Xem mẫu
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
60.
1Phan Chung Thủy*
Trần Phương Thảo*
Lê Văn Lâm*
Tóm tắt
Cho vay ngang hàng (Peer-to-peer lending – P2P) là thuật ngữ dùng để chỉ mô hình kinh
doanh mới sử dụng nền tảng công nghệ trực tuyến để kết nối các nhà đầu tư với các cá
nhân hay doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn. Mặc dù chỉ mới ra đời trên thế giới vào
khoảng năm 2005, nhưng sản phẩm tài chính mới này đã có những bước phát triển vượt
bậc cả về tính chất, quy mô và khối lượng giao dịch. Hiện nay đã có 5 loại hình thức khác
nhau của hoạt động cho vay ngang hàng. Tính đến cuối năm 2018, lượng vốn cho vay
bằng hình thức này đạt khoảng 245 tỷ USD tăng đến gần 2433 % so với năm 2013 (chỉ
tính riêng trong top 9 thị trường lớn nhất trên thế giới). Mặc dù đã có hơn 40 công ty
triển khai mô hình cho vay ngang hàng tại Việt Nam, nhưng hoạt động cho vay ngang
hàng hiện nay vẫn còn khá sơ khai. Bài viết này nhằm mục tiêu cung cấp một bức tranh
tổng quan về cho vay ngang hàng trên thế giới và Việt Nam, qua đó gợi ý một số chính
sách cho phát triển hoạt động này ở Việt Nam.
Từ khóa: Cho vay ngang hàng, mô hình kinh doanh, môi trường pháp lý, hàm ý chính sách.
1. Tổng quan về P2P lending
1.1. Lịch sự ra đời và phát triển của cho vay ngang hàng
Sự ra đời của hoạt động cho vay ngang hàng (Peer to Peer lending) hay rộng hơn là tài
chính ngang hàng (peer to peer finance) được phát triển dựa trên nền tảng “peer to peer”-
một hệ thống mô tả sự tương tác giữa hai bên liên quan không cần sự tham gia của thành
phần trung gian. Có thể thấy rằng thuật ngữ này bắt nguồn từ lĩnh vực mạng máy tính để
mô tả về mạng lưới mà ở đó mỗi máy tính bất kỳ đều có thể vận hành như khách hàng
*
Trường Đại học Kinh tế TP. HCM | Email liên hệ: phanthuy@ueh.edu.vn
900
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
hoặc máy chủ đối với các máy tính khác trong cùng hệ thống mạng không cần kết nối với
hệ thống trung tâm. Hệ thống này được biết dưới tên gọi là mạng lưới ngang hàng (peer-
to peer network).
Dựa trên sự phát triển của hệ thống mạng internet, mạng lưới ngang hàng đã thúc đẩy
sự phát triển các giao dịch giữa các khách hàng không có sự tham gia của các tổ chức
trung gian ở rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Hoạt động ban đầu có thể kể đến là hoạt động
chia sẻ tài liệu giữa các cá nhân (peer-to-peer file sharing) thông qua việc cài đặt các phần
mềm liên quan trên các thiết bị máy tính, sau đó có thể kết nối trực tiếp vào các máy tính
khác nhau trên mạng lưới, thông qua các phần mềm này để chia sẻ các tài liệu như là hình
ảnh, file nhạc, phim ảnh hoặc các trò chơi. Hình thức chia sẻ tài liệu này cũng đang được
phát triển với tốc độ rất nhanh, đặc biệt trong lĩnh vực âm nhạc và phim ảnh với sự ra đời
của các dịch vụ trực tuyến như Spotify hay NetFlix. Sự phát triển của hoạt động chia sẻ
dữ liệu ngày càng được mở rộng, thông qua các dịch vụ như Napster, Gnutella, Kazaa
hoặc BitTorrent.
Trong lĩnh vực tài chính nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng, hoạt động cho
vay ngang hàng được bắt nguồn từ hoạt động của 2 công ty: Zopa tại Anh vào năm 2005
và Prosper tại Mỹ vào năm 2006. Cả 2 công ty này triển khai dịch vụ cho vay ngang hàng,
ở đó người vay và người cho vay có thể giao dịch trực tiếp với nhau thông qua thị trường
trung tâm, thay vì qua các ngân hàng thương mại. Rất nhiều doanh nghiệp tương tự sau
đó cũng đã ra đời nhằm cung cấp các dịch vụ tài chính thay thế khác cho với hoạt động
truyền thống của ngân hàng thương mại và thị trường vốn. Cụ thể:
▪ Dịch vụ huy động vốn cộng đồng (crowdfunding) thông qua việc gọi vốn từ các
nhà đầu tư riêng lẻ (crowd) cho các dự án với mục tiêu cụ thể,
▪ Dịch vụ kinh doanh ngoại hối (foreign currency platform) dựa trên nền tảng kết
nối trực tiếp các cá nhân hoặc doanh nghiệp có nhu cầu giao dịch,
▪ Chiết khấu hóa đơn phi ngân hàng (non-bank invoice discounting) nhằm hỗ trợ
các doanh nghiệp nhỏ cải thiện dòng tiền trong hoạt động kinh doanh thông qua
việc cho vay ứng trước từ các nhà đầu tư dựa trên việc đảm bảo bằng các hóa đơn
hoặc các khoản phải thu đến hạn,
▪ Tiền điện tử (cryptocurrencies) như là Bitcoin hoặc Litecoin với việc hỗ trợ hoạt
động thanh toán các đồng tiền kỹ thuật số này mà không cần có tổ chức phát hành
trung tâm.
