Xem mẫu

LIỆU PHÁP GESTALT BS. NGUYỄN MINH TIẾN Khi Đảng Quốc xã lên cầm quyền ở Đức vào năm 1933, một cặp vợ chồng người Đức (cả hai đều là những nhà phân tâm) đã rời quê nhà sang Hà Lan, rồi sau đó đi cư sang Nam Phi để thành lập ở đó một Viện nghiên cứu về Phân tâm học. Và đến năm 1942, họ cho xuất bản một quyển sách mà sau đó được biết với tên gọi là Liệu pháp Gestalt. Frederick Saloman (Fritz) Perls xuất thân là một nhà phân tâm, và đã chịu ảnh hưởng của nhiều nhà phân tâm danh tiếng cùng thời, trong đó có Theodore Ferenczi, Karen Horney, Otto Rank, Wilheim Reich và Harry Stack Sullivan. Trong buổi đầu hành nghề tại Đức, Perls đã rất say mê với những tư tưởng tiến bộ như trào lưu Bauhaus trong nghệ thuật và kiến trúc, triết lý hiện sinh, sân khấu và vũ thuật. Perls cũng chịu ảnh hưởng bởi Tâm lý học Gestalt – một trường phái tâm lý học tại Đức vào khoảng đầu thế kỷ 20, do May Wertheimer, Wolfgang Kohler và Kurt Koffka sáng lập. Những tác giả này chủ trương đi ngược lại vói xu hướng chung của tâm lý học vào thời đó là tìm hiểu các trải nghiệm của con người bằng cách chia cắt chúng thành ra những thành phần riêng lẻ. Tâm lý học Gestalt chủ trương rằng những thành phần cấu thành các trải nghiệm của con người không thể được khảo sát một cách riêng lẻ, mà phải được xem xét đưới dạng những “tổng thể”. Họ sử dụng chữ gestalt, một từ trong tiếng Đức, với ý nghĩa là “một tổng thể hợp nhất với các tính chất không đơn thuần được tạo nên bởi tổng số các thành phần và các tương tác giữa các thành phần ấy”. Perls cũng chịu ảnh hưởng bởi Học thuyết về Sinh thể (organismic theory) của Kurt Golstein và lý thuyết về Trường (field theory) của Kurt Levin. Mặc dù Fritz Perls được xem như người sáng lập trường phái trị liệu Gestalt, nhưng vợ ông, Laura Perls, cũng là người đồng sáng lập và cùng ông viết tác phẩm Ego, Hunger and Aggression (Cái Tôi, Sự Khao khát và Hung tính). Lý thuyết Trường-Tiến trình (field-process) của Tâm lý học Gestalt và Chủ nghĩa nhân văn – hiện sinh của Buber và Tillich là trọng tâm trong lý thuyết của trường phái trị liệu Gestalt và điều này là do công đóng góp và ảnh hưởng của Laura Perls. Khi nhận thấy Nam Phi bắt đầu chuyển sang chế độ độc tài và phân biệt chủng tộc, hai vợ chồng rời nước này sang Hoa Kỳ vào năm 1946, thành lập tại New York một nhóm nghiên cứu về tâm lý trị liệu dựa trên những nền tảng học thuyết mới của Perls và chịu ảnh hưởng bởi các phương pháp phân tích của Wilheim Reich, Harry Stack Sullivan và Karen Horney. Những nhà sáng lập trường phái trị liệu Gestalt cùng với các đồ đệ của Sullivan, Horney và Reich đã chống lạ khuynh hướng phân tâm học cổ điển của Freud. Vào thời đó, những nhà phân tâm được xem như những “tấm bình phong trống trơn” (blank screen); họ không thể hiện bất cứ điều gì mang tính cá nhân của mình để cho những bệnh nhân có thể thực hiện việc phóng chiếu (projection) và tạo lập tình trạng “nhiễu tâm chuyển di” (transference neurosis). Cách làm này rất khác xa với những nhà phân tâm theo các xu hướng mới tiến bộ hơn ngày nay như xu hướng “quan hệ đối tượng” hoặc “tâm lý học bản ngã” (self psychology). Những nhà trị liệu Gestalt xem những nhà trị liệu phân tâm chiếm giữ quá nhiều quyền lực so với bệnh nhân và đã không dành sự lưu tâm đầy đủ đến những gì thực sự đang diễn ra trong mối quan hệ giữa nhà trị liệu và thân chủ. Họ tin rằng trị liệu phân tâm không đủ hiệu quả trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng nơi thân chủ. Họ chủ trương thiết lập một hệ thống trị liệu hướng đến phát huy sự tăng trưởng thay vì chỉ chú ý đến việc làm giảm thiểu trạng thái tâm bệnh, họ dựa vào những trải nghiệm thật sự nhiều hơn là chỉ dựa vào sự diễn giải những thực tại không thể trải nghiệm được; và họ dựa trên những mối quan hệ tiếp xúc chắc chắn chứ không phải ch tái diễn lại những trải nghiệm thông qua tình trạng “nhiễu tâm chuyển di”. Phương pháp được áp dụng ở đây gọ là “nhận biết (ngộ) thông qua tiếp xúc đối thoại” (awareness through dialogic contact). Lý thuyết của Liệu pháp Gestalt, giống như trong Lý thuyết về Trường, chủ trương xem xét Trường (field) trong một tổng thể và nhấn mạnh đến “tiến trình” (tức là quá trình phát triển hoặc các hành động diễn tiến theo thờ gian) hơn là chỉ quan tâm đến những trạng thái tĩnh tại. Giống như một liệu pháp có khuynh hướng “hiện sinh” (experiential), liệu pháp Gestalt nhấn mạnh đến sự hiện hữu đúng như những gì con người có thể trải nghiệm được và không đặt nặng vào những cách thức lý giải trừu tượng. Nhà trị liệu Gestalt tin vào khả năng của con người trong việc tăng trưởng, tự điều chỉnh và tự bình phục thông qua việc tiếp xúc giữa người với người và khả năng nội thị (insight). Mặc dù có những giới hạn về mặt sinh học - di truyền, bản ngã của con người vẫn được xem như một tiến trình có thể phát triển thông qua các tương tác xã hội chứ không phải do sự xung đột giữa những tác động dồn nén về mặt xã hội và những bản năng sinh học. Mối quan hệ trị liệu trong liệu pháp Gestalt là một sự tiếp xúc hay gắn kết rất chủ động và thực thụ giữa con người của nhà trị liệu và con người của thân chủ dựa trên khuôn mẫu đối thoại có tính hiện sinh, chứ không nhằm giữ một khoảng cách xa “trung tính” để thúc đẩy sự hình thành một nhiễu tâm chuyển di như trong liệu pháp phân tâm. Và giống như một liệu pháp dựa trên cơ sở hiện tượng học (phenomenological therapy), liệu pháp Gestalt thay thế phương pháp liên tưởng tự do trong phân tâm học bằng phương pháp luận về một sự “tỉnh ngộ có trọng điểm” (focused awareness). Cách tiếp cận trên cơ sở hiện tượng học xem tất cả những gì có được từ sự trả nghiệm tức thời là những dữ liệu có tính chắc chắn, chứ không phải những dữ liệu rút ra từ quá khứ hoặc suy diễn theo lý thuyết. Phương pháp hiện tượng học cố gắng “làm sạch” sự nhận biết của cả nhà trị liệu lẫn thân chủ, theo cách thức giống như lau sạch bụi mờ trên một tấm gương. Việc hướng dẫn con người sử dụng các cảm nhận của chính mình để đạt đến khả năng nội thị khiến cho quan điểm hiện sinh về tiềm năng và trách nhiệm cá nhân trở thành hiện thực. Vói cách thức đó, con người có thể có được những công cụ để hiểu biết về chính họ cũng như về người khác. Họ học được cách nhận diện và chấp nhận những nhu cầu, sở thích, ham muốn, động cơ và các giá trị của chính mình. Ngoài ra, bằng cách học được cách nhận biết các tiến trình nhận biết của chính mình, các thân chủ cũng sẽ học được cách điều hòa chính bản thân mình theo cách thức ít bóp méo ý thức của họ hơn. Liệu pháp Gestalt là một phương pháp dựa trên hiện tượng học thực nghiệm. Thân chủ được hướng dẫn và khuyến khích thực hiện những hành vi mới với mục đích đạt đến sự hiểu biết bản thân tốt hơn. Bằng cách đề xuất những