đảm bảo thuốc
1.1.2.1. Cơ cấu tổ chức của bệnh viện
Cơ cấu tổ chức của bệnh viện phụ thuộc vào xếp hạng của bệnh
viện được Bộ Y tế công nhận. Bệnh viện đa khoa hạng I là cơ sở KCB
trực thuộc Bộ Y tế hoặc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố và các ngành, có
trách nhiệm KCB cho nhân dân trong một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương hoặc được giao nhiệm vụ với khả năng thực hiện được nhiều kỹ
thuật cao hoặc chuyên ngành sâu. Bệnh viện có đội ngũ cán bộ y tế có trình
độ chuyên môn kỹ thuật cao, được trang bị hiện đại, có các chuyên khoa
sâu, cơ sở hạ tầng phù hợp [59]. Bệnh viện hạng II và III là cơ sở KCB
trực thuộc sở Y tế hoặc các bộ, ngành, có trách nhiệm KCB cho nhân dân
trong một khu vực cấp quận, huyện hoặc tương đương với mô hình bệnh
tật của khu vực đó.
Tùy thuộc vào phân hạng của bệnh viện, các CSYT có giường bệnh
xây dựng định mức biên chế, bố trí cơ sở KCB và xây dựng danh mục dịch
vụ kỹ thuật y tế phù hợp với khả năng thực hiện của bệnh viện, trong đó
có việc xây dựng DMT bệnh viện [59].
Cơ cấu bộ phận, chuyên môn theo hướng dẫn của Thông tư số
08/2007/TTLTBYTBNV [60]. Các CSYT được phân làm 3 tuyến:
nguon tai.lieu . vn