Có thể thấy rằng với lợi thế về giảm thiểu các chi phí liên quan so với dịch vụ ngân
hàng truyền thống, dịch vụ cho vay ngang hàng đã và đang phát triển rất nhanh với tốc
901
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
độ tăng trưởng gấp đôi trong những năm gần đây (Milne & Parboteeah, 2016). Dịch vụ
này vẫn còn được kỳ vọng với tốc độ tăng trưởng vượt bậc dựa trên cơ sở phát triển nhanh
chóng về chất lượng và tốc độ của các kỹ thuật công nghệ mới trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng trong thời gian sắp tới.
1.2. Cơ sở lý thuyết về cho vay ngang hàng
Hoạt động cho vay ngang hàng ban đầu được hình thành dựa trên hệ thống tương đối đơn
giản nhằm thực hiện kết nối cho vay trực tiếp giữa các cá nhân. Tuy nhiên, cùng với sự
phát triển của khoa học công nghệ, cho vay ngang hàng đã phát triển thành một hệ sinh
thái phức tạp hơn nhiều khi cho phép sự kết hợp của công nghệ, các định chế tài chính và
các doanh nghiệp khởi nghiệp (Mateescu, 2015).
Về cơ bản, cho vay ngang hàng được hình thành dựa trên đặc tính là lời hứa sẽ đem
lại lợi nhuận từ việc cho vay trực tiếp và không chính thức giữa các đối tác tin tưởng lẫn
nhau. Theo đó, với mong muốn cắt giảm người trung gian hay sự mâu thuẫn trong triển
khai các sản phẩm, dịch vụ chủ yếu dựa vào nền tảng kết nối Internet. Cụ thể, dịch vụ
cho vay ngang hàng có các đặc tích cơ bản sau:
▪ Tính hiệu quả: Đặc tính này được thể hiện thông qua việc không có sự tham gia
của các tổ chức trung gian trong hoạt động cho vay. Cụ thể, quy trình nộp hồ sơ
cho vay trực tuyến cũng như việc xử lý hồ sơ vay một cách nhanh chóng và thuận
lợi, từ đó giảm thiểu tối đa các chi phí vận hành gắn liền với hoạt động của các
ngân hàng hay trung gian tài chính để có thể đưa ra mức lãi suất thấp nhất cho
người vay vốn.
▪ Tính toàn diện: Thông qua các thuật toán riêng biệt, các hoạt động cho vay ngang
hàng có thể tiếp cận được nguồn thông tin đa dạng để đo lường mức độ tin cậy
của các khách hàng, đặc biệt là các khách hàng có lịch sử tín dụng hạn chế do
chưa tiếp cận được các khoản vay ngân hàng. Như vậy, mỗi người vay vốn có thể
cung cấp các thông tin tích luỹ để giúp hệ thống xác định điểm tín dụng cá nhân
một cách chính xác nhất, từ đó, họ có thể nhận được mức lãi suất vay hấp dẫn
cũng như hạn mức tín dụng cao hơn.
▪ Tính minh bạch: Trong quy trình cho vay, hoạt động cho vay ngang hàng cho
phép người sử dụng có thể xem lại các lịch sử tín dụng của cá nhân. Điều này sẽ
giúp làm giảm thiểu rủi ro về mức độ tin cậy cũng như mất cân xứng thông tin
trong giao dịch giữa các bên liên quan tham gia dịch vụ này, đặc biệt là việc giúp
người cho vay có thông tin đầy đủ và chính xác nhất về người có nhu cầu vay vốn.
902
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
Với các đặc tính trên, hoạt động cho vay ngang hàng đã và đang từng bước khẳng
định vai trò của mình trên thị trường cho vay thông qua các dịch vụ, sản phẩm ngày càng
đa dạng. Có thể kể đến như là:
▪ Dịch vụ cho vay tiêu dùng thông qua việc hợp nhất các khoản nợ và tái cấp vốn
cho các khoản vay để mua nhà, mua xe, mua bảo hiểm y tế… hoặc trả các khoản
nợ vay đến hạn như thanh toán thẻ tín dụng. Đối với các công ty triển khai hoạt
động cho vay ngang hàng như Lending Club hay Prosper, các khoản cho vay trung
bình là US$13,067 và số tiền cho vay tối đa là US$35,000 với thời gian cho vay
trung bình từ 3 đến 5 năm.