hành vi mới như những thực nghiệm hiện tượng học, nhà trị liệu có thể hướng dẫn thân chủ thay đổi hành vi thông qua sự nhận biết bản thân một cách tự nhiên chứ không thông qua những chương trình chỉnh sửa hành vi như trong liệu pháp hành vi. LÝ THUYẾT VỀ NHÂN CÁCH Trường Sinh thể - Môi trường (organism-environment field) Trường phái Gestalt xem xét con người và môi trường sống trong một tổng thể không tách biệt, dựa trên sự tương tác giữa con người và môi trường sống (organism-environment field). Một con người không thể được xem xét tách rời khỏi Trường mà người này sinh sống, đặc biệt là không thể xem xét người ấy tách rời khỏi các tương tác giữa người với người trong Trưòng ấy; và ngược lại cũng không thể xem xét môi trường sống mà không thông qua nhãn quan của một con người. Thậm chí nhu cầu cần được cô độc của một con người cũng có thể được định nghĩa trong mối quan hệ với những người khác. Trường được giới hạn bởi những đường biên giới. Đường biên giới tiếp xúc (contact boundary) có một chức năng kép: vừa giúp một con người có thể kết nối được với người khác, vừa giữ được sự tách biệt, độc lập của người ấy Sự tách biệt tạo nên và bảo tồn tính độc lập của một con người, đồng thời bảo vệ người ấy tránh xa các tác nhân gây hại. Nhưng chỉ khi đường biên giới ấy cho phép sự trao đổi tích cực xảy ra bên trong Trường thì mới có thể làm nên đời sống và sự tăng trưởng. Con người tăng trưởng khi họ tiếp xúc với những gì ban đầu là xa lạ, đặc biệt khi họ tiếp xúc và nhận biết về những người khác xung quanh. Các nhu cầu được giải quyết thông qua sự tiếp xúc. Con người hình thành nên sự cảm nhận về cái “Tôi” của mình bằng những quá trình tiếp xúc theo kiểu “tôi-với-anh” (I-though) hoặc “tôi-và-nó” (I-it), chứ một người không thể nhận biết cái “Tôi” của mình bằng cách xem xét một cái “Tôi” biệt lập. Bằng cách phân biệt giữa “ngã” (self) và “phi ngã” (not-self), thông qua sự vận hành các tiến trình “làm cho giống” (identification) và “làm cho khác” (alienation), con người luôn luôn định hướng cho khoảng không gian sống của mình và kiến tạo nên “một cảm nhận về con-người-mà-mình-đang-là” (a sense of who they are). “Tất cả những sự tiếp xúc đều là sự điều chỉnh đầy tính sáng tạo của sinh thể và môi trường sống” (F. Perls, 1952) (All contact is creative adjustment of the organism and environment). Tất cả các sinh thể đều sống trong môi trường của mình và đều phải điều chỉnh tùy theo hoàn cảnh của Trường. Nhưng chỉ điều chỉnh thôi thì chưa đủ. Con người cũng cần phải “định dạng” lại môi trường sao cho nó có thể đáp ứng được các nhu cầu và giá trị của mình. Đây chính là khía cạnh “sáng tạo” đã được nêu ở trên. Sự tiếp xúc có thể xảy ra mà con người có thể nhận biết được với nhiều mức độ khác nhau. Hầu hết các tương giao đều được thực hiện ở một mức độ rất quen thuộc khiến con người rất ít khi nhận biết được rằng tương giao ấy đang xảy ra. Chỉ khi tình huống sống có tính phức tạp, mới mẻ, khi có xung đột, hoặc khi các mô hình vận hành theo thói quen không có tác dụng thì mới cần đến việc người ấy phải nhận biết được hoạt động tiếp xúc của mình. Trong trường hợp người lành mạnh, khả năng nhận biết này có thể phát triển theo yêu cầu của tình huống sống. “Sự tiếp xúc (contact) chỉ có thể xảy ra khi ít nhiều có được sự hỗ trợ (support) cho nó xảy ra... Sự hỗ trợ là bất cứ điều gì có tác dụng