▪ Cho vay doanh nghiệp nhỏ được cung cấp bởi các công ty cho vay ngang hàng
như Funding Circle, OnDeck hay Raisework thông qua việc kết nối người cho vay
đến với các doanh nghiệp nhỏ có nhu cầu vay vốn mà không đáp ứng được các
tiêu chí vay vốn từ các ngân hàng thương mại
▪ Cho vay sinh viên là dịch vụ cho vay được cung cấp bởi các tổ chức như là
CommonBond hay SoFi nhằm hỗ trợ học tập cho sinh viên.trong thanh toán các
khoản nợ liên quan đến học phí hay sinh hoạt phí hay thậm chí chương trình cho
vay sinh viên cho đến khi hoàn tất chương trình học.
2. Sơ lược về các mô hình cho vay ngang hàng
2.1. Mô hình cho vay ngang hàng theo hình thức cổ điển (traditional P2P lending model)
Mô hình cho vay ngang hàng cổ điển, về cơ bản, cho phép người đi vay có thể giao dịch
trực tiếp với người cho vay thông qua một nền tảng trực tuyến. Quy trình kết nối này
được bắt đầu khi một người đi vay tiềm năng đăng ký nhu cầu vay trên nền tảng trực
tuyến này. Các thông tin này sau đó được xác minh và sẽ được đăng công khai trên nền
tảng. Khi đó, các người cho vay tiềm năng có thể tiếp cận và lựa chọn người đi vay phù
hợp (hay nói cách khác đó chính là cơ hội đầu tư). Lưu ý rằng trong mô hình cho vay
ngang hàng kiểu cổ điển này, các hợp đồng vay nợ được thiết lập giữa người đi vay và
người cho vay, thay vì với công ty cung cấp nền tảng công nghệ trực tuyến. Ngoài ra, quá
trình chuyển vốn và thực hiện thanh toán cho các khoản vay sẽ được quản lý bằng tài
khoản riêng, tách biệt hoàn toàn với nền tảng trực tuyến. Thu nhập của đơn vị điều hành
nền tảng trực tuyến cũng sẽ chỉ có từ nguồn phí thu được từ các bên đi vay và cho vay,
chẳng hạn như phí đăng ký thành viên, phí hỗ trợ giúp đáp ứng nhu cầu vay và phí hoàn
trả khoản vay. Mô hình cơ bản này được tóm tắt trong sơ đồ 1.
903
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
Sơ đồ 1: Mô hình cho vay ngang hàng truyền thống
Nền tảng cho vay trực
tuyến
cung cấp vốn vay
Người đi vay Người cho vay
hoàn trả vốn vay
Tài khoản khách hàng
2.2. Mô hình cho vay ngang hàng chức năng (notary P2P lending model)
Trong mô hình cho vay ngang hàng chức năng, nền tảng trực tuyến sẽ cung cấp dịch vụ
kết nối đầu tư giữa các bên, nhưng khoản vay lại chủ yếu được bắt nguồn từ các ngân
hàng đối tác (Sơ đồ 2). Trong đó, các công ty công nghệ tài chính (FinTech) sẽ thực hiện
đánh giá rủi ro tín dụng của người đi vay và đồng thời cung cấp thông tin đó cho người
cho vay (hay nhà đầu tư). Sau đó các công ty FinTech này sẽ liên kết với các ngân hàng
trong giai đoạn tiếp theo khi thực hiện các khoản vay. Lợi ích của sự kết nối với các ngân
hàng chính là ở việc tạo ra tính thanh khoản cho các khoản vay cho các nhà đầu tư. Bởi
vì các ngân hàng sau đó sẽ chứng khoán hoá các khoản vay và sau đó chào bán cho các
nhà đầu tư có tổ chức trên thị trường tài chính.
904
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
Sơ đồ 2: Mô hình cho vay ngang hàng chức năng
Nền tảng cho vay trực tuyến
Người đi vay Người cho vay
Chứng khoán
hoá
Nhà đầu tư tổ
Ngân hàng trung gian
chức
Hiện nay có khá nhiều biến thể trong cách hoạt động của mô hình kinh doanh này
nhưng mô hình cho vay này là một trong những mô hình cho vay ngang hàng phổ biến
nhất hiện nay. Cụ thể, mô hình này được sử dụng bởi hầu hết các công ty FinTech ở Đức,
Hàn Quốc, và Hoa Kỳ.
2.3. Mô hình cho vay ngang hàng có đảm bảo (Guaranteed return P2P lending model)
Trong mô hình cho vay ngang hàng theo hình thức "lợi nhuận được đảm bảo", nền tảng
cho vay trực tuyến sẽ đóng vai trò là nhà bảo lãnh cho người đi vay.
905
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
Sơ đồ 3: Mô hình cho vay ngang hàng có đảm bảo
Nền tảng cho vay trực tuyến
Vốn tài trợ
Người đi vay Người cho vay
Thanh toán khoản vay
Trong những năm gần đây, mô hình cho vay này khá thịnh hành đặc biệt tại Trung
Quốc. Thật vậy, nghiên cứu của (Deer và các cộng sự, 2015) đã cho thấy một số nền tảng
cho vay lớn của Trung Quốc đã đứng ra đảm bảo cho người cho vay về việc sẽ thực hiện
hoàn trả số tiền vay cho họ miễn là những người cho vay này đảm bảo rằng họ có một
danh mục đầu tư đa dạng. Hơn nữa, một trong những nền tảng cho vay ngang hàng lớn
nhất ở Trung Quốc thậm chí còn cam kết một mức lợi tức cố định 12% trên vốn gốc cho
các nhà đầu tư bất kể mức độ rủi ro của khoản vay. Luật mới được chính quyền Trung
Quốc công bố vào tháng 8 năm 2016 cũng đã cấp phép cho hình thức này.
2.4. Mô hình cho vay ngang hàng dựa trên bảng cân đối kế toán (balance sheet model)
Trong mô hình cho vay dựa trên bảng cân đối kế toán, các công ty cung cấp nền tảng trực
tuyến sau khi ghi nhận các khoản vay trên bảng cân đối kế toán của mình thì sẽ lập tức
bán các khoản ghi chép này cho các nhà đầu tư có tổ chức hoặc các nhà đầu tư cá nhân
sẵn sàng tài trợ cho các khoản vay ấy. Trong trường hợp này, nền tảng trực tuyến sẽ có
thể huy động được vốn từ các nhà đầu tư và sau đó cung cấp các khoản vốn ấy cho người
đi vay. Khi đó đơn vị cung cấp nền tảng trực tuyến sẽ là người nhận được lãi vay từ người
đi vay. Tuy nhiên, nếu nền tảng trực tuyến bị sụp đổ thì nhà đầu tư sẽ khó có cơ hội nhận
lại được khoản tiền đã đầu tư của mình. Do đó có thể thấy, đây là mô hình có sự tương
đồng với các mô hình kinh doanh của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
906
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
Mô hình này khá phổ biến ở Úc và Canada và đặc biệt nổi bật ở Hoa Kỳ nhưng tập
trung cho vay tiêu dùng và bất động sản. Đơn cử, Wellesley là một nền tảng cho vay bất
động sản ngang hàng phát triển theo mô hình này. Theo đó, công ty sẽ có một nhánh tài
chính riêng dựa vào việc chuyển các khoản vay sang cho nền tảng cho vay trực tuyến.
Ngược lại, LendInvest hoạt động theo kiểu chuyển các khoản phải thu cho nền tảng cho
vay trực tuyến. Theo đó, nhà đầu tư sẽ nhận được các khoản thanh toán mà được thực
hiện cho LendInvest.
Sơ đồ 4: Mô hình cho vay ngang hàng dựa trên bảng cân đối kế toán
Chứng khoán hoá
Nhà đầu tư có tổ Bảng cân đối kế
Nhà đầu
chứctư có tổ Nhà đầu tư cá nhân toán của nền tảng
chức cho vay trực tuyến
P/t rủi ro TD
Dự phòng khoản
Provision of Nền tảng cho vay trực tuyến
Người đi vay vay
funds
Hoàn trả
2.5. Mô hình cho vay ngang hàng dựa trên tài trợ hoá đơn bán hàng
Trên thực tế, các doanh nghiệp thường sử dụng dịch vụ chiết khấu hóa đơn (hoặc bao
thanh toán) để tài trợ cho các hoạt động kinh doanh của mình. Bởi vì hoạt động này giúp
doanh nghiệp bán các khoản phải thu cho một bên thứ ba, qua đó gia tăng nguồn vốn bổ
sung cho hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, chỉ có trường hợp chiết khấu hoặc
bao thanh toán miễn truy đòi thì doanh nghiệp mới thực sự không có rủi ro bởi vì nếu
907
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
chiết khấu hoặc bao thanh toán có truy đòi thi rủi ro vỡ nợ vẫn thuộc về doanh nghiệp sở
hữu khoản phải thu này.
Để hạn chế rủi ro tín dụng, các tổ chức trung gian chỉ cung cấp dịch vụ chiết khấu
hoặc bao thanh toán miễn truy đòi cho những doanh nghiệp có doanh số bán hàng ở một
mức tối thiểu nào đó. Vì thế, hình thức này có thể không thích hợp cho các doanh nghiệp
khởi nghiệp, người làm nghề tự do và những đơn vị kinh doanh nhỏ lẻ khác. Và đó cũng
là lý do mà các nền tảng cho trực tuyến đã tận dụng khai thác vào phân khúc thị trường
tiềm năng này. Các dịch vụ mà nền tảng trực tuyến này cung cấp bao gồm: xử lý hóa đơn
tự động và cung cấp thanh khoản cho các hoá đơn nhanh chóng với ít điều kiện ràng hơn
so với các tổ chức tài chính thông thường.