thúc đẩy sự đồng hóa (assimilation) và thống hợp (integration) các trải nghiệm trong một con người, trong một mối quan hệ hoặc trong một xã hội...” (Perls, 1992). Sự hỗ trợ có thể có được từ thể chất của chúng ta, từ ngôn ngữ, tập tục, khả năng học hỏi, trí tuệ, cũng như từ lòng trắc ẩn của chúng ta. Sự đồng nhất hóa của một con người với những trải nghiệm của chính mình có lẽ là khía cạnh quan trọng nhất của khả năng “tự hỗ trợ” (self-support) và là khía cạnh trung tâm trong học thuyết về sự thay đổi của liệu pháp Gestalt. Một sự hỗ trợ đầy đủ là chức năng của toàn bộ Trường (field) và chức năng đó đòi hỏi phải có cả sự tự hỗ trợ của bản thân đương sự lẫn sự hỗ trợ từ môi trường. Khi một người cần có một môi trường an toàn để có thể nói ra được những cảm xúc đau khổ, người ấy ắt phải nhận ra được nhu cầu của mình, rồi sẽ tìm kiếm một hoàn cảnh có tính an toàn để nhu cầu ấy có thể được giải bày với người khác và cho phép những sự tương tác trở nên có hiệu quả. Một sự tiếp xúc tốt phải là sự lưu tâm đến những hoàn cảnh thực tại đang xảy ra. Sự định hướng cũng như hành động xảy ra ngay trong những tình huống thực tế ở hiện tại và chỉ có thể có được sự hỗ trợ ở “tại đây và ngay lúc này” (here and now). Khi một người nói về một chuyện xảy ra trong quá khứ thì sự nhớ lại và những cảm xúc có được về chuyện ấy vẫn là những điều xảy ra trong hiện tại. Tương tự, khi nói về tương lai, những cảm xúc và dự đoán của chúng ta cũng diễn ra ngay trong hiện tại (Perls, 1992). Khi một người liên hệ đến quá khứ (những niềm tin đã được nhập tâm từ xa xưa hoặc các sự việc chưa được hoàn tất) hoặc liên hệ đến tương lai (bi thảm hóa) mà không nhận ra mình đang như thế, khả năng nhận biết và chức năng sống của người ấy có thể bị phương hại. Ví dụ, khả năng tiếp xúc của một con người có thể bị phương hại khi anh ta nhầm lẫn một người nào đó trong hiện tại với hình ảnh của một người khác mà anh ta biết trong quá khứ. Một khả năng tự hỗ trợ đã từng thành công trong việc hỗ trợ cho sự tăng trưởng trước đây thì nay có thể trở nên có tác dụng hỗ trợ về mặt cấu trúc cho sự trì trệ. Gestalt Gestalt là một từ tiếng Đức có nghĩa là khuôn mẫu (pattern) hoặc hình thể, cấu trúc (configuration). Một gestalt được tạo nên bởi mối tương quan giữa Ảnh (figure) và Nền (ground). Mỗi Ảnh tượng trưng cho một trải nghiệm, nó được điều tiết tùy theo nhu cầu của đương sự đồng thời tùy theo nhu cầu và bản chất của tình huống mà người đó đang sống. Nền là toàn bộ bối cảnh bao gồm những yếu tố tương thích về mặt hiện tượng học mà từ đó xuất hiện nên Ảnh. Một cách lý tưởng thì Ảnh vẫn sẽ hiện rõ nét chừng nào mà sự quan tâm về nó vẫn còn trội bật, và chỉ mờ dần đi sau đó khi sự quan tâm chuyển sang một Ảnh khác kế tiếp. “Sự ý thức một cách tự nhiên về nhu cầu nào đang nổi trội và tổ chức được các chức năng của sự tiếp xúc chính là hình thức thể hiện về mặt tâm lý của khả năng tự-điều-hòa-của-sinh-thể (organismic-self-regulation)” (Perls và cs., 1951). Việc tạo lập một gestalt là một tiến trình liên tục trong đó điều được quan tâm đến nhiều nhất sẽ được nhận biết để có thể xử lý công khai, năng lượng tâm trí được đầu tư để làm rõ Ảnh (figure) và thực hiện những hành động để làm thỏa mãn những nhu cầu được tượng trưng bởi hình ảnh đó. Khi sự đầu tư này thành công (thỏa mãn được nhu cầu của đương sự vào lúc ấy), sự chú ý của