Có thể thấy, các công ty FinTech hoạt động theo mô hình này chính là đối thủ cạnh
tranh trực tiếp với các ngân hàng truyền thống và công ty bao thanh toán trong việc quản
lý khoản phải thu và cung cấp khoản ứng trước. Trong một số trường hợp, các nền tảng
cho vay trực tuyến còn cho phép các khoản đầu tư theo hình thức này được chứng khoán
hóa trước khi được mua bán trên thị trường thứ cấp.
Trên thực tế, tuỳ theo môi trường pháp lý và sự phát triển công nghệ, các nước sẽ phát
triển các mô hình kinh doanh ngang hàng khác nhau. Tính đến năm 2018, trong các mô
hình kinh doanh trên, phổ biến nhất là mô hình cho vay ngang hàng theo kiểu cổ điển và
dự kiến sẽ duy trì xu hướng này trong tương lai gần. Điều này xuất phát từ sự gia tăng
mạnh mẽ của mô hình này ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, các mô hình cho vay
khác cũng đang được áp dụng rộng rãi trên toàn cầu và được dự đoán sẽ vượt qua mô
hình cổ điển trong vài năm tới (Omarini, 2018).
Dưới đây là một số ví dụ về các mô hình kinh doanh cho vay ngang hàng trên thế giới
và các mô hình này cũng đã được phân loại theo loại hình tín dụng. Lưu ý rằng, các ví dụ
này chỉ nhằm giới thiệu một số mô hình kinh doanh tương ứng với các mục đích vay chứ
không phải là bức tranh toàn diện về thị trường.
908
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
Bảng 1: Một số ví dụ về các mô hình kinh doanh cho vay ngang hàng trên thế giới
Mô hình kinh doanh cho vay ngang hàng
Mô hình
Mô hình Mô hình có Mô hình dựa trên
Mô hình cổ điển dựa trên
chức năng đảm bảo tài khoản kế toán
hoá đơn
Funding secure
Zopa Lending
Tín dụng Dianrong
Lending club SoFi
tiêu dùng PPDai
networks Auxmoney
Lendable
Loại Market Invoice
Funding circle
tín Investly
Tín dụng ThinCats
dụng Dianrong Finexkap
doanh LendInvest
PPDai Demica
doanh Assetz Capital
CRX
Saving Stream
Markets
Tín dụng
Wellesley Wellesley
bất động
LendIntext LendIntext
sản
Nguồn: theo báo cáo năm 2017 của Hội đồng ổn định tài chính (Committee on the Global Financial
System, Financial Stability Board)
3. Tình hình hoạt động cho vay ngang hàng trên thế giới
3.1. Tổng quan về cho vay ngang hàng trên thế giới
Theo dữ liệu thống kê của trung tâm Cambridge về tài chính thay thế (Cambridge Centre
for Alternative Finance), doanh số cho vay ngang hàng trên toàn thế giới vào năm 2018
khoảng trên 207 tỷ USD. Con số này đã tăng đến gần 2433 % so với năm 2013 (Hình 1).
Hiện nay, Trung Quốc, Mỹ và Anh là 3 quốc gia có doanh số cao nhất về cho vay
ngang hàng trên thế giới. Ngoài ra dịch vụ này cũng bắt đầu xuất hiện và tăng trưởng một
số quốc gia phát triển khác ở Châu Âu và Châu Á như Nhật, Pháp, Đức, Australia hay
New Zealand. Dù không phải là nơi xuất hiện nền tảng đầu tiên về cho vay ngang hàng
nhưng Trung Quốc hiện đang dẫn đầu thế giới về doanh số cho vay ngang hàng với hơn
207 tỷ USD trong năm 2018, chiếm hơn 85% thị phần của thị trường cho vay ngang hàng
của 9 quốc gia dẫn đầu trên thế giới, và cao hơn gần 8 lần so với quốc gia đứng thứ hai
là Mỹ (Bảng 2).
909
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
Hình 1. Doanh số cho vay ngang hàng tại 9 thị trường dẫn đầu thế giới (2013-2018)
400000
350000
300000
250000
200000
150000
100000
50000
0
Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018
Nguồn: tác giả tính toán từ số liệu của trung tâm Cambridge về tài chính thay thế
Bảng 2. Doanh số cho vay ngang hàng tại 9 quốc gia dẫn đầu trên thế giới (Đơn vị
tính: triệu USD)
Quốc gia Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018
Trung Quốc 5,520 23,820 97,580 201,310 327,800 207,590
Mỹ 3,176 8,742 21,282 23,420 17,340 27,420
Anh 751 2,135 3,667 4,810 6,005 6,359
Nhật Bản 79 108 326 171 236 873
Đức 48 116 205 227 448 813
Pháp 57 117 181 277 431 494
Australia 2 16 70 165 365 321
New
- 14 245 178 242 222
Zealand
Tổng 9,633 35,068 123,556 230,558 352,867 244,092
Nguồn: Số liệu tác giả tính toán sử dụng dữ liệu của trung tâm Cambridge về tài chính thay thế
3.2. Tình hình hoạt động cho vay ngang hàng tại một số quốc gia trên thế giới
❖ Hoạt động cho vay ngang hàng tại Anh
Hoạt động cho vay ngang hàng đã phát triển nhanh chóng ở Anh. Hiện nay, nó đóng góp
quan trọng vào việc cung cấp các khoản vay mới cho các doanh nghiệp nhỏ. Ngoài ra còn
có một khối lượng lớn và ngày càng tăng trong hoạt động cho vay tiêu dùng tín chấp
910
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
ngang hàng, dù vẫn chiếm một phần nhỏ trong tổng thị trường cho vay tiêu dùng không
có thế chấp tại Anh.
Theo Zhang và các cộng sự (2016), trong cơ cấu cho vay ngang hàng tại Anh vào
năm 2015, cho vay tiêu dùng ngang hàng là lớn nhất trong danh mục, tiếp theo là cho vay
kinh doanh ngang hàng và cho vay bất động sản ngang hàng. Trong tổng số tiền tài trợ
3.2 tỷ bảng Anh huy động được trên thị trường 'tài chính thay thế' của Anh trong năm
2015, khoảng 2.4 tỷ bảng Anh là do cho vay ngang hàng. Ngoài ra, theo Zhang và cộng
sự (2016), so sánh với tổng nguồn vốn tài trợ của năm 2015 so với năm trước, mức tăng
trưởng nhanh nhất là từ nguồn vốn cộng đồng (crowd funding), tăng gần 400%. Cho vay
kinh doanh ngang hàng đứng ở vị trí lớn thứ hai. Cho vay tiêu dùng ngang hàng tăng
trưởng chậm hơn nhưng vẫn tăng hơn gấp đôi so với năm 2014.
Có 8 nền tảng cho vay ngang hàng được thành lập tại Anh, tất cả đều là thành viên
của Hiệp hội cho vay ngang hàng tại Anh. Các mô hình kinh doanh của của những nền
tảng này khác nhau đáng kể.
Zopa – nền tảng ra mắt vào năm 2005 với tư cách là nền tảng cho vay ngang hàng đầu
tiên trên thế giới - chỉ cung cấp cho vay tiêu dùng tín chấp (bao gồm cả các doanh nghiệp
tư nhân nhỏ). Tương tự, LendingWorks cũng chỉ hỗ trợ cho vay tiêu dùng không có thế
chấp. Funding Circle - ra mắt vào năm 2010 hoàn toàn không tham gia vào cho vay tiêu
dùng, thay vào đó chỉ hỗ trợ cho vay tín chấp đối với doanh nghiệp nhỏ và cho vay có
bảo đảm bằng tài sản là nhà ở. ThinCats cũng hỗ trợ cho vay kinh doanh không có bảo
đảm và cho vay có bảo đảm bằng tài sản nhà ở. Hai nền tảng khác - LendInvest và
Landbay - chỉ hỗ trợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản. RateSetter là nền tảng cho vay trực
tuyến duy nhất có hỗ trợ cho vay đối với cả ba loại hình cho vay – cho vay tiêu dùng
không có thế chấp, cho vay kinh doanh nhỏ và cho vay bất động sản không thế chấp.
Trong khi đó, thành viên thứ tám của Hiệp hội cho vay ngang hàng, Market Invoice, có
một mô hình kinh doanh khác với các thành viên còn lại. Trong đó, nền tảng này cung
cấp các khoản cho vay ngang hàng được bảo đảm dựa trên hóa đơn.
❖ Hoạt động cho vay ngang hàng tại Mỹ
Mỹ cùng với Anh là hai quốc gia tiên phong trong việc phát triển cho vay ngang hàng.
So với Anh, hoạt động cho vay ngang hàng của Mỹ tập trung hơn nhiều vào tín dụng tiêu
dùng. Hoạt động này tại Mỹ đã phát triển xa hơn so với khái niệm ban đầu về liên kết
trực tiếp giữa người cho vay và người đi vay cá nhân, thay vào đó, các khoản vay còn
được cung ứng cho các nhà đầu tư tổ chức.