đương sự vào Ảnh sẽ giảm đi và năng lượng tâm trí được sử dụng để đầu tư cho một ảnh khác. Khi sự đầu tư không thành công, gestalt vẫn còn trong trạng thái không hoàn tất và vẫn đòi hỏi sự chú tâm của đương sự. Ví dụ, một đứa trẻ tìm kiếm sự yêu thương nhưng không có được sự yêu thương thì sẽ trở nên hổ thẹn, oán hận hoặc cứ luôn khao khát chờ đợi. Gestalt chưa hoàn tất này có thể vẫn luôn vận hành ở nhiều tầng mức trong ý thức của đương sự. Khi không được bản thân nhận biết rõ, gestalt này vẫn trong trạng thái chưa hoàn tất và có thể ảnh hưởng đến lòng tự tôn, lên bản sắc cá nhân và lên các mối quan hệ liên cá nhân của đương sự trong nhiều năm. Nếu chức năng của đường biên giới là có tính uyển chuyển và không có sự nhiễu loạn, thì cá nhân đó vẫn có sự trao đổi và tăng trưởng. Nếu các đường biên giới quá cứng nhắc, một con người cũng sẽ trở nên cứng nhắc và kém linh hoạt, ví dụ như trường hợp những người có rối loạn nhân cách ám ảnh – cưỡng chế. Khi chức năng ở các đường biên giới có sự “dò rỉ”, đương sự sẽ mất đi sự rõ ràng về mặt bản sắc, rất hay giao động và cứ luôn phải điều chỉnh bản thân mình theo người khác. Ý nghĩa của một gestalt nằm trong mối liên hệ giữa trải nghiệm (ảnh) và bối cảnh (nền). Ý nghĩa luôn luôn có liên quan đến bối cảnh, cả về mặt thòi gian, không gian, văn hóa va con người. Nếu không hiểu biết về bối cảnh (Nền) thì một trải nghiệm (Ảnh) sẽ không có ý nghĩa gì cả. Nếu không có sự trải nghiệm, cái bối cảnh kia cũng trở nên không được nhận biết rõ ràng và cũng chẳng có ý nghĩa gì cả. Trong thực hành trị liệu, sự nhận biết rõ một gestalt được gọi là khả năng “nội thị” (insight). “Nội thị là sự định khuôn cho trường nhận thức (perceptual field) theo một cách thức sao cho thực tại được hiển thị một cách rõ rệt; chính trong sự tạo lập một gestalt mà các yếu tố tương thích với cái toàn thể” (Heidbreder, 1993). Khái niệm nội thị trong liệu pháp gestalt chính là sự nhận biết rõ về cấu trúc của Trường Cá nhân – Môi trường bao gồm sự tiếp xúc với cái ngã trong toàn bộ Trường cuộc sống của một con người. Vào thời điểm một người cần đến khả năng nhận biết có tính nội thị (insightful awareness) mà khả năng ấy không phát triển được thì chính đó là lúc có chỉ định tiến hành tâm lý trị liệu. Sự đồng hóa và tạo lập cái Ngã (Assimilation and Self Formation) Từ khi sinh ra cho đến lúc lìa đời, thông qua sự điều chỉnh một cách sáng tạo, con người đã phát triển nên một cảm nhận về cái Ngã (sense of self) nơi bản thân mình. Ngay từ khi vừa mới chào đời, cấu trúc sinh học của sinh thể đã bắt đầu tương tác với những điều xa lạ từ môi trường xung quanh, và dần dần tạo lập nên bản ngã – một thực thể sinh học-xã hội-tâm lý-tinh thần. Con người thống hợp tất cả các trải nghiệm trong cuộc sống, liên tục tương tác với Trường Sinh thể - Môi trường trong hiện tại, liên tục điều chỉnh bản thân cho phù hợp với môi trường và điều chỉnh môi trường cho phù hợp với bản thân. Mỗi người vào một thời điểm khi tương tác với một sự vật trong môi trường cũng đều có được một cảm nhận về cái Ngã của mình. Sự tương tác với một cái mới sẽ tạo nên một cảm nhận mới về cái Ngã. Quá trình “chuyển hóa về mặt tâm thần” (Mental metabolism) là một thuật ngữ có tính ẩn dụ được sử dụng trong liệu pháp Gestalt để mô tả các tiến trình hoạt động của những đường biên giới qua đó con người vừa duy trì được