911
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
Trong các nền tảng cho vay ngang hàng tại Mỹ, các nền tảng lâu đời nhất và lớn nhất
như Prosper và Lending Club được thành lập để cung cấp dịch vụ cho vay tiêu dùng và
cho vay sinh viên. Các nền tảng khác được thiết lập tập trung vào cho vay tiêu dùng là
Avant (tập trung vào các khoản vay cá nhân) và SoFi (chuyên cung cấp các khoản cho
vay sinh viên). Các nhà cung cấp hàng đầu về các khoản vay thị trường cho doanh nghiệp
nhỏ là OnDeck, CAN Capital và Kabbage. Trong khi đó, GroundFloor and LendingHome
cung cấp tài chính thế chấp ngắn hạn.
Theo nghiên cứu của báo cáo của tổ chức Morgan Stanley (2015), tổng mức cho vay
ngang hàng tại Mỹ vào khoảng 12 tỷ đô la vào cuối năm 2014. Đây vẫn là một phần nhỏ
- khoảng 0.36% - trong tổng số cho vay tiêu dùng không có bảo đảm của Mỹ. Tỷ trọng
này khá tương tự với số liệu ở thị trường Anh.
❖ Hoạt động cho vay ngang hàng tại Châu Âu
Hiện vẫn chưa có số liệu thống kê chính xác về sự phát triển của cho vay ngang hàng tại
Châu Âu. Có một Hiệp hội Tài chính Cho vay ngang hàng tại Châu Âu nhưng hiện tại
chỉ có một số các thành viên. Tuy vậy, mối quan tâm đến cho vay ngang hàng đang phát
triển tại khu vực này. Theo trang web Altfi, khối lượng cho vay ngang hàng năm 2015
trên khắp Châu Âu lên tới khoảng 674 triệu euro (Shoker, 2016).
❖ Hoạt động cho vay ngang hàng tại Trung Quốc
Nền tảng cho vay trực tuyến đầu tiên của Trung Quốc tên là PPDAI ra đời vào năm 2007. Kể
từ đó đến nay, thị trường cho vay ngang hàng của Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng với
khoảng 2,595 nền tảng ra đời vào năm 2015. Vào năm 2018, số liệu từ Trung tâm Cambridge
về tài chính thay thế cho thấy doanh số cho vay trên thị trường này tại Trung Quốc đang đứng
đầu trên thế giới. Vào tháng 6/2018, các nền tảng cho vay ngang hàng đã giúp kết nối khoảng
4.1 triệu nhà đầu tư và 4.3 triệu người đi vay. Quy mô cho vay ngang hàng tại quốc gia này
gấp nhiều lần quy mô trên thị trường Mỹ và các quốc gia khác. Hiện có hơn 2,000 các nền
tảng cho vay ngang hàng tại Trung Quốc. Tuy nhiên, có những lo ngại đáng kể về gian lận,
đặc biệt là kể từ thất bại đầu năm 2016 của nền tảng Ezubo, làm mất khoảng 11 tỷ đô la của
các nhà đầu tư. So với Mỹ và Anh, môi trường pháp lý và quy định cho vay ngang hàng tại
Trung Quốc, có thể nói, là chưa phát triển.
4. Gợi ý một số chính sách cho phát triển hoạt động cho vay ngang hàng tại Việt Nam
Trong những năm gần đây, hoạt động cho vay ngang hàng tại Việt Nam đã bắt đầu nhen
nhóm với sự xuất hiện của hơn 40 công ty gồm sở hữu nước ngoài lẫn trong nước. Theo
thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong số các công ty cung cấp dịch vụ cho
vay ngang hàng đang hoạt động ở Việt Nam, có 10 công ty có nguồn gốc từ Trung Quốc
912
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
và một số công ty từ Indonesia và Singapore (theo Hà Văn Dương, 2019). Với sự tăng
trưởng không ngừng của các ứng dụng công nghệ tài chính hiện nay và sự tăng trưởng
không ngừng của hoạt động này của các nước láng giềng như Indonesia và Trung Quốc,
Việt Nam được dự báo là một trong những quốc gia sẽ có tăng trưởng vượt bậc trong hoạt
động cho vay ngang hàng. Tuy nhiên, có thể nhận thấy các nhà làm chính sách và các nhà
quản lý chưa bắt kịp với sự phát triển nhanh chóng của hoạt động cho vay ngang hàng
hiện nay.
Thật vậy, tại Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt
động cho vay ngang hàng. Hầu hết các dịch vụ được cung cấp từ các nền tảng trực tuyến
cho vay ngang hàng chỉ dừng lại ở tính chất như là dịch vụ tư vấn đầu tư. Bởi vì hoạt
động cho vay ở Việt Nam được xem là hoạt động kinh doanh đặc thù, thuộc một phần
của hoạt động kinh doanh ngân hàng và chỉ có thể được thực hiện bởi các tổ chức tín
dụng hoặc các định chế tài chính chuyên biệt. Các tổ chức tài chính này không chỉ phải
đáp ứng các yêu cầu về pháp lý mà hoạt động của các tổ chức này còn bị giám sát chặt
chẽ bởi Ngân hàng Nhà nước.
Do đó để phát triển hoạt động cho vay ngang hàng tại Việt Nam, đòi hỏi phải có hành
lang pháp lý tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển. Quan trọng hơn hết, hành lang
pháp lý phải hướng đến đảm bảo tính an toàn và phát triển bền vững cho toàn bộ hệ thống
tài chính. Cụ thể hành lang pháp lý nên tập trung vào các vấn đề sau:
Về phía Chính phủ: Cần sớm xây dựng hành lang pháp lý để quản lý hoạt động cho
vay ngang hàng. Trong đó những biện pháp quản lý rủi ro hệ thống và những quy định
pháp lý chuẩn áp dụng cho hoạt động cho vay ngang hàng cần sớm được ban hành.
Về phía NHNN: Cần sớm ban hành các văn bản chính sách quy định hướng dẫn chi
tiết cho các tổ chức cung ứng dịch vụ cho vay ngang hàng. Các quy định về cấp phép
hoạt động, quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động và đặc biệt các quy định về công bố
thông tin liên quan đến quy trình hoạt động kinh doanh và nghĩa vụ, trách nhiệm của các
đơn vị tham gia vào hoạt động cho vay ngang hàng.
Trước mắt, NHNN cần ban hành các văn bản hướng dẫn liên quan đến cho vay ngang
hàng kết nối trực tiếp người đi vay với người cho vay (nhà đầu tư) theo kiểu mô hình cổ
điển. Chưa nên mở rộng cho sự tham gia của các ngân hàng và các định chế tài chính
trong các mô hình khác (như mô hình cho vay ngang có bảo đảm, cho vay ngang hàng
dựa trên chức năng hoặc dựa trên hoá đơn) và đặc biệt không cho phép các công ty cho
vay ngang hàng được quyền huy động vốn để cho vay.
Về phía các công ty triển khai hoạt động cho vay ngang hàng: cần tuân thủ pháp luật
và phối hợp chặt chẽ cùng với Chính phủ, NHNN trong việc xây dựng và hoàn thiện quy
913
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
trình quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Cần chú trọng đến hoạt động đầu tư nâng
cấp cơ sở hạ tầng, cơ sở dữ liệu lớn, nâng cao kiến thức và kỹ năng quản lý rủi ro song
song với việc xây dựng đội ngũ chuyên gia có hiểu biết chuyên sâu cả về lĩnh vực tài
chính và công nghệ thông tin.
Điều cần làm trước tiên, các cơ quan quản lý cần có những chương trình nhằm gia
tăng nhận thức của các bên tham gia để họ có những hiểu biết rõ hơn về lợi ích lẫn rủi ro
khi tham gia vào hoạt động này. Và, các tổ chức cung ứng dịch vụ cho vay ngang hàng
cần tập trung đầu tư vào các nền tảng công nghệ nhằm đảm bảo được tính minh bạch và
hạn chế các rủi ro nhằm tránh ảnh hưởng tiêu cực đến sự an toàn của thị trường tài chính.
Cuối cùng, để lựa chọn một mô hình kinh doanh phù hợp, các công ty, tổ chức tham gia
vào thị trường này cần dựa trên các yếu tố như khung pháp lý ban hành, khả năng cung
ứng, đồng thời cần tham khảo mô hình tại các quốc gia để có thể tránh được những sai
lầm và rủi ro từ các “vết xe đổ” của các tổ chức trên thế giới.
Tài liệu tham khảo
Hà Văn Dương (2019), Cho vay ngang hàng: Cơ chế vận hành và mô hình kinh doanh, Tạp chí
Thị trường Tài chính Tiền tệ số 8/2019
Committee on the Global Financial System, Financial Stability Board, (2017). Fintech Credit.
Market structure, business models and financial stability implications
Deer, L., Mi, J., & Yuxin, Y. (2015). The rise of peer-to-peer lending in China: An overview and
survey case study. Association of Chartered Certified Accountants.
Mateescu, A. (2015). Peer-to-Peer lending. Data & Society Research Institute, 2.
Milne, A., & Parboteeah, P. (2016). The business models and economics of peer-to-peer lending.
Omarini, A. E. (2018). Peer-to-peer lending: business model analysis and the platform dilemma.
Stanley, M. (2015). Global marketplace lending: Disruptive innovation in financials. New York:
Morgan Stanely Blue Paper.
Shoker, S. (2016). A Booming P2P Market for Continental Europe. Retrieved from
http://www.altfi.com/article/1648_2016_a_booming_p2p_market_for_continental_europe
Zhang, B. Z., Baeck, P., Ziegler, T., Bone, J., & Garvey, K. (2016). Pushing boundaries: The
2015 UK alternative finance industry report. Available at SSRN 3621312.
914
nguon tai.lieu . vn