bản thân mình vừa có thể tăng trưởng. Con người trở nên nhận biết được các nhu cầu của mình, hướng về môi trường để hiểu biết chắc chắn những nguồn lực nào có thể giúp thỏa mãn những nhu cầu ấy, rồi chọn lựa để thu nhập vào và biến cái xa lạ kia trở thành một thành phần của cái Ngã. Đồng hóa (Assimilation) là tiến trình thống hợp những cái mới lạ từ bên ngoài và biến nó trở thành một phần trong cái Ngã của một con người. Tiêu hóa thức ăn cũng là một sự đồng hóa dưới hình thức sinh học. Những gì bên ngoài được xem là không cần thiết hoặc có thể gây nguy hại thì sẽ bị từ chối; chỉ những gì “có giá trị nuôi dưỡng” và được mong đợi mới có thể được dung nạp vào. Cái được đồng hóa sẽ trở thành một phần của cái Ngã; cái được du nhập vào mà không thông qua tiến trình đồng hóa thì vẫn sẽ còn là một “dị vật” và quá trình này được gọi là nhập tâm, hoặc nội phóng chiếu (introjection). Việc tự động không chấp nhận quan điểm của người khác thường xảy ra thông qua đối thoại hoặc đồng hóa. Việc tự động chấp nhận quan điểm của người khác mà không thông qua sự phân tích thường chỉ là sự “nhập tâm” nêu trên. Các ý tưởng du nhập vào bên trong tâm trí mà không thông qua sự xem xét (học tập, phân tích, suy nghĩ...) được gọi là những “sự vật hoặc đối tượng được nội hóa” (introjects). Các lời răn “Nên” hoặc “Không Nên” là những giáo điều không thông qua sự đồng hóa, được tiếp nhận từ khi còn nhỏ, và ăn sâu vào phần bản ngã của một con người. Những introject ấy sẽ làm hạn chế khả năng của con người trong việc cảm nhận rõ rệt về cái Ngã, cản trở sự rộng mở để tiếp nhận những trải nghiệm mới, loại bỏ khả năng sống hòa hợp và sống động của một con người, làm cho người đó không sống hết khả năng của mình. Những người có nhân cách lành mạnh có khả năng nhận biết rõ bản ngã, ít xảy ra những xung đột trong nội tâm, có khả năng tự thân cảm nhận những tính chất, cảm xúc và nhu cầu của bản thân. Cấu trúc nhân cách cùng với cảm nhận về bản ngã tất cả đều được tạo lập nên thông qua mối quan hệ tương tác giữa con người với môi trường sống. Trẻ em khi được đối xử với sự thương yêu và tôn trọng sẽ phát triển nên một cảm nhận về lòng tự tôn (sense of self-esteem). Trẻ em có thể trở nên những con người có khả năng và hữu ích nếu khi còn nhỏ trẻ được khuyến khích làm những hành vi thử nghiệm, ứng phó, được phép sai lầm, được tạo cơ hội để có những lúc phải thất vọng và hụt hẫng, được học cách tương tác với thế giới xung quanh và được hướng dẫn cách xử lý các tình huống bất trắc bằng những cách thức phù hợp với khả năng và mức độ phát triển của trẻ. Trong quá trình sống, có nhiều lúc con người rơi vào thế bế tắc (impasse). Đó là những lúc không có được sự hỗ trợ từ bên ngoài, và đương sự không biết được liệu mình có thể tự lực để tồn tại được hay không nếu không có ai khác giúp đỡ. Lúc đó, đương sự có thể có một cảm nhận về tình huống vừa như một mối nguy, vừa như một cơ hội. Việc có ai đó đến cứu giúp sẽ khiến đương sự không nhận ra được là mình yếu kém về khả năng tự lực (tự hỗ trợ: self-support). Nếu không có sự cứu giúp từ người khác, tình thế bế tắc khi ấy có thể trở thành một cơ hội để đương sự thực hiện một điều mới mẻ và quan sát được điều gì sẽ xảy ra. Đây là một thực nghiệm và bằng cách thực nghiệm mà con người mới có thể học tập và tăng trưởng được. ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn